intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:118

705
lượt xem
114
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong những năm gần đây, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng ta đã đem lại những thành tựu kinh tế - xã hội to lớn, góp phần quan trọng trong việc phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, ổn định tình hình kinh tế xã hội... góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực mà quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đem lại, còn có...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ

  1. LUẬN VĂN: Tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng ta đã đem lại những thành tựu kinh tế - xã hội to lớn, góp phần quan trọng trong việc phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, ổn định tình hình kinh tế xã hội... góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực mà quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đem lại, còn có tác động tiêu cực, ảnh hưởng không nhỏ đến các mặt đời sống kinh tế - xã hội của nước ta. Trong đó, tác động đến môi trường là một minh chứng điển hình. Một thực tế vẫn đang diễn ra, mặc dù đã có sự lên tiếng, cảnh báo của mọi nơi, mọi ngành, mọi cấp, của mọi tầng lớp nhân dân...về tác hại của sự ô nhiễm, suy thoái môi trường, nhưng thực trạng đó vẫn hiện hữu với mức độ ngày càng trầm trọng hơn, ảnh hưởng xấu đến môi trường tự nhiên và xã hội, đe dọa sức khoẻ, tính mạng con người và sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Dường như, càng phát triển kinh tế, càng đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì vấn đề môi trường càng trở thành vấn đề bức xúc, gay gắt hơn. Trước thực trạng đó, Nhà nước ta và các cấp, các ngành, các địa phương trong cả nước đều đã đưa ra những biện pháp khác nhau nhằm ngăn chặn và khắc phục tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường, bảo vệ môi trường, nhưng hiệu quả đem lại chưa được bao nhiêu. Nguồn nước, mặt đất, không khí ở nhiều nơi, nhất là ở khu vực thành phố, các khu công nghiệp... vẫn tiếp tục bị ô nhiễm một cách trầm trọng. Những căn bệnh ác tính, hậu quả từ việc ô nhiễm môi trường ngày càng xuất hiện nhiều hơn, phức tạp hơn, gây hậu quả nghiêm trọng về mặt kinh tế, xã hội. Môi trường xã hội cũng bị ảnh hưởng, tác động không nhỏ. Những vấn đề về việc làm, di dân tự do, tệ nạn xã hội, phân hoá thu nhập... đã trở thành những vấn đề lớn, cản trở đến quá trình phát triển bền vững của nền kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Là một trong những tỉnh sớm có nhiều khu công nghiệp với những ngành công nghiệp quan trọng, tỉnh Phú Thọ không nằm ngoài thực trạng đó.
  3. Để thực hiện một cách có hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo xu hướng phát triển bền vững, đặc biệt từ khi có Luật Bảo vệ môi trường đến nay, tỉnh Phú Thọ đã quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, nhằm ngăn ngừa, khắc phục, giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở tất cả các khu công nghiệp, đô thị và nông thôn, đồng thời có những biện pháp hữu hiệu nhằm cải thiện môi trường xã hội. Tuy nhiên, do việc thực thi những giải pháp bảo vệ môi trường chưa được đồng bộ và triệt để, khiến cho tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường vẫn tiếp tục diễn ra, ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế - xã hội. Thậm chí ở một số nơi, môi trường đã trở thành vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong nhân dân. Những vấn đề xã hội đã có sự chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng ta, Phú Thọ đang phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp, với nhiệm vụ trung tâm là thúc đẩy xây dựng các khu công nghiệp tập trung, với hệ thống cơ sở, kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, đẩy mạnh tốc độ đô thị hoá, phát triển các điểm dân cư tập trung ở nông thôn, nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân theo hướng văn minh hiện đại... Trước tình hình đó, Phú Thọ cần phải có những giải pháp bảo vệ môi trường thực sự hiệu quả, đồng bộ, nhằm ngăn chặn, khắc phục sự ô nhiễm môi trường tự nhiên, đi đôi với bảo vệ, cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội. Để đánh giá đúng thực trạng về tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ, là cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách trong quá trình bảo vệ môi trường, đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững, tôi chọn nghiên cứu đề tài " Tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ " để nghiên cứu Luận văn thạc sĩ Kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến thời điểm hiện nay, đã có một số công trình và bài viết đề cập đến vấn đề về môi trường, đặc biệt về sự ô nhiễm môi trường ở nước ta. Nhưng đáng chú ý một số công trình sau đây: - GS, TS. Lê Quý An (chủ biên), Việt Nam môi trường và cuộc sống (tóm tắt), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  4. - TS Hoàng Hữu Bình, 2005, Vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. - GS. TSKH Vũ Huy Chương (chủ biên), 2007, Vấn đề môi trường trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. - Chương trình môi trường Liên hiệp quốc, 2001, Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam. - Lưu Đức Hải (chủ biên), Cẩm nang quản lý môi trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội. - Uỷ ban Dân tộc, 2006, Phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. - Nguyễn Đình Hoè, 2009, Môi trường và phát triển bền vững, Nxb Giáo dục, Hà Nội. - TS Hà Huy Thành, 2001, Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường, Một số vấn đề xã hội và nhân văn trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - TS Trần Thanh Lâm, Quan hệ quốc tế về môi trường, Viện Tài nguyên nước và Môi trường Đông Nam á, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân... Các công trình nghiên cứu trên, đã đề cập đến thực trạng về môi trường, đến những áp lực môi trường trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các vấn đề môi trường bức bách ở Việt Nam hiện nay, đến hiện trạng công tác bảo vệ môi trường và những giải pháp cần thiết về bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Các công trình và bài viết đã có những cách tiếp cận khác nhau, ở những mức độ khác nhau, nhưng đều nhằm mục đích nghiên cứu vấn đề môi trường và giải pháp nhằm bảo vệ môi trường, ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái môi trường. Tuy nhiên phần lớn các công trình nghiên cứu đó chủ yếu tập trung nghiên cứu môi trường, dưới góc độ khoa học môi trường và kinh tế phát triển, đồng thời chỉ nặng vào việc tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên, nhưng lại ít đề cập, hoặc chưa nghiên cứu một cách hệ thống những ảnh hưởng đến môi trường xã hội. Mặt khác, chưa tập trung nghiên cứu làm rõ tác động hai mặt
  5. của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường, dưới góc độ của kinh tế chính trị. Đây là lý do chủ yếu để tôi chọn đề tài trên. Dưới góc độ kinh tế chính trị, đề tài lựa chọn để nghiên cứu không trùng lặp với các công trình đã được công bố. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn * Mục tiêu: Phân tích làm rõ sự tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ. Từ đó đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát huy những tác động tích cực, ngăn chặn, khắc phục những tác động tiêu cực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với môi trường ở tỉnh Phú Thọ, bảo đảm giữ gìn một môi trường trong sạch, lành mạnh phục vụ cho con người, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. * Nhiệm vụ: - Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường. - Làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực từ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường tự nhiên và xã hội ở tỉnh Phú Thọ. - Đưa ra một số những giải pháp cơ bản, nhằm bảo vệ, cải thiện môi trường của tỉnh Phú Thọ dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng tác động tích cực và tiêu cực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường tự nhiên và xã hội ở tỉnh Phú Thọ. - Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Đề tài hướng về việc nghiên cứu tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường (Bao gồm những tác động đến cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ở tỉnh Phú Thọ. Trong đó chủ yếu là các tác động đến môi trường tự nhiên).
  6. Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề trong những năm từ 2000 đến 2008, đây chính là giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực, tác động lớn đến môi trường của tỉnh. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về vấn đề bảo vệ môi trường trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế chính trị Mác- Lênin, đồng thời sử dụng các phương pháp khác như phương pháp lý luận kết hợp với thực tiễn, phương pháp điều tra, khảo sát, so sánh, phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, thống kê... để đạt mục đích nghiên cứu. 6. Đóng góp về khoa học của luận văn - Hệ thống hoá, phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về những tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường tự nhiên và xã hội. - Đánh giá, phân tích thực trạng những tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ từ năm 2000 đến năm 2008. - Đưa ra những quan điểm định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo vệ, cải thiện môi trường ở tỉnh Phú thọ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong hoạch định chính sách kinh tế xã hội của tỉnh Phú Thọ, trong lĩnh vực quản lý môi trường. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết:
  7. Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường. Chương 2: Thực trạng tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2008. Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản, nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường ở tỉnh Phú Thọ.
  8. Chương 1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường 1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tác động của nó đến môi trường 1.1.1. Khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá Công nghiệp hoá, hiện đại (CNH, HĐH) hoá đã trở thành phương thức hữu hiệu cho quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Bất kể nước nào, để phát triển kinh tế - xã hội thì đều cần thiết thực hiện CNH, HĐH. Tuy nhiên, ở những nước khác nhau, trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, CNH, HĐH cũng có những đặc điểm riêng biệt. Nếu tách riêng, thì công nghiệp hoá, theo nghĩa khái quát nhất, là quá trình biến đổi xã hội từ một xã hội nông nghiệp (hay tiền công nghiệp), lạc hậu lên xã hội công nghiệp. Quá trình biến đổi đó gắn liền với quá trình đổi mới kỹ thuật, công nghệ, chủ yếu là gắn với cuộc cách mạng kỹ thuật. Hay nói một cách khác, công nghiệp hoá là quá trình biến lao động thủ công thành lao động máy móc. Đó là quá trình trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân. Hiện đại hoá là quá trình thường xuyên đưa trình độ kỹ thuật và công nghệ sản xuất lên trình độ tiên tiến của thời đại. Công nghệ mới chính là nguồn gốc, là điều kiện tồn tại, đồng thời là yếu tố then chốt thúc đẩy hiện đại hoá. Với những công nghệ mới, con người sẽ nâng cao được năng lực của mình, phát triển những ý tưởng mới, thúc đẩy xã hội phát triển. Đánh giá chung nhất, CNH, HĐH thực chất là sự thay thế kỹ thuật thủ công, lạc hậu thành kỹ thuật máy móc hiện đại, trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, nhằm đạt tới năng suất lao động cao. Đó còn là quá trình thay đổi căn bản, toàn diện cách thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, hoạt động quản lý trong nền kinh tế, dựa trên sự ứng dụng cao về công nghệ hiện đại. Trên cơ sở đó, sẽ tạo điều kiện để thay thế nền văn minh nông nghiệp bằng văn minh công nghiệp, xây dựng một xã hội công nghiệp hiện đại, tạo nền tảng cho phát triển nhanh và bền vững. Như vậy, thực hiện CNH, HĐH sẽ tạo điều kiện để nâng cao năng suất lao động xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, thúc đẩy lực
  9. lượng sản xuất phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân… Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế - xã hội của CNH, HĐH mang lại đạt đến mức độ nào, còn phụ thuộc vào tính ưu việt trong mục tiêu và cách thức tiến hành CNH, HĐH của mỗi nước. Nhưng, dù đạt được đến đâu đi nữa thì tính ưu việt của CNH, HĐH cũng đã được khẳng định. Một nền kinh tế tiến hành CNH, HĐH sẽ có bước phát triển hơn nhiều so với nền kinh tế chưa thực hiện CNH, HĐH. Trên thế giới, CNH, HĐH là hai quá trình vừa nối tiếp, vừa đan xen nhau. Những nước đi sau không nhất thiết chỉ thực hiện những bước đi tuần tự, mà có thể áp dụng chiến lược phát triển “rút ngắn”, tranh thủ cơ hội đi tắt đón đầu, để đón những công nghệ tiên tiến nhất của thế giới. Thực chất của CNH, HĐH rút ngắn trong giai đoạn hiện nay là tận dụng tri thức của nhân loại, lấy công nghệ cao làm cốt lõi, trên cơ sở nguồn nhân lực thích hợp, để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên không phải nước nào cũng thành công trong chiến lược này. Trong quá trình thực hiện, căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể và đặc điểm kinh tế - xã hội của từng quốc gia, sự nghiệp CNH, HĐH của các nước sẽ được tiến hành với những cách thức, bước đi khác nhau cho phù hợp. ở những nước phát triển, hiện đại hoá là quá trình chuyển dịch từ xã hội dựa trên kinh tế công nghiệp, sang xã hội tri thức. Nhưng đối với các nước đang phát triển, hiện đại hoá ở mức độ thấp hơn, là đồng thời vừa công nghiệp hoá, vừa tiếp cận với công nghệ hiện đại, đẩy nhanh quá trình phát triển, để đuổi kịp các nước phát triển. Trong điều kiện bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại và xu thế phát triển nhanh chóng của quá trình toàn cầu hoá, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những nhận thức của nhân loại về CNH, HĐH, xuất phát từ tình hình thực tế của nền kinh tế, Đảng ta đã đưa ra quan niệm về CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động, cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa
  10. trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [16]. Trên cơ sở kinh nghiệm của thế giới, vận dụng vào thực tiễn của Việt Nam, Đảng ta đã xác định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ Đại hội Đảng lần thứ III, khi đất nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, Đảng ta đã khẳng định, cần chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Mục tiêu của CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, với quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, có đời sống vật chất, tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trước những biến đổi của nền kinh tế toàn cầu và điều kiện cụ thể của đất nước, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã xác định: “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với kinh tế tri thức, chúng ta tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta, để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức"[18, tr.87]. CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức ở nước ta, thực chất đó là công nghiệp hoá rút ngắn, có mục đích là kết hợp nguồn vốn tri thức tiên tiến của nhân loại, với nguồn vốn tri thức của dân tộc. Trên cơ sở đó, một mặt sử dụng tri thức để đổi mới, nâng cao hiệu quả các ngành truyền thống, mặt khác tập trung phát triển mạnh các ngành, sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức, tạo ra những bước đột phá mới, những bước tăng trưởng cao. Như vậy CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức, đó là bước đi đúng, phù hợp với thực tiễn nước ta và phù hợp với thế giới trong giai đoạn hiện nay. Quá trình CNH, HĐH đã có tác động, ảnh hưởng lớn đến những nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của các quốc gia và các vùng, miền trong lãnh thổ. Một trong những yếu tố chịu sự tác động lớn, đó là môi trường. Môi trường được coi là khách thể chịu sự tác động trực tiếp và gián tiếp từ quá trình công nghiệp hoá. Đồng thời môi trường cũng
  11. được coi là nhân tố quan trọng, tác động đến quá trình CNH, HĐH. Nếu biết cách xử lý mối quan hệ này, thì sẽ phát huy được tác động tích cực, và khắc phục những tác động tiêu cực của CNH, HĐH đến môi trường. Trong việc bảo vệ và cải thiện môi trường, nếu không có cách xử lý hiệu quả thì hậu quả môi trường gánh chịu là rất lớn. 1.1.2. Môi trường và tác động hai mặt của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường 1.1.2.1. Khái niệm, chức năng của môi trường * Khái niệm môi trường: Để định nghĩa về môi trường, người ta đưa ra nhiều khái niệm khác nhau. Bách khoa toàn thư về môi trường (1994) đưa ra định nghĩa về môi trường: "Môi trường là tổng thể các thành tố sinh thái tự nhiên, xã hội- nhân văn và các điều kiện tác động trực tiếp hay gián tiếp lên phát triển, lên đời sống và hoạt động của con người trong thời gian bất kỳ” [56, tr.7]. Liên minh châu Âu định nghĩa "môi trường (environment) là sự kết hợp các yếu tố có mối quan hệ phụ thuộc phức tạp, tạo nên những khuôn khổ, những môi trường xung quanh (surroundings) và những điều kiện sống cho các cá nhân và xã hội, tồn tại trong thực tế hay trong ý nghĩ” [55, tr.212]. Như vậy, môi trường theo cách hiểu ở đây là tất cả những gì ảnh hưởng đến con người, xung quanh con người, tạo nên những điều kiện sống cho con người. Đó là các yếu tố tự nhiên, các yếu tố xã hội, các yếu tố do con người tạo ra, hình thành nên môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường nhân tạo... Một khái niệm khác về môi trường - Theo tác giả Lê Văn Khoa, (1995): Môi trường theo nghĩa rộng nhất là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới một vật thể hoặc một sự kiện. Bất cứ một vật thể, hay một sự kiện nào cũng tồn tại và diễn biến trong một môi trường. Đối với cơ thể sống, thì môi trường sống là tổng hợp những điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới đời sống và sự phát triển của cơ thể [54, tr.5]. Như vậy, khái niệm môi trường rất rộng, phức tạp và thực tế đã có nhiều quan niệm khác nhau về môi trường. Tuy nhiên ở những khái niệm trên đều đi đến sự thống nhất: môi trường không chỉ là những yếu tố tự nhiên tác động trực tiếp đến con người, mà
  12. còn là những yếu tố xã hội, ở bên ngoài luôn ảnh hưởng dần dần đến cuộc sống con người, góp phần hình thành nên ý thức, nhân cách con người. Đó thực chất chỉ tất cả những gì xung quanh con người, ảnh hưởng đến sự sinh tồn và phát triển của con người, cho con người cơ sở sống và phát triển. Gần đây, theo Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam năm 2006 đã đưa ra định nghĩa sau về môi trường: "Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”. "Thành phần môi trường là các yếu tố vật chất tạo thành môi trường như: Đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác” [8, tr.7-8]. Nếu quan niệm như vậy, thì các yếu tố xã hội có ảnh hưởng đến cuộc sống con người chưa được coi là yếu tố môi trường. Đồng thời, môi trường ở đây chỉ được hiểu là môi trường tự nhiên, chứ chưa thấy có môi trường xã hội. Theo cách hiểu như vậy chưa đầy đủ. Bởi, trên thực tế, trong những yếu tố ảnh hưởng đến con người, không chỉ có những yếu tố của môi trường tự nhiên, mà còn có các yếu tố xã hội, ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến cuộc sống con người, góp phần hình thành ý thức, nhân cách con người. Nếu thiếu đi việc nghiên cứu về môi trường xã hội với những tác động, ảnh hưởng của nó đến con người, thì nhận thức về môi trường sẽ bị lệch lạc, không đầy đủ, toàn diện, dẫn đến việc tìm ra những giải pháp là không đồng bộ. Theo luận văn, để nhận thức đầy đủ về môi trường, cần hiểu môi trường như sau: "Môi trường sống của con người là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đ ất nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội…" [5, tr.6]. Theo góc độ nghiên cứu này, môi trường có thể được chia thành các loại như sau: * Các loại môi trường: Có nhiều cách để phân loại môi trường. Nếu phân theo chức năng thì môi trường sống của con người thường được phân thành các loại sau:
  13. + Môi trường tự nhiên: Bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng chịu sự tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất nước… Môi trường tự nhiên có tác động đối với con người. Môi trường cho ta không khí để thở, đất để xây nhà cửa, trồng cấy, nước để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt ăn uống, sản xuất... của con người, cung cấp các loại tài nguyên, khoáng sản cho sản xuất và tiêu thụ. Nó còn là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải cho con người. + Môi trường xã hội: Là tổng thể các quan hệ giữa con người với con người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định…ở các cấp khác nhau. Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định. Từ đó tạo nên sức mạnh tập thể, thuận lợi cho sự phát triển. Do vậy, nó làm cho cuộc sống con người khác với các sinh vật khác. Ngoài hai loại môi trường chủ yếu trên, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo. + Môi trường nhân tạo: Bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên. Trên cơ sở đó làm thành những tiện nghi trong cuộc sống. Thí dụ như ô tô, máy bay, nhà ở, các khu đô thị…[5, tr.8]. Môi trường này thực chất là sự kết hợp của hai loại môi trường trên. Chính vì vậy, khi nghiên cứu ta chủ yếu nghiên cứu hai loại môi trường tự nhiên và xã hội. Ta có thể phân tích một cách cụ thể về định nghĩa môi trường như sau: + Các thành tố sinh thái tự nhiên bao gồm: Đất, nước, không khí, động thực vật, hệ sinh thái… + Các thành tố xã hội bao gồm: Luật, chính sách, hương ước, quy ước; phong tục, tập quán, văn hoá, lối sống; dân số, chất lượng sống, sự phân hoá giàu nghèo… * Chức năng của môi trường: + Môi trường là không gian sống của con người và các loài sinh vật. Để tồn tại và hoạt động, con người cần một không gian nhất định, như nhà để ở, nước dùng cho sinh hoạt và sản xuất, những quy ước, thiết chế... ảnh hưởng chi phối cuộc sống con người, bắt con người phải tuân thủ. Chức năng này đòi hỏi môi trường cần phải
  14. tạo một không gian thích hợp đảm bảo những yêu cầu nhất định về quy mô và chất lượng, cho sự tồn tại và phát triển của con người. Thí dụ, cần phải đảm bảo diện tích không gian sống hợp lý cho mỗi người; Không gian này lại phải đảm bảo những tiêu chuẩn nhất định về vật lý, hoá học, sinh học, cảnh quan, các mối quan hệ xã hội nhất định. + Môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên, làm thành các nguồn lực cần thiết cho quá trình sản xuất và đời sống sinh hoạt của con người. Để sản xuất ra của cải vật chất, con người phải lấy từ trong tự nhiên những nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết. Đó là những nguồn vật liệu, năng lượng, thông tin cần cho hoạt động sinh sống, sản xuất và quản lý của con người. Chức năng này còn gọi là nhóm chức năng sản xuất tự nhiên.Ví dụ như rừng tự nhiên có chức năng cung cấp nước, gỗ dược liệu, không khí, năng lượng mặt trời, nhiệt độ giúp cho ta hít thở; động thực vật cung cấp lương thực, thực phẩm; các loại quặng, dầu mỏ cung cấp năng lượng, nguyên liệu cho các hoạt động sản xuất…Tuy nhiên, cùng với tốc độ phát triển của kinh tế - xã hội, nhu cầu của con người đối với các nguồn tài nguyên ngày càng lớn cả về chất lượng và số lượng. Mức độ, cách thức việc sử dụng nguồn tài nguyên đó, đều ảnh hưởng đến chất lượng môi trường. + Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra. Trong sản xuất và đời sống, con người luôn đào thải các chất thải vào môi trường. Đồng thời với quá trình đó, môi trường không ngừng phân huỷ, trung hoà các chất thải, dưới tác động của các vi sinh vật và các yếu tố khác, thông qua việc tham gia vào hàng loạt các quá trình sinh địa hoá phức tạp. Khi lượng chất thải lớn hơn khả năng hấp thụ của môi trường, thì chất lượng môi trường sẽ giảm, môi trường sẽ có thể bị ô nhiễm. Do vậy, quá trình này chỉ được duy trì một cách bình thường, khi lượng chất thải không vượt quá mức cho phép khả năng hấp thụ của môi trường. Sự phát triển của kinh tế - xã hội, nhất là sự tác động của quá trình CNH, HĐH khiến cho lượng chất thải tăng lên không ngừng, trong khi đó khả năng xử lý ô nhiễm của con người còn hạn chế, dẫn đến tình trạng quá tải ở nơi tiếp nhận nguồn thải, gây ô nhiễm môi trường.
  15. + Chức năng lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người: Môi trường là nơi cung cấp sự ghi chép và lưu trữ lịch sử của địa chất, của sự tiến hoá của vật chất và sinh vật, của sự xuất hiện và phát triển văn hoá của loài người. Trên cơ sở đó, môi trường cung cấp các thông tin, tín hiệu và báo động sớm các hiểm hoạ đối với con người và sinh vật sống trên Trái đất. Mặt khác, môi trường còn là nơi lưu giữ và cung cấp cho con người sự đa dạng các nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá, các hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp về cảnh quan, nếp sống, những yếu tố có giá trị về thẩm mỹ, tôn giáo và văn hoá khác. Như vậy, với những chức năng trên, môi trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với con người. Con người không thể tồn tại nếu thiếu môi trường. Vì vậy, cần phải tạo ra sự hoà hợp với môi trường mình đang sống. Nếu không có sự phù hợp, thì có nghĩa là con người đang tự huỷ diệt mình. Do vậy, con người cần giữ gìn và bảo vệ, cải thiện môi trường. Nếu làm được như vậy, chính là con người đang bảo vệ, cải thiện cuộc sống của chính mình. 1.1.2.2. Tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến môi trường Đối với mọi quốc gia trên thế giới, để tăng trưởng và phát triển bền vững cần phải thực hiện CNH, HĐH. Đó là con đường giúp chúng ta giải quyết những mục tiêu về kinh tế, xã hội trong phát triển, đồng thời cũng là điều kiện cần thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Trong quá trình đó CNH, HĐH đã tác động tới môi trường sống, ảnh hưởng tới cuộc sống của con người. Tuy nhiên bên cạnh những tác động tích cực đến môi trường, CNH, HĐH còn có tác động tiêu cực. Nếu không có những giải pháp khắc phục kịp thời thì nó sẽ để lại hậu quả lớn về môi trường, ảnh hưởng xấu đến đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Việc nghiên cứu những tác động của CNH, HĐH đến môi trường giúp ta có cơ sở khoa học, để từ đó có thể tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhằm phát huy những tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực đối với môi trường. * Tác động tích cực của CNH, HĐH đến môi trường Thứ nhất CNH, HĐH tác động tích cực đến môi trường tự nhiên: CNH, HĐH với những tư duy tích cực, những tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ mới ứng dụng vào trong sản xuất và đời sống, cùng với những cách thức sản xuất, tiêu
  16. thụ tiên tiến của con người, giúp cho việc ngăn chặn và giảm thiểu ô nhiễm, nhằm bảo vệ, cải thiện môi trường một cách có hiệu quả. Thực tế cho thấy, khoa học, công nghệ có vai trò ngày càng quan trọng và không thể thiếu trong quá trình phát triển nói chung và quá trình CNH, HĐH nói riêng. Trong đó, công nghệ môi trường là một trong những công cụ hữu hiệu cho việc bảo vệ và cải thiện môi trường. Công nghệ môi trường (CNMT) là các sản phẩm hoặc quá trình có thể hạn chế, phòng ngừa, giảm thiểu hoặc xử lý các tác động có hại gây ra, do hoạt động của con người lên môi trường. CNMT còn bao gồm các quá trình sản xuất hiệu quả hơn, ít chất thải hơn hoặc tiêu thụ ít nguyên liệu hơn. CNMT còn bao gồm các phương pháp làm sạch môi trường ô nhiễm đang tồn tại hoặc tiêu huỷ an toàn hoặc tái chế chất thải [57]. Đặc biệt, với nhiều phát kiến khoa học, có thể tận dụng được tính năng của các loại tài nguyên, làm giảm lượng nguyên liệu tiêu dùng trong sản xuất. Mặt khác công nghệ còn giúp con người khai thác được nguồn tài nguyên truyền thống khó tiếp cận, từ đó góp phần làm tăng số lượng nguồn nguyên liệu thô [56, tr.60]. Hơn thế nữa, có thể tạo ra những tài nguyên mới, năng lượng mới, hữu ích với môi trường. Trên cơ sở đó, số lợi ích thu được từ một đơn vị tài nguyên và số lượng tài nguyên sẽ tăng lên, góp phần bảo vệ, phục hồi môi trường sinh thái. Với những công nghệ "xanh", “sạch", có thể cải thiện được môi trường tự nhiên, theo hướng có lợi cho con người. Hiện nay, công nghệ môi trường được phát triển ở nhiều quốc gia, trong đó những quốc gia được áp dụng một cách phổ biến, đó là Mỹ, Nhật, Canađa, Đài Loan, Hàn Quốc và đã được áp dụng, phát huy có hiệu quả ở Việt Nam. Cụ thể tác động tích cực của công nghệ đối với môi trường như sau: + Bảo vệ, cải thiện môi trường không khí bằng việc áp dụng công nghệ sạch trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải... qua việc xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn, giảm năng lượng tiêu thụ, tái tạo nguồn năng lượng mới. Với những công nghệ thân thiện với môi trường, có thể sản xuất ra những thiết bị kiểm soát ô nhiễm không khí, hay phòng ngừa sự ô nhiễm không khí. Hay, trên cơ sở “những công nghệ
  17. sạch” có thể ngăn chặn tận gốc, hay giảm thiểu mức độ ô nhiễm môi trường không khí, nhằm bảo vệ môi trường. Điển hình, gần đây Công ty Sarp của Nhật Bản cùng với nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học trên thế giới vừa phát triển công nghệ làm sạch không khí bằng i- ông chùm plasama. Với công nghệ này giúp cho việc có khả năng tiêu diệt tới 99 % virut cúm gia cầm H5N1, phát tán trong không khí. Ngoài ra, nó còn tác dụng trong việc loại bỏ triệt để 26 loại vật chất độc hại trong không khí. Các nguồn gây ô nhiễm không khí ở nước ta chủ yếu là do khí thải từ các nhà máy như phân bón, hoá chất, xi măng, giấy, nhiệt điện…Trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp đã tích cực trong việc áp dụng công nghệ xử lý khí thải của Việt Nam, hay nước ngoài, nhằm bảo vệ môi trường. Ví dụ như hệ thống xử lý khí thải của Nhà máy Nhiệt điện Formosa ở Đồng Nai, hệ thống xử lý khí thải lò hồ quang, ở Nhà máy Thép Tân Bình, Nhà máy Thép Thủ Đức, Nhà máy thép Tân Thuận (Thành phố Hồ Chí Minh); công nghệ xử lý bụi và rác thải tại các nhà máy sản xuất phân bón và hoá chất như Super photphat Lâm Thao, Nhà máy Hoá chất Tân Bình, Nhà máy Hoá chất Biên Hoà, Nhà máy Cao su Sao Vàng; hệ thống xử lý khí thải xi măng ở Nhà máy Xi măng Hà Tiên, Sao Mai, Hiệp Phước... [57]. Với những công nghệ "thân thiện”, còn có thể tạo ra những sản phẩm tiêu dùng sạch, giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí. Nhiều doanh nghiệp đã đưa ra những sản phẩm tối ưu cho người tiêu dùng trong thời gian qua. Thí dụ nh ư các sản phẩm của Sam Sung, LG, Hitachi, Toshiba, Sanyo… như máy giặt, tủ lạnh, máy lạnh…đã được áp dụng công nghệ Silver Nano. Qua khảo sát cho thấy, những sản phẩm này đều sử dụng màng lọc khí đa tầng, kết hợp tia cực tím để khử mùi, vi khuẩn, hút khí nhiễm khuẩn ra, đồng thời thu luồng khí sạch vào phòng. Với công nghệ sạch, có thể giúp cho việc giảm được nguyên liệu, năng lượng sản xuất và tiêu dùng. Từ đó giảm thiểu sự ô nhiễm không khí. Điển hình, như công nghệ phụ gia Maz- chất phụ gia cho xăng dầu (công nghệ của Mỹ). Theo thử nghiệm của các chuyên gia, đối với phụ gia MAZ trên động cơ xăng (MAZ 100) đã tiết kiệm được 5-10% nhiên liệu, các khí độc hại CO giảm 5-11%, HC giảm 13-15%; đối với động cơ diesel (MAZ 200) tiết kiệm 24% nhiên liệu; đối với động cơ dầu diesel sinh học tiết kiệm tới
  18. 25% nhiên liệu… [4]. Trong nông nghiệp, sự phát triển của ngành nông nghiệp hữu cơ với những phương pháp canh tác khoa học, đã không những mang lại độ phì nhiêu cho đất, tăng mực nước ngầm mà còn giảm lượng các-bon và đa dạng sinh học. áp dụng công nghệ mới còn để tái tạo nguồn năng lượng mới thay thế năng lượng cũ, nhằm ngăn chặn, hạn chế sự ô nhiễm không khí. Thí dụ việc sử dụng khí đốt sinh học Biogas - nguồn năng lượng tại chỗ và rẻ tiền đã đem lại hiệu quả tích cực cho việc xử lý ô nhiễm môi trường từ nguồn chất thải chăn nuôi tạo ra, vừa đem lại hiệu quả tích cực trong việc thay thế các dạng năng lượng khí đốt như xăng, dầu… phục vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân, mà không gây ảnh hưởng gì tới sức khoẻ con người. Hay, nhờ vào những ứng dụng công nghệ mới, người ta có thể sản xuất ra những sản phẩm sạch từ những nguyên liệu thay thế sạch. Điển hình là nhiên liệu sinh học (NLSH) là loại nhiên liệu được hình thành từ các chất có nguồn gốc động thực vật (sinh học), như từ chất béo động thực vật (mỡ động vật, dầu dừa), ngũ cốc (lúa mỳ, đậu tương..), chất thải nông nghiệp (rơm rạ, phân), chất thải công nghiệp (sản phẩm gỗ thải)...có tính chất thân thiện với môi trường, sinh ra ít hàm lượng khí gây hiệu ứng nhà kính, ít ô nhiễm. Bên cạnh đó, việc tìm kiếm, ứng dụng công nghệ mới nhằm khai thác nguồn năng lượng mới như năng lượng mặt trời, năng lượng tạo ra từ sức gió… nguồn năng lượng sạch, không gây hiệu ứng nhà kính đã đem lại hiệu quả to lớn về kinh tế và môi trường trên thế giới và đang bắt đầu áp dụng ở Việt Nam… + ứng dụng công nghệ mới, phương pháp tiên tiến để bảo vệ và cải thiện môi trường nước. Với những công nghệ tiên tiến, được áp dụng trong việc xử lý chất thải công nghiệp, đảm bảo đúng tiêu chuẩn, mà các doanh nghiệp có thể khắc phục, giảm thiểu sự ô nhiễm, bảo vệ được môi trường nước. Khi công nghiệp phát triển, nguồn gốc phát sinh nước thải của Việt Nam là chủ yếu từ công nghiệp chế biến thực phẩm, dệt nhuộm, giấy…Trên cơ sở những công nghệ mới, nhiều doanh nghiệp đã áp dụng hiệu quả trong quá trình xử lý chất thải, ngăn chặn sự ô nhiễm ra môi trường nước. Hơn thế nữa, bằng những công nghệ sạch, có thể dùng những nguyên liệu thay thế sạch trong sản xuất, nhằm khắc phục, giảm thiểu sự ô nhiễm. Điển hình, từ trước đây, trong ngành công nghiệp sản
  19. xuất gạch lát người ta vẫn hay sử dụng nguyên liệu thuỷ tinh thô chứa flo và chì để sản xuất gạch gốm, nhưng hậu quả để lại là làm chất thải ra môi trường đã làm ô nhiễm môi trường trầm trọng. Để khắc phục tình trạng đó, các công ty sản xuất gạch lát đã làm sạch nguồn nước thải bằng việc sử dụng nguyên liệu thuỷ tinh không có flo và chì thay thế cho loại nguyên liệu cũ [26, tr.62]. Cũng nhờ áp dụng công nghệ tiên tiến mà có thể giúp cho việc cung cấp nguồn nước sạch, hợp vệ sinh, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân, thông qua quy trình thoát nước, xử lý nước thải tập trung... phù hợp với đặc điểm các đô thị. Hiện nay, ở nước ta, nhiều đô thị lớn đã và đang xây dựng các nhà máy xử lý nước thải, như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hạ Long, Đà Nẵng, Buôn Mê Thuột… Mặt khác, với những chế phẩm sinh học, có thể cải thiện chất l ượng nước trong chăn nuôi thuỷ sản, nhằm tạo ra những sản phẩm nước sạch cho môi trường. Thí dụ hiện nay, người ta đã sử dụng chế phẩm BRF- 2 quakit, nhằm tiêu thụ các chất hữu cơ phát sinh trong quá trình sinh trưởng của vật nuôi trong ao hồ, tạo được sự ổn định, duy trì chất lượng nước, màu nước trong ao hồ, đồng thời còn giúp giảm thiểu được các vi sinh vật gây bệnh như Vibri, aeromonas, E coli…, làm tăng lượng ôxy hoà tan trong nước, giảm thiểu lượng nước amoniac. Trên cơ sở những ứng dụng công nghệ sạch còn đem lại những hiệu quả tích cực trong việc tiết kiệm nguồn nước, góp phần bảo vệ và cải thiện môi trường. Năm 2005, ước tính ở nước ta, do ứng dụng công nghệ sạch và phương pháp sản xuất mới, đã tiết kiệm lượng nước tiêu thụ 40 % - 70%; tiết kiệm tiêu thụ điện 20% - 50%; giảm các chất độc hại 50% - 100%; giảm tải lượng BOD trong nước khoảng 50 - 70%; giảm tổng số lưu huỳnh trong nước [47]. + Công nghệ hiện đại cho phép ngăn chặn, hạn chế nguồn phát thải gây ô nhiễm cho đất, cho phép xử lý trực tiếp những chất thải gây ô nhiễm cho đất như chất thải rắn công nghiệp, chất thải nguy hại phát sinh từ các nhà máy sản xuất thuốc bảo vệ thực vật, hoá chất, sản xuất linh kiện điện tử… Thiêu huỷ chất thải rắn được coi là một phương pháp để khắc phục sự ô nhiễm. Trên cơ sở công nghệ cao, có thể xây dựng những lò đốt rác có nhiệt độ cao, có thể đốt
  20. được chất thải rắn thông thường và cả nguy hại, mà không gây ô nhiễm ra môi trường. Bên cạnh đó, còn có những công nghệ đang được triển khai, nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ các nguồn rác thải: Ví dụ như xử lý rác thải bằng giun, xử lý rác thải bằng ruồi đen, xử lý mùi hôi sinh ra từ bãi rác, bằng chế phẩm EM… Một số địa phương, như TP Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai; Huyện Hải Ninh, tỉnh Ninh Thuận... áp dụng công nghệ ủ yếm khí, kết hợp sản xuất phân bón hữu cơ. Những chất thải rắn hữu cơ dễ bị phân huỷ như rau, quả, cỏ, lá cây… có thể chế thành phân compost dùng cho nông nghiệp. Hơn nữa, với những công nghệ hiện đại, có thể đem lại khả năng tái chế nguyên nhiên vật liệu cao. Điển hình là những công nghệ mới như Seraphin, Tâm Sinh Nghĩa, Công ty thuỷ lực đã được áp dụng ở một số thành phố như Hà Nội, Vinh, Huế… đã đem lại kết quả khả quan về tái chế. Tỷ lệ tái chế tới hơn 90%, chỉ còn dưới 10% chất thải được chôn lấp, từ đó sẽ hạn chế nhiều sự ô nhiễm đối với đất... Hiện nay người ta còn sản xuất ra đất sinh học, một loại chất cải tạo đất, giàu chất hữu cơ, vi sinh hữu ích… Thí dụ như đất sinh học DASI, DASO - XO của công ty TNHH DASI. Như vậy, CNH, HĐH thúc đẩy sự ứng dụng mạnh mẽ công nghệ vào sản xuất và đời sống, thúc đẩy việc áp dụng những phương pháp sản xuất tiên tiến, đây chính là yếu tố góp phần quan trọng trong việc bảo vệ, cải thiện môi trường tự nhiên. Bên cạnh đó, CNH, HĐH giúp cho việc nâng cao trình độ văn hoá, nâng cao nhận thức của con người. Điều đó có lợi cho việc nâng cao ý thức, trách nhiệm của con người đối với việc bảo vệ môi trường tự nhiên. Bởi việc nâng cao về nhận thức khiến cho con người trở nên hiểu biết. Từ đó hình thành một hệ thống ý thức trách nhiệm đối với cuộc sống văn minh của loài người. Con người sẽ tự giác và biết cách chăm lo, bảo vệ và cải thiện môi trường. CNH, HĐH khiến cho cách thức sản xuất và tiêu dùng của con người cũng thay đổi theo hướng hiện đại. Cách nghĩ, cách làm của con người được nâng lên khoa học, hiệu quả hơn, theo xu hướng có lợi cho môi trường. Trong tiêu dùng con người sẽ có kiến thức để tiêu dùng những mặt hàng nào có chất lượng, mà không gây ô nhiễm môi trường. CNH, HĐH được đẩy mạnh, khiến cho quy hoạch về cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại hơn. Đường giao thông được nâng cấp, cải tạo, hạn chế nồng độ bụi trong không khí.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2