intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Quản lý giá của mặt hàng xăng dầu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:38

108
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: quản lý giá của mặt hàng xăng dầu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Quản lý giá của mặt hàng xăng dầu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

  1. LUẬN VĂN: Quản lý giá của mặt hàng xăng dầu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
  2. LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biế t, xăng dầu là một hàng hóa của th ị trường, hình thành và phát triển như thị trường các hàng hóa khác. Các quan hệ cung - cầu và giá c ả là yế u tố quyết định thị trường xăng dầu. Là một trong những yế u tố đầu vào của quá trình sản xuất và là năng lượng để phục vụ dân sinh, quốc phòng và an ninh, xăng dầu có một vai trò đặc biệt do được coi là một loạ i năng lượng quan trọng chưa thể thay thế được. Do tính chấ t đặc biệt của hàng hóa xăng dầu, các quốc gia đều có chính sách, qui hoạch, chiến lược về sản xuất tiêu th ụ và dự trữ xăng dầu nhằ m ổ n đ ịnh sản xuất và tiêu thụ, chống lại các cơn sốt xăng dầu của thế giới. Giá dầu tăng cao và diễn biến phức tạ p của giá dầu trong những năm gần đây đ ã trở thành tâm điểm nghiên c ứu và thảo luận chính sách trên phạm vi toàn cầu và của riêng rất nhiều quốc gia. Đó là hai lý do chính dẫn đến việc chọn lựa của em viế t về đề tài “ Quả n lý giá của mặt hàng xăng dầu trong điề u kiệ n hội nhập kinh tế q uốc tế”. Có ba vấn đề thường được đặt ra, một là nguyên nhân của biến động giá dầu và dự báo giá dầu, cả trong so sánh với giá cả các nguyên nhiên liệu khác. Hai là tác động của việc giá dầu tăng đối với nền kinh tế toàn cầu, khu vực, từng quốc gia và riêng Việt Nam. Ba là đối sách thích hợp của thế giới, khu vực, từng quốc gia trong đó có cả Việt Nam, nhất là việc quản lý thị trường xăng dầu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Bài viết này của em đề cập đến các vấ n đề trên và đ ồng thời sử dụng các kiến thức đã được các thầ y cô giảng viên trong khoa Quản trị kinh doanh cũng như các thầy cô giảng viên khác của trường cung cấp, trau dồi trước đó cùng với sự hiểu biết ít ỏ i của em về thị trường xăng dầu trong nước để có những nhìn nhận vừa mang tính khái quát hơn vừa mang tính cụ thể hơn đến Việt Nam - mộ t nước xuất khẩu dầu thô song lại lệ thuộc gần như hoàn toàn vào việc nhập khẩu các sản phẩm từ d ầu.
  3. CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG 1. Các khái niệm 1.1 . Giá sả n phẩm Tấ t cả các tổ chức thương mại và nhiều tổ chức phi thương mạ i đều đứng trước nhiệm vụ xác định giá cả cho sản phẩm và hàng hóa của mình. Vậ y giá cả được xác định như thế nào? Theo thông lệ từ ngày xưa thì người mua và người bán xác định giá trong quá trình thương lượng với nhau. Người bán thường chào giá cao hơn giá mà họ h y vọng được trả, còn người mua thì trả giá thấp hơn giá họ đã tính sẽ chấp nhận. Sau khi mặc cả, cuối cùng họ đ i tới thống nhất mộ t cái giá mà cả hai bên đều chấp nhận được. Giá cả là yếu tố cơ bả n quyế t định việc lựa chọn của người mua. Điều này cho đến nay vẫn đúng ở những nước nghèo đối với những nhóm dân cư không có tài sản khi đi mua sắm hàng tiêu dùng. Nhưng trong những thập kỷ gần đây, việc lựa chọn của người mua bắ t đầu chịu ảnh hưởng nhiều hơn của những yếu tố không phả i là giá. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc định giá sản phẩm: - Sự tồn tạ i: do sự cạnh tranh khốc liệt giữa các đối thủ cạnh trong ngành và ngoài ngành nên việc định giá có thể là giá thấp nhấ t để có thể tồn tại trong th ị trường đó. - Tố i đa hóa lợi nhuận: có một số doanh nghiệp, tổ chức xác định giá n hằm tố i đa hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp mình. - Dẫn đầu về th ị phần: là xác định giá nhằ m chiế m về cho doanh nghiệp mình th ị trường rộng lớn nhấ t có thể . - Dẫn đầu về chất lượng sản phẩm: - Các mụ c tiêu khác như là: + Ngăn sự gia nhập vào thị trường hiện tại của đối thủ cạnh tranh nên xác đ ịnh giá thấp + Vì sự trung thành của người ủng hộ của giới bán lại hoặc để tránh sự can thiệp của chính phủ. Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến việc định giá - Th ị trường và nhu cầu: tỉ lệ cung cầu thị trường
  4. - Cạnh tranh: đố i thủ cạnh tranh có hay không, mạnh hay yếu… - Các yếu tố khác: Tình hình kinh tế như lạm phát, tăng trưởng, suy thoái, lãi xuất… 1.2 . Ho ạt độ ng quả n lý giá Hoạ t động quản lý giá là hoạt động quản lý để nhằm ngăn chặn các biế n động của giá cả và các tác động liên quan đến sự b iến động giá cả của mặt hàng đó. Hay xét về mộ t khía cạnh thì là độc quyền tuyệt đối, thị trường chỉ có một người bán. Đó có thể là mộ t tổ chức Nhà nước, một tổ chức độc quyền tư nhân có điều tiết hoặc tổ chức độc quyền tư nhân không có sự điều tiết. Trong từng trường hợp sự h ình thành giá cả d iễn ra khác nhau. Tổ ch ức độc quyền Nhà nước có thể sử dụng chính sách giá cả để đạ t được những mục tiêu khác nhau. Nhà nước có thể định giá thấp hơn giá thành nếu hàng hóa có ý nghĩa quan trọng đối với người mua không đủ khả năng mua nó với giá đầy đủ . Giá cả có thể được xác đ ịnh với ý đồ bù đắp chi phí hay có được thu nhập khác, cũng có thể giá cả được xác đ ịnh rất cao để giảm tối đa mức tiêu dùng. Trong trường hợp tổ chức độc quyền có điều tiết Nhà nước cho phép công ty xây dựng định giá đảm bảo “mức lợi nhuận công bằng”, để doanh nghiệp có khả năng duy trì sản xu ất và trong trường hợp cần thiế t thì mở rộ ng sả n xuất. Ngược lạ i, trường hợp tổ chức độc quyền không điều tiết doanh nghiệp tự ý xác đ ịnh giá miễ n là giữ được thị trường. Tuy nhiên do một số n guyên nhân không phải bao giờ doanh nghiệp cũng định giá tối đa trong ch ừng mực có thể được. Vì họ sợ sẽ bị áp dụng sự đ iều tiế t của Nhà nước và không muốn thu hút đối thủ cạnh tranh, mu ốn xâm nhập nhanh hơn vào toàn bộ chiều sâu của thị trường nhờ giá cả không cao. Như vậ y có thể là những vấn đề chính sách giá cả thay đổi tùy theo kiểu thị trường. Trừ trường h ợp ngoại lệ là các thị trường cạnh tranh hoàn hảo (nhiều người mua và nhiều người bán), các doanh nghiệp đều phải có phương pháp xác định giá ban đầu cho hàng hóa của mình. 2. Sự cầ n thiết phải quản lý giá:
  5. Trong một số mặt hàng và một số lĩnh vực mang tính chất quan trọng, có ảnh hưởng sâu sắc, tác độ ng mạnh mẽ đế n các yếu tố kinh tế khác như mặt hàng xăng dầu, điện hay lĩnh vực Ngân hàng,… cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước. Vì những tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kinh tế và các cân đố i vĩ mô, tới nguồn thu ngân sách, ảnh hưởng tới hoạ t động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh, tới tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp, các vấn đề liên quan tới ngành công nghiệp có mặt hàng cần phải quản lý ví dụ như mặ t hàng xăng dầu thì liên quan tới ngành công nghiệp khai thác, chế biến hay nghiên cứu sản phẩm có thể thay thế xăng dầu vì đây là nguồn tài nguyên có hạn. Khi có sự quản lý đúng đắ n từ Nhà nước, chúng ta có thể dự báo được xu hướng biến động của thị trường giá cả cùng các tác nhân gây ra và đưa ra các giải pháp xử lý nhanh nhất, mang lại hiệu quả nhất cho sự thay đổ i này. Và tấ t nhiên kèm theo đó là quản lý được những tác động cả tiêu cực lẫn tích c ực đến nền kinh tế thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Ngoài việc có thể bảo vệ nền kinh tế quốc dân, sự quản lý của Nhà nước trong một số mặt hàng, lĩnh vực quan trọng cũng chính là sự bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, xét về góc độ vĩ mô, còn hơn cả sự thiệt thòi mà độc quyền hay quản lý của Nhà nước mang lại.
  6. CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ GIÁ CỦA MẶT HÀNG XĂNG DẦU TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1. Tình hình biến động giá xăng dầu trên thế g iới 1.1.Diễn biến giá xăng dầu và nguyên nhân: Nhìn lạ i th ị trường dầu mỏ trong 4 thập niên qua, chúng ta dễ dàng nhận thấy giá dầu có những diễn biến phức tạp. Trong su ốt 10 năm từ 1960 đến 1970, giá dầu thô trên thị trường thế giới được duy trì ở mức thấp, không thay đổi với giá 1,8 USD/ thùng. Khi cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ nhất xảy ra vào đầu thập niên 70, giá dầu mỏ đã tăng từ 3,2 USD/thùng lên 11,56 USD/thùng tăng 3,61 lần. Tháng 2 năm 1982, khi cuộc xung đột giữa Iran và Irac xả y ra, Iran độ t ngộ t ngừng xuấ t khẩu 2 triệu thùng dầu mỗi ngày gây ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ 2 đẩy giá dầu tăng lên 34 -35 USD/thùng, có thời điểm lên tới 40USD/thùng. Ngày 17/1/1991, chiến tranh vùng vịnh xả y ra, Irac tấn công Côoet giá dầu thô tăn đột biến lên đến 38-40 USD/thùng trong 2 ngày 17 và 18/1/1991, sau đó giảm nhanh xuống 16 -18USD/thùng do tổ chức các nước xuấ t khẩu dầu mỏ (OPEC) quyết đ ịnh nhanh chón g tăng sản lược dầu thô thêm 1 triệu thùng 1 ngày, đưa tổng sản lượng khai thác của tất cả các thành viên của tổ chức này lên đến 23,66 triệu thùng mỗi ngày, đồng thời cơ quan năng lượng qu ốc tế (IEA) quyế t định bán ra thị trường 2,5 triệu thùng dầu thô/ngày. Đế n cuối của thập niên 90 của thế kỷ trước, giá dầu thô hạ xuống còn 13-14 USD/thùng do cung dầu thô vượt 1,3 triệu thùng/ngày so với nhu cầu. Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21, giá dầu thô tăng mạ nh do cung - cầu vận động theo chiều hướng ngược lại so với thời gian trước. Theo số liệu thống kê về giá dầu của tờ Platt’s tại thị trường Singapo (thị trường giao d ịch mua bán chủ yếu của các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu Việt Nam), n ếu lấ y mức giá bình quân 5 năm thời kỳ 2 000- 2004, năm 2005, năm 2006 so với mức giá bình quân của các thời kỳ trước đó, mức tăng của giá dầu thế giới trong vòng hơn 10 năm qua được thể hiện ở bảng 1. Bảng 1: giá trung bình của mộ t số sản phẩ m xăng dầu, 1995-2005
  7. S Mặ t Đơn vị BQ BQ BQ BQ 4 BQ BQ BQ 4 t hàng tính (199 (2000 năm tháng (2000 2005/ tháng t 5- - 2005 năm - bq 2006/ 1999 2004) 2006 2004)/ (2000 bq ) BQ - 2005 (1995 2004) % - % 1999) % A B C 1 2 3 4 5=2/1 6=3/2 7=4/3 1 Xăng USD/thù 20,68 32,69 61,08 66,22 158,0 186.8 108,4 92 ng 8 4 3 2 d iese USD/thù 21,50 33,05 64,04 69,22 153,7 193,7 108,0 l ng 2 8 8 3 Dầu USD/thù 22,77 34,20 67,63 75,88 150,2 197,7 112,2 hỏa ng 0 4 4 Mad USD/tấn 95,77 158,9 264,1 324,9 166,0 166,1 123,0 ut 8 7 0 2 5 5 WTI USD/thù 18,98 31,06 56,55 63,51 163,6 182,0 112,3 ng 5 7 1 6 b rent USD/thù 17,73 29,11 55,03 62,74 164 ,1 189,0 114,0 ng 8 4 1 Giá dầu đã tăng mạnh trong năm 2005, lên đến mức kỉ lục gần 70 USD/thùng vào tháng 8, trước khi giảm xuống còn hơn 60 USD/thùng vào cuối năm. Quá trình này diễn ra tiếp theo đợt tăng giá dầu vào năm 2003, sau một thời gian dài giá dầu b ình ổn mức hơn 20 USD/thùng. Tính trung bình giá dầu danh ngh ĩa trong năm 2005 cao hơn gấp đôi so với năm 2004 và gần gấp 3 so với năm 2002. Giá dầu thực cũng cao hơn so với các
  8. năm 1974 và 1985, và xấp x ỉ so với mức của năm 1980, năm đỉnh điểm của khủng hoảng giá dầu. Theo nhiều đánh giá, giá dầu còn tiếp tục có những biến động đáng kể và đứng ở mức cao do tác động của các nhân tố ở cả phía cung và cầu. Cung dầu mỏ năm 2005 sụt giảm do tác động của cơn bão Katrina và Rita.Theo UNESCAP (2005), công suất kha i thác dầu tới hạn lại thấp, làm giả m kh ả năng phản ứng của tổng cung dầu mỏ khi giá dầu và cầu dầu mỏ tăng mạnh. Trên thực tế , lượng dầu mỏ cung ứng ra thị trường đã tăng đáng kể vào năm 2004, nhưng chững lạ i vào năm 2005. Cung dầu mỏ cũng thiếu ổn định do bất ổn chính trị ở các nước xuấ t khẩu dầu. Trong khi đó nhu cầu dầu mỏ liên tục tăng do kinh tế thế giới tiếp tục đà tăng trưởng và có lẽ có nhiều ảnh hưởng đến giá dầu hơn (so với cung) trong thời gian vừa qua. Tổng nhu cầu dầu mỏ trong năm 2004 đã tăng đ ến 3,2% so với năm 2003. Trong 3 quí đầu của năm 2005, nhu cầu dầ u mỏ có tăng chậm lạ i nhưng cũng ở mức 1,5% so với cùng kỳ năm 2004. Mỹ và các nước khác thuộc tổ c hức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đóng góp chủ yếu vào cầu dầu mỏ. Nh ững năm gầ n đây, Trung Quốc và Ấn Độ đang nổi lên là những nguồn tiêu thụ dầu rất lớn. Mộ t nhân tố khác là số lượng hành khách vận tải theo đường hàng không ăng đ ột biến, mặc dù giá vé tăng, cũng làm tăng nhu cầu dầu. Hơn nữa, để đảm bảo an ninh năng lượng, nhiều nước tiêu thụ dầu mỏ lớn (như Trung Quốc) đã lập kế hoạch xây dựng kho dự trữ dầu. Cầu dầu mỏ được dự báo sẽ tiếp tục tăng, lên 86 triệu thùng/ ngày vào năm 2006 (UNESCAP 2005). Tính đến ngày 21/4/2006, giá dầu thô tạ i thị trường Mỹ ở mức 75,17 USD/thùng, tăng 6,1% so với mức giá đỉnh điểm của năm 2005, tăng khoảng 7 lầ n so với giá tại thời điểm thấp nhất (năm 1998). Giá dầu mỏ tăng mạnh trong những năm qua là do nguyên nhân cơ bản sau: Th ứ nhất, nhu cầu chung thế giới tăng nhanh, vượt khả năng cung ứng của một số quốc gia có nến kinh tế p hát triển như Mỹ, EU, Trung Quốc, Ấn Độ. Th ứ hai, nguồn cung ứng không ổn đ ịnh do những bất ổn chính trị ở các nước xuất khẩu dầu mỏ như: Negienia, Nauy, Iran, Irac, Venezuena, Ecuado. Sự kiện công ty khai
  9. thác kinh doanh dầu mỏ Yukos ở Nga, cơn bão Katrina, Rita…làm ngưng trệ các dàn khoan và các nhà máy lọc dầu ở khu vực vịnh Mehico. Th ứ b a, khả năng lọc dầu thấp do thiếu các nhà máy lọc dầu và do công nghệ lọc dầu lạc hậu. Th ứ tư, vai trò đ iều tiết giá dầu của OPEC đang ngày càng bị hạn chế bởi sự lũng đoạn và thao túng của một số nước lớn vẫn nuôi ý đồ khống chế ngu ồn cung, đ ầu cơ để trục lợi. 1.2. Phả n ứng của các nước đối với vấ n đề tăng giá dầu thô: Như một nguyên tắc chung, chính phủ n ên đảm bảo rằng những phần thu từ khai thác dầu thô là nguồn tài nguyên chung ít nhất giữ được giá trị như khi nó nằm trong lòng đấ t. Điều này đ òi hỏ i các khoản thu từ dầu thô nên được đầ u tư theo hướng đảm bảo lợi xuất tối thiểu nhấ t định với sự cân nhắc thích đáng về khả năng hấp thu của quốc gia nếu đầu tư trong nư ớc. Do đó tăng giá dầu hiện tạ i tương đố i với giá kỳ vọng trong tương lai dẫn tới việc khai thác nhanh hơn và có sự cân nhắc về tính hiệu quả. Tất nhiên, trên thực tế, tốc độ khai thác còn tùy thuộc vào những hiệp định toàn cầu và những hiệp định khu vực khác nhau cũng như năng lực sản xuất. Ở cấp độ kinh tế vĩ mô, phản ứng của các nước nhập khẩu dầu trước việc tăng giá dầu thô sẽ tùy thuộc vào việc giá tăng là tạ m thời hay lâu dài. Nếu giá tăng tạm thời, phản hồi chính sách ít gây ảnh hưởng độ t ngộ t nên được áp dụng để giá trên thị trường biến động nhẹ. Tuy nhiên, nếu giá biến động lâu dài, phản hồi chính sách nên cho phép sự chuyển tải hoàn toàn (của s ự tăng giá dần) nhằm đưa tín hiệu s ớm để thị trường trong nước điều chỉnh theo sự thay đổ i về giá tương đối giữa dầu và các sản phẩm phi dầu. Hai phản hồ i chính sách khác cũng cần được áp dụng. Đầu tiên, chính phủ nên cố gắng giảm chi phí điều ch ỉnh băng cách trợn giá cho các nhóm đối tượng mục tiêu dễ bị tổn thương thay vì cho tất cả các đố i tượng. Thứ hai, để giả m thiểu việc những thay đổi
  10. tương đối về giá biến chuyển thành vòng xoáy chi phí đẩy, các chính sách kinh tế vĩ mô cần phả i được thắt chặt. Nếu chính phủ cho phép sự tăng giá dầu chuyển tải hoàn toàn đối với nền kinh tế, thâm hụt cán cân vãng lai đối ngoại sẽ tăng lên. Tuy nhiên, nếu chính phủ gánh chịu chi phí (tức là không có chuyển tả i) thì nguồn tài trợ các chi phí sẽ quyế t định bản chất của sự tác động nên nền kinh tế . Chẳng hạn, nếu nguồn tài trợ đ ược thu từ việc tăng thuế thì tác động ròng đối với cán cân vãng lai có thể sẽ tương tự (tùy vào những giả thiết về độ co giãn ) với hiệu ứng tái phân phối những thu nhập bất lợi và sự tác động méo mó lên nền kinh tế. Nếu chính phủ tài trợ cho chi phí bằng nguồn vay n ợ nước ngoài, không ch ỉ chi phí cho trả nợ sẽ tăng thêm mà còn tăng cả chi phí cho sự trì hoãn điều chỉnh cần thiế t đối với nề n kinh tế. Không có nguồn tài trợ nào đã nêu là bền vững. Đối với các nước nhập khẩu dầu, phản ứng chính sách có thể tùy thuộc vào việc tăng giá tạm thời hay lâu dài. Nếu là tạ m thời, nên tiết kiệm phầ n thu nhập tăng thêm do giá dầu tăng trừ phi có dấu hiệu rõ rệt rằng việc chi phần thu nhập đó có thể tạo ra lợi suất cao hoặc là có nhu cầu cần chi tiêu gấp, nếu không chính phủ sẽ phải vay nợ. Nếu giá dầ u tăng lâu dài, chính phủ nên xem xét làm thế nào điều chỉnh lạ i cơ cấu danh mục đầu tư, có nghĩa là nếu dành một phần thu từ dầu để tiế t kiệm về tài chính, chính phủ có thể cân nhắc để đa dạng hóa các nguồn đầu tư tài chính. Nếu chính phủ quyết định chi gần hết phần thu từ dầu thô thì phải chuẩn bị tinh thần là sẽ có sự thay đổ i về cơ cấu trong nên kinh tế do sự lên giá thật của đồng nội tệ . Trên thực tế , trước đây các nước xuấ t khẩu dầu đã thích nghi khá nhanh với những khoản tiế t kiệm có thêm nhờ giá dầu tăng cao. Cán cân vãng lai tính theo phần trăm GDP của các nư ớc này đã được điều ch ỉnh ngược về trước thời kỳ khi dầu tăng giá với mức nhanh hơn việc điều ch ỉnh giá dầu. Trong chừng mực mà những đợt tăng giá dầu hiện tại vẫn tiếp diễn mà không biết chắc là khi nào sẽ ngừng thì thặng dư cán cân vãng lai của các nước sản xuất dầu vẫn tiếp tục tăng. 2. Tình hình quản lý giá của mặt hàng xăng dầu trong điều kiện hội nhập
  11. 2.1. Cơ chế quản lý điều hành hoạt động kinh doanh xăng dầu qua các thời kỳ : Nhấ t quán với các nguyên tắc trên, thị trường xăng dầu trong nước được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện của mỗi thời kỳ, cơ chế quản lý của Nhà nước được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình cụ thể. 2.1.1. Giai đoạn trước năm 2000: - Cùng với sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, cơ chế quản lý đối với mặt hàng xăng dầu cũng từng bước chuyển đổi từ cơ chế phân phối theo chỉ tiêu định mức sang cơ chế tự bảo đảm kinh doanh, được chiết khấu bán hàng theo tỷ lệ phần trăm xác đ ịnh trên doanh thu. - Từ năm 1993, Nhà nước áp dụng cơ chế “ giá trần” (giá bán lẻ), doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu tự quyết đ ịnh giá nhập khẩu và hưởng lãi gộp. Tùy theo những biến động của th ị trường d ầu thế giới, Nhà nước điều ch ỉnh giá trần, hoặc điều chỉnh tăng – giảm thuế nhập khẩu, hoặc bù lỗ cho doanh nghiệp kinh doang xăng dầu để th ực hiện mục tiêu điều tiết lợi ích giữa Nhà nước – người tiêu dùng doanh nghiệp theo phương th ức sau: + Ban vật giá chính phủ (nay là cục quản lý giá của cục bộ tài chính) chủ trì cùng các bộ n gành có liên quan, xác định mặt bằng giá tối đa trên cơ s ở tương quan với giá các vật tư, nguyên liệu khác trên thị trường, đảm bảo giá xăng dầu không tác động đột biến đến sản xuấ t và được người tiêu dùng chấp nhận. + Tùy theo biến động, giá nhập khẩu xăng dầu, bộ tài chính cân đ ối điều ch ỉnh tăng – giảm thuế nhập khẩ u trên cơ s ở đ ịnh mức chi phí lưu thông bình quân của ngành và xăng dầu và giá trần đã được xác định. + Để dự phòng nguồn bù lỗ (không ảnh hưởng đến cân đối ngân sách ), năm 1993 Nhà nước quyết đ ịnh hình thành quỹ b ình ổn giá thông qua cơ chế phụ thu và thực hiện cơ chế thu lệ phí giao thông qua giá xăng dầu nay là phí xăng dầu. Xét chung trong giai đoạn này, với cơ chế quản lý và điều hành của Nhà nước, được th ực hiện trong điều kiện tương đố i thuận lợi (giá xăng dầu thế giới ở vào giai đoạn
  12. giảm xuống thấp nhấ t sau chiến tranh vùng vịnh lần thứ nhất), nên các mục tiêu quản lý của Nhà nước đều thực hiện được. Cụ thể là: + Cân đối cung cầu được bảo đảm, thị trường ổn đ ịnh, sản xuấ t và người tiêu dùng được bảo h ộ. + Các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu bù đắp đủ chi phí và có lợi nhuận hợp lý. Nhà nước không phải bù lỗ và thu ngân sách với mức tương đối cao (khoảng 3500 – 5500 tỷ đồng/năm đối với tổng công ty xăng dầu Việ t nam). Tuy nhiên, cơ chế quản lý điều hành trong giai đoạn này cũng tiềm ẩn những bất cập mà hậu quả là những khó khăn trong giai đoạn giá thị trường có biến động mạnh và ở mức cao. 2.1.2. Từ năm 2000 đến nay: - Về cơ bản, nội dung và phương thức quản lý điều hành hoạ t động kinh doanh xăng dầu không có sự thay đổi. Đến năm 2003, trư ớc diễn biến của thị trường xăng dầu thế giới, thị trường xăng dầu trong nước có dấu hiệu bất ổn, Nhà nước phải bù lỗ với mức tương đối lớn và ngày càng tăng. Nhà nước đã có sự thay đ ổi nhất đ ịnh trong cơ chế quản lý. - Tư tưởng chủ đạo và nộ i dung của cơ chế quản lý theo các quyết định trên được xem như một sự đ iều chỉnh cần thiết và tích c ực trong giai đoạn vừa qua. Cụ thể là: + Với cơ chế “ giá định hướng” (được xây dựng trên cơ sở giá nhập khẩu d ự báo cho một thời kỳ nhất định) và doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu được điều ch ỉnh giá bán trong phạ m vi 10% đối với xăng và 5% đối với dầu nhằm tạo ra mặt bằng giá “ tiếp cận” với giá thế giới, giả m dần sự bảo hộ của Nhà nước đối với người tiêu dùng. Doanh nghiệ p kinh doanh xăng dầu đủ bù đắp chi phí và có lãi hợp lý. + Trong điều kiện thị trường xăng dầu thế giới có nhiều biến động bấ t lợi cả về giá và nguồn, song các doanh nghiệp vẫn bảo đảm ổn định được thị trường do đư ợc Nhà nước bảo đảm bằng cơ chế cấp bù.
  13. + Hệ thống phân phố i xăng dầu được phát triển nhanh, mạnh và từng bước được xác lập tương đố i ổn định và có sự chuyển biến cả về nộ i dung và phương thức kinh doanh. Người tiêu dùng và xã hội bắ t đầu có những nhận thức mới trước sự điều chỉnh giá của chính phủ. 2.1.3. Thực trạng và những tồn tạ i: Bên cạnh những kết quả tích c ực của cơ chế quản lý Nhà nước trong giai đoạn vừa qua trong điều hành thực tiễn và trước những biến động của thị trường trong và ngoài nước, cơ chế hiện hành còn chứa đựng những bất cập cần được xem xét và giải quyết bằng các phương pháp vĩ mô trong giai đoạn tới, trong đó có thể xét đến: Th ứ nhất, với chính sách bảo hộ được duy trì quá dài, giá thường được giữ ổn định trong một chu kỳ dài hoặc ch ỉ điều ch ỉnh theo mộ t chiều thông qua việc điều ch ỉnh thuế hoặc bù giá đã khiến người tiêu dùng có tâm lý trông chờ, ỷ lạ i và thường có phản ứng khi Nhà nước điều chỉnh giá tăng. Điều quan trọng hơn, mộ t khi giá xăng dầu được bả o hộ sẽ tạo giá thành có tính cạnh tranh ảo, lợi nhuận ảo, khiến các nhà sản xuất ít quan tâm đến giả i pháp tiết giả m chi phí hoặc cải tiế n quản lý, công nghệ để nâng sức cạ nh tranh của sản phẩm. Nếu tình hình này tiếp tục được duy trì là cản trở lớn trong hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Th ứ h ai, Nhà nước phải dành khoản ngân sách đáng kể để bù lỗ, bù giá trong khi điều kiện ngân sách còn khó khăn. Trong trường h ợp những biến động giá xăng dầu nhập khẩu không tiên liệu được, kế hoạch cân đối ngân sách thường bị phá vỡ. Đây là một s ự bấ t hợp lý, trong khi Việt Nam cần tập trung mọi nguồn tài lực cho phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế . Th ứ ba, cơ chế bảo hộ giá, không tính đến mặt bằng giá của các nước trong khu vực làm gia tăng “ thẩm lậ u” qua biên giới và các hành vi gian lận thương mạ i khác. Nhà nước khó có thể kiểm soát và kiềm chế bằng các biện pháp hành chính. Tương tự, cũng khó có thể th ực hiện được chủ trương tiế t kiệm nhiên liệ u.
  14. Thư tư, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu theo cơ chế bù lỗ sẽ mất đi tính chủ động trong kinh doanh, tạo ra tâm lý ỷ lại, tiêu giả m động lực phát triển do không có khả năng tích tụ tái đầu tư và đầu tư phát triển, hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật. Th ứ năm, trong thực tế đ iều hành, dù có nỗ lực lớn, cũng khó có thể điều hành giá trần và thuế kịp thời trước s ự b iến động nhanh chóng, thường xuyên của thị trường xăng dầu thế giới. Nói cách khác, tính khả thi của cơ chế có những hạn chế nhất định. Bên cạnh đó, phương pháp, tiêu chí cấp bù lỗ cho doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu cũng khó có thể đạ t được các chuẩn mực, chưa kể đến chi phí cho công việc này (từ phía cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp). Cuố i cùng, cơ chế quản lý hiện hành đối với xăng dầu sẽ không phù hợp với các nguyên tắc và yêu cầu khi Nhà nước thực hiện các cam kế t hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2. Tác độ ng của tăng giá xăng dầu trên thế giới và ở Việ t Nam 2.2.1. Tác động của tăng giá xăng dầu trên thế giới: a. Tác động tiêu cực - Có tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế và các cân đối vĩ mô c ủa nhiều nước ; - Làm nguồn thu ngân sách giảm; - Ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu ; b. Tác động tích cực - Việc tiêu dùng xăng dầu sẽ trở nên hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả hơn; - Thúc đẩy ngành công nghiệp khai thác, lọc hóa dầu phát triển nhằm bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận các ngành sản xuất trong xã hội; - Thúc đẩ y công tác nghiên cứu, tìm kiế m sản phẩ m thay thế xăng dầu;
  15. Điều đáng lý giải là việc giá dầu tăng mạnh trong hai năm lạ i đây đã không gây ra tình trạng suy thoái nền kinh tế thế giới như trong những năm 1970 và đầu 1980. Thực tế cho thấy ảnh hưởng vượt trội của các dầu mỏ lên giá dầu trong thời gian gần đây có tác động tiêu cực ở mức độ thấp hơn và ngắn hơn so với trường hợp có sự sụt giả m cung dầu mỏ (UNESCAP 2005). Trong khi đó, tỷ trọng của dầu trong sản xuất và tiêu dùng, đặc biệt là ở các nước phát triển , dã giảm tương đố i. Hơn n ữa, các nư ớc tiêu thụ dầu lớn như Trung Quốc và Ấn Độ cũng đang tập trung đầu tư vào các công nghệ tiết kiệm năng lượng. Mặc dù vậ y, giá dầ u tăng cũng có những ảnh hưởng tiêu cực nhất đ ịnh tới s ự ổn định vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và việc giảm nghèo ở các nước trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2005 của nhiều nước có lẽ cao hơn nếu giá dầu không ở mức quá cao. Theo đánh giá của UNESCAP (2005), n ếu giá dầu ổn đ ịnh ở mức cao hơn hiện tạ i 10 USD\thùng, tăng trư ởng kinh tế c ủa nhiều nước, đặc biệt là Philippin, Thái Lan và Singapo sẽ chậ m lại đáng kể . Đồng thời, lạm phát ở các nước đều tăng. Tăng trưởng kinh tế chậ m cộng với giá hàng hóa dịch vụ thiết yếu tăng có tác động tiêu cực đến những người nghèo. Thành tựu xóa đói giảm nghèo ở nhiều nước như Việt Nam, Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. các ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động như nông nghiệp xây dựng, đánh bắt thủ y hải sản, v.v. c ũng khó phát triển nhanh như trước, và đời sống của người dân đặc biệ t là của người nghèo trở lên khó khăn hơn. 2.2.2. Tác động của tăng giá xăng dầu ở Việ t Nam: Việt Nam tuy là mộ t nước khai thác dầu với sản lượng khoảng 18 -19 triệu tấn/năm để xuất khẩu nhưng lạ i phải nh ập khẩu 100% lượng xăng dầu thành phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước vì thế giá xăng dầu phụ thuộc vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, giá bán xăng dầu ở trong nước lại chưa được áp dụng cơ chế giá th ị trường Bảng 2: Sơ đồ quả n lý hoạ t động xăng dầu ở Việt Nam
  16. Tài sản chính phủ Xuất khẩu nhà nước dầu thô Thu từ dầu thô Nhập Các loại thuế kh ẩu Các loại thuế xăng dầu Bù Ch ỉ lỗ tiêu Tài nguyên Khu vực tư nhân thiên nhiên(dầu) Nhu cầu xăng trong nư ớc của Việt Nam ngày càng tăng cùng với quá trình phát triển kinh tế. Trong giai đoạn 2000-2004, nhu cầu xăng trong nước tăng bình quân khoảng 5,8%/năm, từ gần 8,2 triệu tấn năm 2000 lên hơn 10,2 triệu tấn năm 2004. Trong khi đó, năng lực chế biến các sản phẩm xăng dầu của Việ t Nam lại gần như bằng không. Mỗi năm lượng xăng dầu sản xuất trong nước chỉ ở khoảng 200.000-300.000 tấn, xấp x ỉ 2% tổng nhu cầu trong nước. Do đó, nhu cầu xăng dầu trong nước chủ yếu đư ợc đáp ứng bằng nguồn nhập khẩu. Từ đầu năm 2004 đến nay giá xăng dầu trên thị trường thế giới tăng cao gây áp lực lớn đố i với kinh doanh xăng dầu và đối với thu chi của nền kinh tế nên Nhà nước phải điều chỉnh giá bán xăng dầu nhiều lần và thực hiện phương châm chia sẻ khó khăn giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Nhà nước giảm thuế nhập khẩu xăng dầ u xuống 0% và thực hiện bù lỗ đố i với kinh doanh dầu để bao cấp qua giá dầu cho nền kinh tế. Năm 2004 thực hiện 3 lần điều chỉnh giá; cụ thể : tháng 2 khi giá xăng dầu thế giới tăng 16-24% thì Nhà nước chỉ điều chỉnh tăng 5,6-9% (tùy loạ i); tháng7 khi giá xăng dầu thế giới tăng từ 11-55% so với giá bình quân năm 2003 th ì Nhà nước chỉ đ iều chỉnh giá các loại dầ u tăng 4-5% xăng tăng 17% đồng thời thực hiện cơ chế giá đảm bảo kinh
  17. doanh đố i với xăng, Nhà nước không bù lỗ từ 01/7/2004; tháng 11 tiếp tục điều chỉnh tăng giá xăng lên khoảng 7%... Năm 2005, nước ta đã 4 lần điều chỉnh giá (trong đó có 3 lần điều chỉnh tăng giá xăng dầu và một lần điều chỉnh giả m giá xăng); cụ thể: đầu tháng 3, giá xăng dầu thế giới tăng mạnh, cao hơn mức bình quân năm 2004 từ 20 -40%, do đó ngày 29/3/2005, tiếp tục thực hiện cơ chế giá bảo đảm kinh doanh, không bù lỗ đối với xăng nên Nhà nước đã tăng giá xăng lên 6,6%, các loạ i dầu 2-12% và thực hiện bù lỗ cho các loạ i dầu. Ngày 03/7 tăng giá xăng khoảng 10%, diezel 18%, dầu hỏa 32%, madut 17,5%. Ngày 17/8 tăng giá xăng dầu lên khoảng 10,6-15,4% tùy lo ại xăng dầu. Cùng với việc tăng giá xăng dầu ở các thời điểm trên, Nhà nước vẫn thực hiện giảm thuế nhập khẩu xăng dầu xuống 0% và bù lỗ đố i với các loại dầu . Ngày 22/11, giá dầu thô trên thế giới giảm, Nhà nư ớc đã giảm giá xăng 500 đồng/lít, tăng thuế nhập khẩu xăng từ 0% lên 5% và đầu tháng 12 điều ch ỉnh tăng thuế nhập khẩu lên 10%. Đối với các lo ại dầu, Nhà nước vẫn giữ thuế suất nhập khẩu 0% và bù lỗ cho các đầ u mố i nhập khẩu xăng dầu. Tháng 4/2006, giá dầu thô trên thế giới tăng mạnh, Nhà nước lại buộc phải điều chỉnh giá xăng dầu trong nước tăng lên và vẫn áp dụng nguyên tắc không bù lỗ đối với xăng, tiếp tục bù lỗ đối với các loại dầu, giữ thuế nhập khẩu xăng dầu bằng 0%. Bả ng 3: Diễn biến giá xăng dầu năm 2005 -2006, đồng/lít Trước 2005 2006 Chủng 29/3/05 loại 29/3 03/7 17/8 22/11 27/4 9/8 Xăng 7 .500 8 .000 8 .800 10.000 9 .500 11.000 12.000 A92 Xăng 7 .300 7 .800 8 .600 9 .800 9 .300 10.800 11.800 A90 Xăng 7 .100 7 .600 8 .400 9 .600 9 .100 10.600 11.600 A83 Diezel 4 .850 5 .500 6 .500 7 .500 7 .500 7 .900 8.600
  18. Dầu hỏa 4 .800 4 .900 6 .500 7 .500 7 .500 7 .900 8.600 Ma dút 4 .000 4 .700 4 .700 5 .500 6.000 Cơ cấu thị trường xăng dầu có mức độ “tích tụ ” tương đối cao. Có 9 doanh nghiệp được Bộ Thương mại cấp giấy phép nhập khẩu xăng dầu. Các doanh nghiệp này có trách nhiệ m nhập khẩu các sản phẩm xăng dầu và đư ợc Nhà nước đảm bảo cân đối ngoại tệ. Trong số 9 doanh nghiệp được Nhà nước cấp giấy phép nhập khẩu xăng dầu, Petrolimex chiế m tỉ trọng lớn nhất (khoảng 60% năm 2004), tiếp theo là công ty thương mại dầu khí Petechim (10%). Mặc dù vậy, c ũng chỉ có Petrolimex, Petec (công ty thương mại kỹ thuật và đầu tư), Petechim và Saigon Petro là có mạng lưới bán lẻ sản phẩ m trên thị trường. Hơn nữa, hệ thống công ty con của Petrolimex và Saigon Petro, những doanh nghiệp Nhà n ước hầu như chi phối th ị trường xăng dầu trong nước. Trong khi các đầu mố i nhập khẩu và phân phối sản phẩ m xăng dầ u khác được quyền lựa chọn địa điểm, Petrolimex lại phải đả m bảo một mạng lưới bán lẻ rộng khắp cả nước (đều với mức giá theo quy định của Nhà nước). Đây chính là một kênh quan trọng nhằ m đả m bảo chính sách quản lý xăng dầu của chính phủ đ ược thực thi một cách có hiệu lực. Tuy nhiên, trong trường hợp các cơ quan hữu trách chậ m phản ứng trước diễn biến giá dầu, hậu quả kinh tế đ ối với những doanh nghiệp này, c ũng như gánh nặng trợ giá cho Ngân sách có thể rất tốn kém. Bản thân nhiều đại lý bán lẻ xăng dầu lại có năng lực yếu, chưa đủ điều kiện kinh doanh. Thực tế, không ít các doanh nghiệp đã tiếp tay cho buôn lậu xăng dầu, hay gian lận thương mạ i. Chẳng hạn pha thêm vào sản phẩm xăng dầu trở thành một cách kiếm lời, vì chỉ c ần pha dầu vào xăng A92 rồi bán theo giá xăng A92 thì có thể kiế m lời lớn (Lao động 2006). Thực trạng hoạt động của các đại lý kinh doanh xăng dầu lại rất khó kiểm soát và điều ch ỉnh do số đại lý quá lớn. Trong khi đó, sự hiện diện của các công ty nước ngoài trong th ị trường phân phối và bán lẻ xăng dầu trong nước còn rất hạ n chế. Ngoại trừ việc tham gia thị trường nhựa đường, dầu nhờn, khí hóa lỏng, các công ty này còn chưa được phép tham gia th ị trường
  19. bán lẻ các sản phẩm xăng dầ u khác. Điều này phần nào đã hạn chế cạnh tranh trên thị trường xăng dầu Việt Nam, mặc dù quan điểm của Chính phủ vẫn là kiểm soát th ị trường này nhằm bình ổn giá cả và hạn chế tác động tiêu cực có thể có đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Kéo theo đó là sự tăng giá cả tiêu dùng của người dân và Nhà nước đã phả i điều ch ỉnh cho phù hợp với sự thay đổ i, biến động này. Giá xăng dầu tăng tác động cả trực tiếp và gián tiếp đến chỉ số giá tiêu dùng xã hội qua hai kênh: Kênh thứ nhất là: trực tiếp kéo chỉ số giá của nhóm hàng xăng dầu trong “rổ” hàng hóa tính ch ỉ số giá tăng. Đồng thời cũng trực tiếp đẩy giá dịch vụ sử dụng xăng dầu tăng (như vận tả i). Kênh thứ hai là: gián tiếp đẩ y giá hàng hóa trong “rổ” hàng hóa tính chỉ số giá tăng do trong sản xuất, lưu thông hàng hóa đó có sử dụng xăng dầu. Vì thế xu hướng vận động của ch ỉ số giá trong nước của những lo ại hàng hóa liên quan đến xăng dầu diễ n ra cùng chiều với việc điều chỉnh giá xăng dầu tăng, nhất là 2 nhóm: nhà ở và vật liệ u xây dựng (trong đó có dầu hỏa đun nấu và thắp sáng), phương tiện đi lại, bưu điện (trong đó có xăng dầu và phương tiện vận tải có sử dụng xăng dầu). Tuy nhiên tốc độ b iến động có thể không như nhau vì còn tùy thuộc vào đ ịnh mức s ử dụng và cơ cấu sử d ụng xăng dầu, cụ thể : Bảng 4: Tác động của xăng dầu đế n chỉ số giá cả Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
  20. Mức tăng giá xăng dầu trong nước so với năm trước: + Xăng A92 33,9% 33,0% 41,8% + Dầu diezel 5,4% 54,0% 66,0% Chỉ số giá tiêu dùng: + Nhóm hàng nhà ở, vậ t liệu xây 7,4% 9,8% 9,02% dựng + Phương tiện đi lại, bưu điện 5,9% 9,1% 8,43% Tác động này th ực chấ t không lớn đối với một nền kinh tế có trình độ phát triển còn thấp như nước ta bởi vì giá dầu đã được kiềm chế tăng bằng con đường bù lỗ và bao cấp qua giá. Với chính sách giá xăng dầu như trên đã tác động đến nhiều mặt đối với nền kinh tế . Một là, giá xăng dầ u tăng đã tác động đến nhiều ngành sản xuất, đẩy giá thành những sản phẩ m sản xuất lưu thông có sử dụng xăng dầu tăng, làm giả m lợi nhuận của doanh nghiệp; nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn do phả i thực hiện chủ trương phấn đấu kiềm chế tăng giá đầu ra. Nhà nước vừa phả i giảm thu do giảm thuế nhập khẩu, giảm thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp đối với một số mặ t hàng, vừa phải bỏ số tiền lớn hỗ trợ cho sản xuấ t kinh doanh; cụ thể: - Đối với Nhà nước: năm 2004 giảm thuế nhập khẩu xăng dầu xuống 0% làm giả m thu ngân sách Nhà nước khoảng 4.500 tỷ đồng, thực hiện cơ chế giá bao cấp nên phải bù lỗ cho các đầu mố i nhậ p khẩu xăng dầu khoảng 6.000 tỷ đồng. Năm 2005, tiếp tục giữ thuế nhập khẩu khoảng 7.300 tỷ đồng, giảm thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp khoảng 600 tỷ đ ồng, bù lỗ cho các loạ i dầu khoảng 10.000 tỷ đồng. - Đối với các doanh nghiệp, qua 3 lầ n điều chỉnh tăng giá dầu năm 2005 làm cho chi phí của ngành than tăng thêm khoảng 300 tỷ đồng, ngành xi măng 300 tỷ đồng, ngành điệ n 536 tỷ đồng…Cước vận tả i hàng hóa bằng ôtô giá thành tăng khoảng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2