intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn "Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO tới ngành xuất khẩu gạo"

Chia sẻ: Lê Nga | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

1.115
lượt xem
561
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ở Việt Nam, ngành sản xuất lúa gạo thường chiếm 50% tổng diện tích gieo trồng nông nghiệp và đang là nguồn kế sinh chính của hơn 60% dân số cả nước, ảnh hưởng trực tiếp đến 2/3 hộ gia đình làm nông nghiệp trong đó có 44% số hộ thuộc diện khó khăn và có nguy cơ tiềm ẩn tái nghèo. Với vị trí quan trọng như vậy, ngành xuất khẩu “gạo” chính là chìa khóa của sự ổn định và phát triển nền kinh tế của đất nước cũng như cải thiện mức sống đối với người dân. Đặc biệt, sau khi gia nhập...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn "Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO tới ngành xuất khẩu gạo"

  1. Luận văn Đề tài: "Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO tới ngành xuất khẩu gạo" 1
  2. Mục lục PHẦN MỘT: LỜI MỞ ĐẦU .................................... 3 PHẦN HAI: ............................................ NỘI DUNG 4 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH XUẤT KHẨU “GẠO” VIỆT NAM:..................................... 4 1.1. Vai trò của ngành xuất khẩu “gạo”:.................... 4 1.2. Tình hình xuất khẩu “gạo” của Việt Nam từ khi gia nhập WTO: .......................................................... 6 CHƯƠNG II: MA TRẬN KẾT HỢP “SWOT” CỦA XUẤT KHẨU “GẠO”: ........................................... 10 2.1. Điểm mạnh bên trong: (S – Strength)............... 13 2.2. Điểm yếu bên trong: ( W- Weakness) .............. 16 2.3. Cơ hội bên ngoài: ( O – Opportunities ) ........... 19 2.4. Thách thức bên ngoài: ( T – Theats )................ 22 2.5. Phối hợp SO: .................................................... 24 2.6. Phối hợp SW: ................................................... 25 2.7. Phối hợp WO:................................................... 26 2.8. Phối hợp WT .................................................... 27 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ..................................... 28 PHẦN BA : KẾT LUẬN......................................... 30 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................... 31 2
  3. PHẦN MỘT: LỜI MỞ ĐẦU Ở Việt Nam, ngành sản xuất lúa gạo thường chiếm 50% tổng diện tích gieo trồng nông nghiệp và đang là nguồn kế sinh chính của hơn 60% dân số cả nước, ảnh hưởng trực tiếp đến 2/3 hộ gia đình làm nông nghiệp trong đó có 44% số hộ thuộc diện khó khăn và có nguy cơ tiềm ẩn tái nghèo. Với vị trí quan trọng như vậy, ngành xuất khẩu “gạo” chính là chìa khóa của sự ổn định và phát triển nền kinh tế của đất nước cũng như cải thiện mức sống đối với người dân. Đặc biệt, sau khi gia nhập WTO, ngành xuất khẩu “gạo” có thêm những cơ hội phát triển cũng như những lợi ích tiềm năng mà WTO mang lại như mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút được đầu tư của nước ngoài về cơ sở hạ tầng như hệ thống máy móc tại cảng biển... Đồng thời Việt Nam cũng có tiếng nói chung với 149 nước khác khi khi gia nhập WTO, từ đó chúng ta đã tạo dựng lên các mối quan hệ tốt đẹp và có thể học hỏi được kinh nghiệm cũng như chuyển giao máy móc công nghệ phục vụ cho việc sản xuất gạo với các nước phát triển như Mỹ, Nhật để đảm bảo có được năng suất cao, nguồn cung dồi dào, chất lượng tốt, giá thành rẻ, nâng cao vị thế cạnh tranh, khẳng định thương hiệu Việt trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, nông nghiệp nói chung và ngành ngành xuất khẩu “gạo” nói riêng được coi là ngành chịu nhiều tác động nhất trong quá trình gia nhập WTO của Việt Nam. Nhiều lo ngại, thách thức cũng như những yếu điểm về sức cạnh tranh của “gạo” Việt Nam trên sân chơi lớn này xuất phát từ những hạn chế trong năng lực sản xuất, chế biến, tạo dựng thương hiệu và uy tín của từng mặt hàng nông sản. Để ngành xuất khẩu “gạo” thực sự vững vàng với WTO, thì cùng với việc quy hoạch, định hướng sản xuất và tăng cường ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, việc tăng cường nâng cao trình độ, năng lực sản xuất, ứng dụng khoa hoạ kỹ thuật và nắm bắt xu thế thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn là nhiệm vụ quan trọng. Để hiểu rõ hơn về tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO tới ngành xuất khẩu “gạo” như thế nào, chúng ta nên có cái nhìn tổng quát hơn về ma trân SWOT của ngành này từ đó sẽ đề ra những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu “gạo” phát triển hơn. 3
  4. PHẦN HAI: NỘI DUNG CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH XUẤT KHẨU “GẠO” VIỆT NAM: 1.1. Vai trò của ngành xuất khẩu “gạo”: Xuất khẩu được thừa nhận là ngành rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Việc mở rộng xuất khẩu không những góp phần tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước và tác động gián tiếp vào nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm tăng thu nhập, ngoại tệ cho đất nước. 1.1.1.Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước: Quá trình công nghiệp hoá cần một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị kĩ thuật công nghệ cao để có thể theo kịp nền công nghiệp hiện đại của các nước đã phát triển. Nguồn vốn cho nhập khẩu được hình thành từ rất nhiều nguồn vốn khác nhau: o Đầu tư nước ngoài o Vay nợ, viện trợ o Thu từ hoạt động du lịch o Xuất khẩu… Các nguồn vốn khác quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất vẫn là xuất khẩu, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Hiện nay các nước xuất khẩu “gạo” với khối lượng lớn chủ yếu là các nước đang phát triển: Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Pakistan…Chính vì thế nguồn ngoại tệ thu về từ xuất khẩu gạo đối các nước này là rất quan trọng. 4
  5. 1.1.2. Xuất khẩu đóng vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển: Ngày nay với xu thế hội nhập, cơ hội và thách thức rất nhiều, các nước đều phải phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu những sản phẩm mà mình có lợi thế và nhập khẩu những sản phẩm không có lợi thế hoặc lợi thế so với các sản phẩm khác nhỏ hơn. Khi gạo đã trở thành một lợi thế trong xuất khẩu của một nước thì các nước đó sẽ tập trung vào sản xuất lúa gạo với quy mô lớn, trình độ thâm canh cao, khoa học kỹ thuật tiến bộ nhằm tăng năng xuất, sản lượng và chất lượng gạo. Từ sự tập trung sản xuất đó sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành có liên quan và dẫn tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát triển. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp yếu tố đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Tạo tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Thông qua xuất khẩu nước ta có thể tham gia vào công cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng từ đó hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích ghi với thị trường. Đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải đổi mới hoàn thiện công việc sản xuất kinh doanh. 1.1.3. Xuất khẩu có tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân: Xuất khẩu gạo trước hết làm tăng thu nhập của người nông dân đặc biệt ở các vùng chuyên canh lúa nước, đời sống người dân phụ thuộc chủ yếu vào cây lúa. Không những thế, xuất khẩu giúp giải quyết một lượng lớn lao động dư thừa trong nước. Khi thực hiện tăng cường xuất khẩu thì kéo theo nó là vấn đề xay xát, chế biến phát triển, vấn đề vận chuyển hàng hoá …những công tác trên thu hút khá nhiều lao động từ không có trình độ kỹ thuật, quản lý đến có trình độ cao. Việc tạo 5
  6. việc làm ổn định cũng chính là một biện pháp hữu hiệu để tăng thu nhập, ổn định xã hội. Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì xuất khẩu gạo là một lợi thế lớn. Bởi sản xuất và xuất khẩu gạo có những lợi thế căn bản như: đất đai, khí hậu, nguồn nước, nguồn nhân lực … Và đặc biệt yêu cầu về vốn kỹ thuật trung bình, với các lợi thế như vậy tăng cường xuất khẩu gạo là hướng đi đúng đắn nhất. Xuất khẩu gạo hay xuất khẩu hàng hoá nông sản nói chung có tác động to lớn đến nền kinh tế nước ta, giúp khai thác được tất cả các lợi thế tương đối cũng như tuyệt đối của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Trong quá trình sản xuất lúa gạo, Việt Nam đã thu được những kết quả to lớn từ một nước nhập khẩu trở thành một nước xuất khẩu thứ hai thế giới. Tuy nhiên xuất khẩu gạo Việt Nam còn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Cần có giải pháp cụ thể cho vấn đề này. 1.2. Tình hình xuất khẩu “gạo” của Việt Nam từ khi gia nhập WTO: 1.2.1. Kim ngạch xuất khẩu: Công tác xuất khẩu “gạo” trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ. Qui mô xuất khẩu gạo ngày càng mở rộng với khối lượng và kim ngạch tăng với tốc độ khá cao. Xét về cơ cấu ngành hàng xuất khẩu từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, bên cạnh một số sản phẩm nông sản mang tính truyền thống như lạc nhân, hạt tiêu, cà phê, đỗ tương, gạo đã trở thành một mặt hàng nông sản mang về cho đất nước một nguồn ngoại tệ xuất khẩu rất lớn. Tốc độ tăng trưởng về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu “gạo” tăng lên một cách đáng kinh ngạc. Năm 2007, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, lượng gạo cả nước xuất khẩu đến nay đã đạt mức 4,5 triệu tấn với kim ngạch trị giá 1,5 tỷ USD. Đặc biệt trong năm này, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng đáng kể và lần đầu tiên ngang giá với gạo Thái Lan. Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, trong 6
  7. bài Xuất khẩu nông sản: "Bay qua vùng thời tiết xấu”, năm 2008 xuất khẩu gạo đạt 4,7 triệu tấn, kim ngạch đạt 2,9 tỉ đô la Mỹ (tính ra, giá bán bình quân 617,02 đô la Mỹ/tấn). Năm 2009, thị trường hàng hoá thế giới chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế nghiêm trọng, trong đó có lúa gạo. Dưới sự điều hành xuất khẩu linh hoạt của Chính phủ, năm qua, cả nước đã xuất khẩu được 6,052 triệu tấn gạo, kim ngạch XK gần 2,7 tỉ USD, đây là năm có số lượng xuất khẩu nhiều nhất từ trước đến nay; trong đó chủng loại gạo cao cấp chiếm đến 40, 25%. Tổng giá trị xuất khẩu đạt 2,463 tỉ USD (giá FOB); về số lượng tăng 29,35% so năm 2008. Đặc biệt, tỷ lệ gạo cao cấp XK đã đạt 50% (những năm trước chỉ khoảng 34%). Như vậy, mặc dù năm 2009 xuất khẩu nhiều hơn năm 2008 đến 1,352 triệu tấn gạo, nhưng kim ngạch xuất khẩu giảm 200.000 đô la Mỹ, giá bán giảm 183,69 đô la Mỹ/tấn. Tháng 4/2010 cả nước xuất khẩu 725.620 tấn gạo các loại, đạt 361,4 triệu USD, giảm 49,71% về lượng và giảm 54,41% về trị giá so với tháng 3/2010. Tính chung cả 4 tháng đầu năm lượng xuất khẩu đạt 2,2 triệu tấn, đạt kim ngạch 1,15 tỷ USD, giảm 12,81% về lượng và giảm nhẹ 0,33% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2009. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam gần như thấp nhất so với những nước xuất khẩu gạo khác, giá bình quân 4 tháng đạt 532USD/tấn, tăng hơn 14% so với cùng kỳ năm 2009 nhưng vẫn thấp hơn giá bình quân 3 tháng đầu năm là 549USD/tấn. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan cho biết, dù vẫn giảm 7,3% về lượng, xuất khẩu gạo 5 tháng đầu năm đã tăng 0,6% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, xuất khẩu gạo từ đầu năm đến nay đã đạt trên 2,9 triệu tấn với kim ngạch xấp xỉ 1,5 tỷ USD, bằng 58,4% kế hoạch cả năm, đồng thời đứng thứ 5 trong các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu dẫn đầu cả nước, xếp sau dệt may, dầu thô, da giày và thủy sản. Có được kết quả này là do giá gạo xuất khẩu đã tăng khá hơn trong năm nay. Cụ thể, giá gạo xuất khẩu bình quân 5 tháng đầu năm đạt 513,43 USD/tấn, tăng khoảng 8,5% so với cùng kỳ năm trước (giá gạo xuất khẩu bình quân 5 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt 473,37 USD/tấn). 7
  8. Sản lượng xuất khẩu gạo năm 2007 - 2009 7000000 6052000 6000000 5000000 4500000 4700000 Sản lượng 4000000 3000000 2000000 1000000 0 2007 2008 2009 Năm Đơn vị : tấn 1.2.2. Cơ cấu thị trường: Có thể nói rằng công tác thị trường của ngành xuất khẩu gạo đã có những tiến bộ vượt bậc. Cho đến nay, gạo Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường của trên 70 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có các thị trường khó tính như EU, Hoa Kỳ nhưng chủ yếu là sang Philippines; Malaysia; Cu Ba; Singapore. Theo một chuyên gia trong lĩnh vực ngành hàng xuất khẩu, trong vài năm gần đây, sau khi đạt tới sự bão hòa về khối lượng tại các thị trường truyền thống, các hoạt động khai phá để tạo sự tăng trưởng ở các thị trường mới của các doanh nghiệp (DN) xuất khẩu gạo là không đáng kể. Philippines vẫn dẫn đầu cả về lượng và kim ngạch, riêng tháng 4/2010 xuất sang Philippines 229.030 tấn gạo, trị giá 153,5 triệu USD (chiếm 31,56% về lượng và 42,48% về kim ngạch). Tính cả 4 tháng xuất sang Philippines hơn 1 triệu tấn gạo, trị giá 640,7 triệu USD (chiếm 46,64% về lượng và 55,5% về kim ngạch). Trong tháng 4/2010 cũng có thêm 4 thị trường xuất khẩu gạo đạt trên 10 triệu USD là: Singapore 43,4 triệu USD; Đài Loan 28,4 triệu USD; Malaysia 21,6 triệu USD; Hồng Kông 11,3 triệu USD. Xuất khẩu gạo sang các thị trường trong tháng 4/2010 đa số đều giảm về lượng và trị giá so với tháng 3/2010; trong đó dẫn đầu về sự sụt giảm là thị trường 8
  9. Cu Ba chỉ đạt 1.275 tấn, trị giá 0,51 triệu USD, giảm 98,7% về lượng và 98,84% về kim ngạch; đứng thứ 2 về mức sụt giảm là thị trường Tiểu vương Quốc Ả Rập thống nhất (-94,59% về lượng và -95,56% về kim ngạch); tiếp đến Italia (-86,06% về lượng và -87,33% về kim ngạch); Indonesia (-73,97% về lượng và -78,44% về kim ngạch); Philippines (-70,73% về lượng và 68,49% về kim ngạch); Malaysia (- 58,01% về lượng và -59,66% về kim ngạch); Nga (-52,47% về lượng và -55,8% về kim ngạch)… Chỉ có 5 thị trường tăng cả lượng và kim ngạch so với tháng 3/2010, dẫn đầu về mức tăng trưởng dương là thị trường Pháp (+118,15% về lượng và +78,84% về kim ngạch); thứ 2 là thị trường Hồng Kông (+113,61% về lượng và +70,95% về kim ngạch); tiếp theo là Australia (+73,37% về lượng và +25,74% về kim ngạch); Nam Phi (+61,26% về lượng và +49,66% về kim ngạch); Singapore (+34,75% về lượng và +17,57% về kim ngạch). Riêng lượng gạo xuất sang Ucraina trong tháng 4/2010 tăng 17,45% về lượng nhưng giảm 0,78% về kim ngạch so với tháng 3/2010. Trong tháng 4/2010 có 2 thị trường không tham gia xuất khẩu gạo là Tây Ban Nha và Hà Lan. Thị trường xuất khẩu gạo tháng 4/2010 Tháng 4/2010 4 tháng 2010 Tăng giảm Thị trường Lượng Trị giá Lượng Trị giá Tăng kim (tấn) (USD) (tấn) (USD) giảm về ngạch lượng T4 T4 so so T3(%) T3(%) Tổng cộng 725.620 361.359.655 2.168.597 1.153.924.498 -49,71 -54,41 Philippines 229.030 153.495.045 1.011.478 640.694.155 -70,73 -68,49 Singapore 106.578 43.352.674 185.671 80.225.154 +34,75 +17,57 9
  10. Đài Loan 75.456 28.393.028 171.416 68.990.028 -21,37 -30,06 Malaysia 49.134 21.569.645 166.136 75.040.265 -58,01 -59,66 Hồng 26.723 11.284.638 39.233 17.885.934 +113,61 +70,95 Kông Nga 6.700 2.916.730 20.796 9.514.927 -52,47 -55,80 Nam Phi 4.875 2.150.000 7.898 3.586.587 +61,26 +49,66 Ucraina 4.375 1.864.538 8.099 3.743.668 +17,45 -0,78 Indonesia 3.385 1.773.925 16.390 10.000.920 -73,97 -78,44 Australia 1.543 696.333 2.433 1.250.125 +73,37 +25,74 Cu Ba 1.275 510.000 99.325 44.356.958 -98,70 -98,84 Pháp 613 230.314 894 359.093 +118,15 +78,84 Ba Lan 275 126.100 750 345.336 -42,11 -42,47 Italia 46 23.000 376 204.521 -86,06 -87,33 Tiểu 50 20.521 974 482.976 -94,59 -95,56 vương Quốc Ả Rập thống nhất Hà Lan 0 0 327 191.000 * * Tây Ban 0 0 119 80.290 * Nha CHƯƠNG II: MA TRẬN KẾT HỢP “SWOT” CỦA XUẤT KHẨU “GẠO”: Từ khi Việt Nam chính thức là thành viên của Tổ chức Thương Mại Thế Giới – WTO, nền kinh tế nói chung cũng như ngành xuất khẩu “gạo” nói riêng đã có những bước phát triển không ngừng nhờ vào những điểm mạnh cũng như cơ 10
  11. hội mà WTO mang lại cho Việt Nam. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể không nhắc đến những khó khăn, thách thức mà WTO đã tác động tới. Chính vì vậy chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Ma trận kết hợp “SWOT” của ngành xuất khẩu “gạo” trong thời gian Việt Nam đã gia nhập vào WTO: Ma trận kết hợp SWOT Cơ hội Thách thức: của ngành xuất khẩu 1.Thị trường nước 1. Khủng hoảng tài “gạo” Việt Nam sau khi ngoài chưa bão hòa. chính toàn cầu. gia nhập WTO 2.Các rào cản thuế 2. Do đồng Euro mất quan và phi thuế quan giá nên thách thức lớn đặt được phá vỡ nên cơ hội ra cho việc xuất khẩu qua phát triển là rất lớn. các nước châu Phi. 3.Cơ hội tiếp xúc, làm 3. Xuất hiện đối thủ việc, học hỏi kinh nghiệm cạnh tranh mới như và chuyển giao công nghệ myanmar, pakistan.. với các nước phát triển 4. Xu hướng bảo hộ như Mỹ, Nhật.. mậu dịch có chiều hướng 4. Thu hút được sự gia tăng. đầu tư và quan tâm của các tổ chức ngân hàng lớn như WB. Điểm mạnh Phối hợp SO Phối hợp ST 1.Gia nhập WTO, Việt 1. Chiến lược thâm nhập Phát triển sản phẩm Nam có nhiều cam kết tạo thị trường: với chất lượng cao (S1, nên thế mạnh cho ngành (S1, S3, O1, O2). S3,S4, W1, W4). xuất khẩu “gạo” như cam 2. Chiến lược phát triển kết IRN, cam kết trợ cấp thị trường 11
  12. nông nghiệp… ( S1, S2, S4, O1, O2). 2. Được hưởng những 3. Chiến lược phát triển ưu đãi, đối xử công bằng sản phẩm theo hướng như các quốc gia trohg nâng cao chất lượng sản WTO. phẩm (S1, S2, S4, O3, 3. Thị trường tiềm O4) năng lớn. 4.Thị trường trong nước tiếp tục ổn định. Điểm yếu Phối hợp WO Phối hợp WT 1. Trợ cấp xuất khẩu 1. Đổi mới công nghệ 1. Chiến lược cạnh tranh trong nông nghiệp bị phá (W2, W3, O3,O4) về giá bỏ trừ trường hợp được 2. Mở rộng thị trường sản (W1, W2, W3, T1, T2) hưởng ưu đãi dành cho phẩm (W1, W4, O1, O2) 2. Chiến lược hội nhập nước đang phát triển. phía sau 2. Cơ sở hạ tầng, máy (W1, W2, T1, T4) móc trang thiết bị đầu tư cho nông nghiệp cũng như hệ thống vận chuyển còn thấp… 3. Năng lực tài chính còn hạn hẹp, nguồn thông tin và nhân lực như các chuyên gia trình độ dự báo cung cầu còn nhiều hạn chế. 4. Chính sách của chính phủ chưa hợp lý… 12
  13. 2.1. Điểm mạnh bên trong: (S – Strength) Thứ nhất, khi gia nhập WTO, Việt Nam có nhiều cam kết tạo nên thế mạnh cho ngành xuất khẩu “gạo” như cam kết IRN, cam kết trợ cấp nông nghiệp: Khi gia nhập WTO, trong cam kết mở cửa thị trường nông sản trong đó có xuất khẩu “gạo” có cam kết “quyền đàm phán ban đầu (INR) nghĩa là trong quá trình thực hiện cam kết, một số trường hợp nhất định không lường trước được, Việt Nam có thể tăng thuế nhập khẩu “gạo” cao hơn mức cam kết. Trường hợp đó, Việt Nam phải đàm phán trước với những nước dành được Quyền đàm phán ban đầu (tên những nước đó được ghi bên cạnh mỗi dòng sản phẩm trong Biểu cam kết). Những nước đề nghị INR đối với nông sản của Việt nam chủ yếu là Mỹ, Úc, New Zealand, Braxin. Điều này cho thấy thuận lợi cho việc bảo hộ ngành xuất khẩu “gạo” cũng như nâng cao lợi thế cạnh tranh, khẳng định thương hiệu gạo của Việt Nam với các quốc gia cùng ngành. Trong cam kết về trợ cấp nông nghiệp: Việt Nam có quyền được trợ cấp nội địa thuộc “hộp xanh lá cây”, không phải cắt giảm, cũng không bị các nước khác khiếu kiện, các doanh nghiệp xuất khẩu “gạo” có thể đề xuất nhà nước áp dụng mà không vi phạm cam kết trong WTO như: Nhóm trợ cấp các dịch vụ chung: như trợ cấp nghiên cứu khoa học về phân bón, đất đai, giống, kiểm soát dịch bệnh, kết cấu hạ tầng gồm điện, đường, thủy lợi... Điều này giúp cho năng suất lúa cao hơn, chất lượng tốt, giá thành rẻ hơn, tạo được lòng tin từ nông dân giúp ngành xuất khẩu “gạo” tốt hơn tạo được lợi thế về giá và có nguồn cung dồi dào so với các nước khác. Nhóm hỗ trợ giảm nhẹ thiên tai: như hỗ trợ các khoản chi phí nhằm phục hồi sản xuất nông nghiệp cho những vùng bị thiên tai về giống, thuốc bảo vệ thực vật, san ủi đồng ruộng. Với nhóm hỗ trợ này giúp cho 13
  14. bà con nông dân an tâm hơn trong việc canh tác dẫn đến chất lượng tốt hơn, diện tích đất trồng lúa không những không bị thu hẹp mà có thể còn mở rộng hơn do đất đai màu mỡ, và tỉ lệ dân cư được phân bố tại vùng nông thôn rất lớn và có trình độ học vấn thấp, giúp giải quyết vấn đề việc làm cho họ, nâng cao đời sống, phục vụ cho việc xuất khẩu “gạo” phát triển hơn. Theo quy định tại Hiệp định Nông nghiệp, thành viên WTO vẫn có thể thực hiện các trợ cấp thuộc “hộp hổ phách” là các chương trình thu mua gạo của chính phủ để can thiệp với mức 10% tổng trị giá sản lượng ngành nông nghiệp đối với nước đang phát triển như Việt Nam. Là nước đang phát triển trong WTO, Việt Nam cũng được hưởng các trợ cấp nhằm giảm chi phí tiếp cận thị trường nước ngoài (cước phí vận chuyển, nâng phẩm cấp để xuất khẩu…) và trợ cấp vận tải nội địa và quốc tế cho hàng xuất khẩu sẽ không bị xếp vào các hình thức trợ cấp xuất khẩu bị cấm. Đây là điểm có lợi cho Việt Nam khi gia nhập WTO để tăng lợi thế cạnh tranh về giá cho ngành xuất khẩu “gạo” phát triển. Thứ hai, được hưởng những ưu đãi, đối xử công bằng như các quốc gia trong WTO. Thị trường xuất khẩu được mở rộng với mức thuế quan MFN (có nghĩa là nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác) thấp và ổn định. Như chúng ta đã biết trước khi trở thành thành viên của WTO, xuất khẩu “gạo” nói riêng phải chịu mức thuế phổ thông (thường là mức thuế cao hơn) của nước nhập khẩu. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các nước thành viên WTO (149 nước vào thời điểm 11/1/2007) có nghĩa vụ phải cho hàng hóa Việt Nam hưởng thuế suất MFN theo cam kết của họ trong WTO. Đây là một lợi ích rất lớn của việc gia nhập WTO mà các doanh nghiệp nông nghiệp cần tận dụng bởi vì khi đó doanh thu sẽ gia tăng, đồng nghĩa với việc lợi nhuận sẽ tăng. Và khi gia nhập WTO, đối với ngành lúa gạo là ngành mà Việt Nam có tiềm lực xuất khẩu mạnh, 14
  15. vì vậy cần tận dụng cơ hội thuế nhập khẩu MFN vào các nước thành viên WTO thấp và ổn định để đẩy mạnh xuất khẩu (chủ yếu thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm, uy tín thương mại, quảng bá sản phẩm). Thứ ba, thị trường tiềm năng lớn: Hiện nay các Bộ, ngành đã dành sự quan tâm thích đáng cho việc ban hành các văn bản pháp lý để thực hiện cam kết mở cửa thị trường nông sản điển hình là việc nhập khẩu “gạo”. Một trong số những cam kết đó là cam kết về thuế quan: mức thuế nhập khẩu của sản phẩm “gạo” thì giảm rất ít hoặc không giảm và việc cắt giảm này cam kết được thực hiện trong vòng từ 3-5 năm kể từ khi gia nhập WTO, mức giảm thuế sẽ được chia đều cho mỗi năm trong lộ trình cắt giảm. Điều này giúp củng cố niềm tin của cộng đồng quốc tế vào quyết tâm của Chính phủ Việt Nam thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ thành viên bên cạnh đó hiện nay Việt Nam đang áp dụng mức thuế nhập khẩu thấp hơn so với cam kết đây là một vấn đề không đáng lo ngại bởi vì chúng ta có thể tăng thuế trở lại trong tương lai khi có nhu cầu bảo hộ đối với ngành xuất khẩu gạo trong nước, thiết lập được mối quan hệ ngoại giao để có cơ hội xâm nhập vào những thị trường tiềm năng mới và hội nhập với thị trường gạo thế giới. Thứ tư, thị trường trong nước tiếp tục ổn định: Việt Nam đã thành công trong đàm phán gia nhập WTO về nông nghiệp và được giữ nguyên mức bảo hộ thuế nhập khẩu nông sản nói chung và thuế nhập khẩu “gạo” nói chung ở mức như trước khi gia nhập. Điển hình như cam kết thuế quan của Việt Nam đối với mặt hàng gạo bình quân trong WTO là 40% (trừ giống lúa), đây là mức thuế bằng với mức MFN hiện nay và mức thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập này sẽ vẫn được giữ ở mức 40% mà không phải giảm nữa. Như vậy, sau 11/1/2007 (thời điểm gia nhập WTO), thuế và các điều kiện nhập khẩu khác là hầu như không có sự thay đổi so với trước khi gia nhập WTO. Thị trường trong nước vì thế ổn định, không phải chịu sự cạnh tranh gay gắt đến từ phía “gạo” nước ngoài (từ góc độ thuế quan). 15
  16. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng, từ khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, đã tạo cho Việt Nam rất nhiều thuận lợi như các chính sách hỗ trợ…Những hoạt động này giúp cho ngành xuất khẩu “gạo” tăng thêm lợi thế cạnh tranh và tạo dựng được thương hiệu của mình trên thị trường thế giới. 2.2. Điểm yếu bên trong: ( W- Weakness) Thứ nhất, trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp bị phá bỏ trừ trường hợp được hưởng ưu đãi dành cho nước đang phát triển: Là nước gia nhập sau, Việt Nam phải bãi bỏ tất cả các trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp nói chung và ngành xuất khẩu “gạo” nói riêng (trừ trường hợp được hưởng đối xử ưu đãi dành cho nước đang phát triển). Bởi vì đây là biện pháp bị cấm hoàn toàn đối với tất cả các quốc gia gia nhập WTO sau 1/1/1995. Như vậy, về cơ bản, doanh nghiệp Việt Nam không hy vọng được hưởng các hình thức trợ cấp xuất khẩu này. Đây chính là một điểm bất lợi hay là điểm yếu cho ngành xuất khẩu “gạo” ở Việt Nam bởi vì nó sẽ làm tăng thêm chi phí và giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Thứ hai, cơ sở hạ tầng, máy móc trang thiết bị đầu tư cho nông nghiệp cũng như hệ thống vận chuyển còn thấp: Cơ sở hạ tầng còn yếu kém như hệ thống giao thông vận tải, máy móc đầu tư cho sản xuất nông nghiệp còn thấp dẫn đến năng suất chưa cao, chất lượng chưa đảm bảo, và tất nhiên là nguồn nguyên liệu đầu vào cho xuất khẩu “gạo” còn nhiều hạn chế. Không chỉ dừng lại ở đó, do đầu tư cho nông nghiệp thấp nên hiện nay nước mặn đã xâm nhập sâu vào đất liền nhiều tỉnh ven biển. Đây là khó khăn rất lớn đối với vụ đông xuân của bà con hơn thế nữa tình trạng hạn hán kéo dài cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, sản lượng lúa và khi đó giá thành sẽ tăng lên. Đồng thời, bệnh dày nâu và bệnh đạo ôn đang đe dọa nguồn cung cho xuất khẩu “gạo” ở nước ta. Theo thống kê, hiện có khoảng 80.000 ha lúa bị bệnh đạo 16
  17. ôn. Điều đáng lo ngại là có tới 80% giống lúa mà nông dân dùng để gieo sạ đã nhiễm bệnh này. Do trình độ và sự hiểu biết của họ chưa cao nên trong quá trình sản xuất nông dân lại gieo sạ dày, bón phân đạm quá nhiều, gặp thời tiết bất lợi nên bệnh dễ bùng phát và rất khó phòng trị. Trong khi đó, sau khi gia nhập WTO đối thủ của chúng ta như Thái Lan đã áp dụng các máy móc công nghệ hiện đại vào sản xuất cũng như gieo trồng lúa. Đây chính là điểm yếu mà chúng ta cần khắc phục để đẩy mạnh việc xuất khẩu “gạo” bằng hình thức tạo ra một nguồn cung ứng dồi dào. Bên cạnh đó, từ khi gia nhập WTO, thị trường xuất khẩu “gạo” của chúng ta có thêm thị trường mới đó là những nước phát triển như Mỹ, những thị trường này có giá cao hơn và tất nhiên là chất lượng sản phẩm cũng phải tương xứng và gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn có giá thấp nhất nếu so với gạo cùng loại của các nước khác do chất lượng gạo của chúng ta không đồng đều, quy trình sản xuất, bảo quản còn yếu. Thứ ba, năng lực tài chính còn hạn hẹp, nguồn thông tin và nhân lực như các chuyên gia trình độ dự báo cung cầu còn nhiều hạn chế: Sau khi gia nhập WTO thị trường xuất khẩu “gạo” của chúng ta ngày càng mở rộng đòi hỏi phải có hệ thống thông tin cũng như các chuyên gia giỏi để cung cấp các thông tin về dự báo lượng cung - cầu trong và ngoài nước giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu có những chiến lược phù hợp với năng lực của mình. Nhưng khó khăn lớn nhất mà chúng ta cần giải quyết đó là nguồn nhân lực vừa thiếu vừa yếu "những người làm công tác dự báo hiện nay đang trong cảnh lực bất tòng tâm". Lực lượng phân tích, dự báo nhu cầu gạo trên thế giới để giúp cho nhà xuất khẩu định hướng xem thị trường nào là tiềm năng, cơ hội thành công là bao nhiêu, “nên xuất hay chờ” đang thiếu những chuyên gia đầu ngành ở trình độ cao. Đội ngũ hiện có không đủ cán bộ chuyên môn và nghiệp vụ để trải rộng, để dự báo thường xuyên các chỉ tiêu vi mô về cung - cầu, về thị trường, về giá cả… ở trong 17
  18. nước và nước ngoài. Trình độ ngoại ngữ của các cán bộ nghiên cứu cũng còn hạn chế nên khó khăn khi tiếp cận các nguồn thông tin nước ngoài. Bên cạnh đó, sự thành bại của các dự báo kinh tế phụ thuộc vào chất lượng của hệ thống thông tin, số liệu. Nhưng cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống thông tin kinh tế hoàn chỉnh. Nguồn thông tin, tư liệu của nước ngoài đã rất thiếu lại còn bị phân tán, chia cắt, rời rạc, thiếu thống nhất giữa các nguồn và đơn vị quản lý. Đặc biệt, hệ thống các thông tin và dữ liệu chuyên ngành phục vụ trực tiếp công tác dự báo và cảnh báo kinh tế, việc xử lý số liệu còn chưa thống nhất, mỗi nơi theo một kiểu. Do đó, những gì có được cũng rất khó làm chất liệu cho công tác dự báo và cảnh báo kinh tế. Đây chính là một khó khăn lớn nhất đòi hỏi chúng ta cần phải có biện pháp khắc phục để đẩy mạnh ngành xuất khẩu “gạo” phát triển hơn. Không những thế, ngành xuất khẩu “gạo” của chúng ta phải đối đầu với các quốc gia có tiềm lực lớn về tài chính. Trong khi đó, Việt Nam là một nước đang phát triển, nguồn lực về tài chính còn hạn hẹp và một số quyết định của Chính phủ không những không mang lại lợi mà còn gây bất lợi, khó khăn ích cho việc xuất khẩu “gạo” như hiện nay, Bộ tài Chính đang có dự định lập quỹ bình ổn thị trường lúa gạo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết là các doanh nghiệp xuất khẩu “gạo” đồng tình với việc thành lập này nhưng Bộ Tài chính đưa ra phương thức trích lập nguồn tài chính cho quỹ bình ổn là thu 30% lợi nhuận trước thuế của xuất khẩu gạo như vậy là quá cao do xuất khẩu gạo có lúc lời, hòa vốn thậm chí có lúc lỗ, nếu trích lập như vậy thì nhà xuất khẩu sẽ không có đủ vốn để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được diễn ra liên tục, giảm năng lực cạnh tranh và có thể nói đây là một chiến lược không hợp lý gây bất lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu...Chính vì vậy, nhà nước cần có chính sách để khuyến khích tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp để đẩy mạnh việc xuất khẩu “gạo” phát triển. Thứ tư, chính sách của chính phủ chưa hợp lý: Những chính sách, giải pháp và quyết định của chính phủ cũng như Hiệp hội lương thực Việt Nam không được các nhà xuất khẩu đồng tình và tích cực hưởng ứng do không theo sát các hoạt động của doanh nghiệp cũng như không chịu lắng nghe ý kiến của các doanh 18
  19. nghiệp. Bên cạnh đó, về phía doanh nghiệp thì các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các công ty quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu lúa gạo nên có tính bảo thủ cực kỳ cao, không chịu cải tiến phương thức xuất khẩu cũng như phương thức sản xuất về giống, nhân lực, máy móc, đầu tư quá ít vào nông nghiệp nói chung và ngành trồng lúa nói riêng dẫn đến năng xuất thấp, chất lượng không đủ để tạo lợi thế cạnh tranh so với các nước khác. Mặt khác, khâu tổ chức thu mua chưa hiệu quả như các doanh nghiệp kinh doanh lương thực mua gạo không thể tổ chức được việc mua tới tận nông dân. Toàn bộ việc thu mua, phơi sấy, xay xát để chuyển lúa thành gạo bán cho các doanh nghiệp đều do các thương lái nhiều cấp thực hiện. Nông dân không có điều kiện để dự trữ, nhìn chung thu hoạch xong phải bán ngay. Nhiều nông dân bán đầu vụ thì được trên 3.000 đồng/kg, còn đến giữa vụ thu hoạch rộ chỉ khoảng 2.600- 2.700 đồng/kg trong khi thủ tướng chỉ đạo ra lệnh mua với giá sàn là 3.800 đồng/kg. Nguyên nhân của sự việc này la do khâu trung gian hưởng quá nhiều, nông dân làm trên 50% khối lượng công việc. Những người mua bán gạo chỉ làm 10% công việc nhưng lại chiếm tới 67% giá trị tăng thêm. Khâu trung gian như vậy hưởng nhiều quá. Nông dân vất vả, chịu nhiều rủi ro thì lại được hưởng phần quá ít còn lại. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến nguồn cung đầu vào của xuất khẩu “gạo” do nó tác động tiêu cực đến tâm lý của bà con nông dân như thu hẹp diện tích canh tác. Bởi vậy, chính phủ và các bộ phận chức năng cần xem xét mọi vấn đề để đưa ra quyết định đúng đắn nhất tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu cũng như bà con nông dân. 2.3. Cơ hội bên ngoài: ( O – Opportunities ) Thứ nhất, thị trường nước ngoài chưa bão hòa: sau khi trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, chúng ta có cơ hội thâm nhập vào những thị trường tiềm năng mới, hơn thế nữa chúng ta còn được hưởng những ưu đãi đặc biệt. Trong khi đó, thị trường nước ngoài chưa bão hòa như vậy sẽ xuất hiện được 19
  20. những cơ hội mới để chúng ta có thể tiến hành đàm phán và có thêm những hợp đồng xuất khẩu “gạo” mới. Thứ hai, các rào cản thuế quan và phi thuế quan được phá vỡ nên cơ hội phát triển là rất lớn: Bộ Công thương đang tập trung tăng cường các cơ hội tiếp cận thị trường cho hàng hoá xuất khẩu Việt Nam. Theo hướng này, Bộ Công Thương đang chủ trì tiến hành đàm phán về các khu vực mậu dịch tự do với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand, Ấn Độ... nhằm dỡ bỏ các rào cản thuế, phi thuế quan giúp cho xuất khẩu “gạo” của Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển và khả năng thâm nhập vào các thị trường này là rất lớn do giá thành sản xuất gạo của chúng ta thấp có thể tạo ra được lợi thế cạnh tranh cũng như thu hút được sự quan tâm của thị trường các nước này. Thứ ba, cơ hội tiếp xúc, làm việc, học hỏi kinh nghiệm và chuyển giao công nghệ với các nước phát triển như Mỹ, Nhật: Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ có cơ hội tiếp cận, chuyển giao các công nghệ tiên tiến trong việc chế biến gạo từ các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản. Những công nghệ xử lý độ ẩm, xay xát, lau bóng xuất khẩu sẽ giúp giảm chi phí trung gian, giảm giá thành gạo xuất khẩu, giúp cho các nhà xuất khẩu Việt Nam có cơ hội làm gia tăng giá trị của gạo trước khi xuất khẩu, nâng cao giá bán và sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thế giới. Không những thế, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam có cơ hội ký thêm nhiều hợp đồng giao thương với những nước phát triển về hệ thống logistics. Điều này giúp cho việc vận chuyển và giao hàng phục vụ cho xuất khẩu “gạo” được diễn ra thuận tiện hơn, đúng thời hạn và giúp tiết kiện được chi phí vận chuyển tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp xuất khẩu. Thứ tư, thu hút được sự đầu tư và quan tâm của các tổ chức ngân hàng lớn như WB: Việc gia nhập WTO cũng tạo ra cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, các hình thức tín dụng, tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF,... Những nguồn vốn này giúp cho các nhà xuất khẩu Việt Nam có thể đầu tư những 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2