Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang
lượt xem 7
download
Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững; Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, giai đoạn 2016-2020; Quan điểm và giải pháp cơ bản thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, giai đoạn 2020-2025.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------ MAI THỊ THE THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG Hà Nội - 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------ MAI THỊ THE THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. PHẠM VĂN DƯƠNG Hà Nội - 2021
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tri Tôn (An Giang) là huyện miền núi, biên giới, dân tộc, cũng là vùng căn cứ địa cách mạng của tỉnh An Giang. Huyện có có 12 xã, 03 Thị trấn và 76 khóm ấp dân số toàn huyện có 117.345 người với 33.441 hộ. Trong đó, đồng bào dân tộc Khmer có 11.134 hộ chiếm 33,29 % dân số, tập trung ở 10 xã, thị trấn. Ngoài ra, huyện Tri Tôn là một trong 05 huyện (Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Đốc, An Phú, Tân Châu) - thị thành biên giới của tỉnh An Giang có hơn 15km đường biên giới giáp với Vương quốc Campuchia và gần Cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên và Hà Tiên. Vị thế này không chỉ đi lại được thuận tiện, đảm bảo giao lưu giữa huyện và các nơi khác trong khu vực mà còn rất thuận lợi để trao đổi hàng hóa với nước bạn Campuchia và khu vực, là lợi thế so sánh đặc biệt để phát triển kinh tế cửa khẩu của huyện Tri Tôn, thuận lợi cho phát triển thương mại, dịch vụ và kinh tế biên mậu giữa 2 nước. Huyện Tri Tôn là địa bàn chiến lược quan trọng về chính trị, văn hoá, kinh tế, an ninh quốc phòng và nhiều loại hình tôn giáo của tỉnh An Giang. Tuy nhiên, đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn vẫn còn nhiều khó khăn, tốc độ phát triển còn chậm so với mức bình quân của tỉnh An Giang, tỷ lệ hộ nghèo cao, các vấn đề về giáo dục, văn hoá, y tế,... còn nhiều khó khăn, tiềm ẩn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của huyên Tri Tôn trong thời gian qua. Quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào dân tộc Khmer tại Tri Tôn còn bộc lộ những điểm bất cập làm nảy sinh các tác động tiêu cực không mong muốn. Thực tế trên cho thấy, để đạt được các mục tiêu của chính sách GNBV ở đồng bào dân tộc Khmer là vấn đề hết sức khó khăn, và đây cũng là một trong những trở ngại, thách thức lớn đối với phát triển bền vững của toàn tỉnh An Giang, đặt ra vấn đề cần thiết phải có những nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp để cải thiện những bất khó khăn, bất cập vừa nêu trên. Với những lý do đó việc xây dựng luận văn “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang” là rất cần thiết. Luận văn này, mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quá trình thực hiện chính sách GNBV ở đồng bào dân tộc Khmer huyện Tri Tôn 1
- từ đó xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao kết quả trong thực hiện chính sách GNBV ở địa phương trong thời gian tới. Tạo ra sự phát triển hài hoà, đồng bộ, toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh Quốc phòng trong huyện cũng như trong toàn tỉnh. Gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. 2. Tình hình nghiên liên quan đến đề tài Trong những năm qua, nhất là từ sau đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, về công tác giảm nghèo, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, tình hình các hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ đặc biệt khó khăn vẫn còn nhiều. Vì vậy, “Chương trình Mục tiêu quốc gia GNBV giai đoạn 2016 - 2020” đã được Thủ tướng Chính phủ đã ban hành theo Quyết định số 1722/QĐ-TTg, ngày 02/9/2016. Quyết định được đề ra với mục tiêu GNBV, hạn chế tái nghèo; góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, tăng thu nhập của người dân, đặc biệt ở các đoạn bán nghèo, đối với hộ dân tộc. Giảm đói nghèo là mục tiêu thiên niên kỷ, là chương trình quốc gia, là mối quan tâm lớn của các tổ chức quốc tế. Vì vậy, đây là chủ đề của nhiều đề tài nghiên cứu của các học giả trong nước và quốc tế, với các công trình đã được công bố trên các tạp chí, các báo… và cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Cũng như các công trình nghiên cứu khác. Do hạn chế về số trang, trong luận văn học viên chỉ chọn lọc một số nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến đề tài: Luận văn thạc sĩ kinh tế “Kinh tế hộ đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang hiện nay” của Nguyễn Hữu Thịnh (2009)[30]. Trong luận văn này tác giả tập trung nghiên cứu các nguồn lực để thúc đẩy phát triển KT - XH người dân tộc Khmer, chỉ ra giải pháp mang tính đột phá, căn bản, lâu dài và hiệu quả nhất là tiếp tục thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, đẩy mạnh phát triển KT - XH vùng ĐBDT. Luận văn thạc sĩ chính sách công “Thực trạng chính sách giải pháp giảm nghèo bền vững từ thực tiễn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh” của Hồ Thị Đình Khanh [10] nghiên cứu thực trạng xóa đói giảm nghèo trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, đưa ra được phương hướng và giải pháp xóa đói giảm nghèo trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. 2
- Luận văn thạc sĩ Quản lý công “Thực thi chính sách GNBV trên địa bàn huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang” của Đinh Thị Hồng Thắm [29] về đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả về thực thi chính sách GNBV trên địa bàn huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới. Luận văn thạc sĩ Quản lý công “Giải pháp giảm nghèo tại huyện Đức cơ, tỉnh Gia Lai” của Đậu Thị Trà Giang [17] về tìm hiểu thực trạng về nghèo và giảm nghèo của người dân tại huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai. Đồng thời nghiên cứu các chính sách về giảm nghèo của Nhà nước cũng như địa phương. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện các chương trình dự án giảm nghèo tại địa bàn huyện; đồng thời giúp người nghèo thoát nghèo, tự vươn lên trong cuộc sống. Luận án tiến sĩ kinh tế “Vấn đề giải pháp xóa đói giảm nghèo của đồng bào dân tộc Khmer ở đồng bằng sông cửu long trong quá trình phát triển bền vững” của Võ Thị Kim Thu [21] nghiên cứu thực trạng tìm ra nguyên nhân nghèo của đồng bào dân tộc Khmer ở đồng bằng sông cửu long, đưa ra được phương hướng và giải pháp xóa đói giảm nghèo ở đồng bằng sông cửu long. Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính công “Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh Tây Bắc đến năm 2020” của Nguyễn Đức Thắng [29] về quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh Tây Bắc, với mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo bền vững ở các địa phương này trong thời gian tới. Bài viết “An Giang thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững” của PV và TTXVN về việc trong 5 năm (2016-2020), An Giang đã đạt mục tiêu giảm nghèo, hạn chế thấp nhất tình trạng tái nghèo theo Nghị quyết số 76/2014/QH13 [9] ngày 24-6-2014 của QH về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mục tiêu GNBV đến năm 2020. Bài viết “An Giang chăm lo cho đồng bào dân tộc thiểu số” của baoangiang .com.vn về việc các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh An Giang đã thực hiện tốt chính sách hỗ trợ, phát triển kinh tế, văn hóa cho đồng bào dân tộc thiểu số tại địa phương. Đến nay, công tác này đã góp phần quan trọng trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng chung tay kiến thiết quê hương ngày càng phát triển. 3
- Báo cáo số 31/BC-UBND, ngày 20 tháng 03 năm 2019 của UBND huyện Tri Tôn Về việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia GNBV trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2012 - 2018[42]. Báo cáo số 39/BC-UBND, ngày 20 tháng 03 năm 2020 của UBND huyện Tri Tôn Về việc tổng kết nghị quyết số 76/2014, nghị quyết 80/NĐ-CP và chương trình MTQG GNBV giai đoạn 2016 - 2020 [43]. Báo cáo số 09/BC-PDT, ngày 04 tháng 03 năm 2019 của Phòng Dân tộc huyện Tri Tô, tỉnh An Giang tình hình thực hiện công tác dân tộc 2019 [22]. Báo cáo số 26/BC-PDT, ngày 25 tháng 11 năm 2019 của Phòng dân tộc huyện Tri Tôn [23], tỉnh An Giang Về việc tổng kết 15 năm thực hiện nghị quyết số 24- NQ/TW, ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về công tác Dân tộc Kế hoạch số 03/KH-PDT, ngày 12 tháng 03 năm 2020 của Phòng Dân tộc huyện Tri Tô, tỉnh An Giang Về việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 2026 [24]. Nghị quyết số 120/2020/QH14, ngày ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Quốc Hội về việc Phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030[25]. Nhìn chung, các công trình nêu trên tiếp cận công tác xoá đói giảm nghèo và chương trình giảm nghèo bền vững ở Việt Nam và các địa phương dưới nhiều góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn. Theo hiểu biết của cá nhân tôi, đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Trên cơ sở đó chỉ ra những ưu điểm, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế, trong công tác tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang thời gian qua. 4
- - Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài xác định 03 nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về chính sách công trong công tác giảm nghèo bền vững ở địa bàn cấp Huyện; - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang; - Trên cơ sở chỉ ra hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang và quan điểm, chính sách của Nhà nước về xóa đói giảm nghèo, luận văn đề xuất một số giải pháp tăng cường thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. 4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tập trung nghiên cứu về thực trạng thực hiện chính sách GNBV trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang dưới góc độ chính sách công. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trong phạm vi huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, đặc biệt là ở vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống (xã Châu Lăng, xã Ô Lâm, xã Núi Tô, xã Cô Tô, xã An Tức, Lê Trì, xã Lương Phi,…). Phạm vi thời gian: tập trung nghiên cứu thực trang thực hiện công tác giảm nghèo bền vững, chủ yếu từ năm 2016-2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Phương pháp luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ sở lý luận nền tảng của luận văn, cùng với đó là một số lý thuyết được áp dụng như sau: Luận văn sử dụng cách tiếp cận đa ngành để đánh giá nghèo đa chiều và giảm nghèo bền vững, cách tiếp cận chính sách công để hệ thống hóa cơ sở lý luận về thực 5
- hiện chính sách giảm nghèo, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang; đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách giảm nghèo bền vững. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn gồm: - Phương pháp tổng hợp, thu thập dữ liệu: Thu thập, phân tích, tổng hợp các nguồn tài liệu, các văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật, các công trình, bài viết có liên quan đến đề tài luận văn, nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. Đề tài cũng kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, bổ sung và phát triển các luận cứ khoa học và thực tiễn mới phù hợp với mục đích nghiên cứu của đề tài. Rà soát văn bản chính sách về công tác xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam từ 2016-2020 ở các cấp từ Trung ương đến địa phương. - Phương pháp phân tích: Luận văn áp dụng phương pháp phân tích để xử lý số liệu và dữ liệu thu thập được theo nhiệm vụ nghiên cứu. Từ đó chỉ ra những ưu điểm và những hạn chế, bất cập của hệ thống các văn bản chính sách, làm cơ sở giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: Thông qua các số liệu thu thập được, thực hiện việc so sánh chính sách, kết quả thực hiện xóa đói giảm nghèo ở địa bàn huyện Tri Tôn giai đoạn hiện tại với những giai đoạn trước để đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo trên địa bàn nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Từ những nghiên cứu lý luận về chính sách giảm nghèo bền vững và thực trạng thực hiện chính sách GNBV đối với đồng bào dân tộc Khmer huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Luận văn rút ra một số kết luận, đề xuất giải pháp về thực hiện chính sách giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc Khmer huyện Tri Tôn theo hướng bền vững, dài hạn, hướng đến chất lượng thực thi của chính sách giảm nghèo. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Qua kết quả nghiên cứu thực trạng, luận văn làm rõ những mặt được, chưa được và nguyên nhân, cho thấy những vấn đề thực tiễn triển khai chính sách ở địa bàn cơ 6
- sở nghèo đối với đồng bào dân tộc Khmer huyện Tri Tôn. Thực tiễn cấp huyện góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong việc xác định vấn đề và chuẩn bị những giải pháp chính sách một cách cụ thể trong việc giảm nghèo bền vững. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. - Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, giai đoạn 2016-2020. - Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở huyện Tri Tôn, giai đoạn 2020-2025. 7
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG 1.1. Cơ sở lý luận của giảm nghèo và giảm nghèo bền vững 1.1.1. Cơ sở lý luận về giảm nghèo 1.1.1.1. Quan niệm của thế giới về nghèo Tháng 9/1993, Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức ở Băng Cốc, Thái Lan đã đưa ra khái niệm và định nghĩa: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. Ngoài ra, nghèo còn được hiểu theo nghĩa tương đối như sau: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng”. Định nghĩa này tiếp cận vấn đề có liên quan đến bất bình đẳng trong xã hội. Vì mức sống trung bình ở các nước là khác nhau, giữa các vùng, các địa phương là khác nhau nên nghèo theo quan niệm trên chỉ mang ý nghĩa tương đối. Ngoài những định nghĩa nêu trên, còn có rất nhiều quan niệm khác nhau về nghèo. Như Ngân hàng phát triển Châu Á cho rằng: “Nghèo là tình trạng thiếu những tài sản cơ bản và cơ hội mà mỗi con người có quyền được hưởng, mọi người cần được tiếp cận với các cơ sở giáo dục và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản. Các hộ nghèo có quyền duy trì cuộc sống bằng chính lao động của họ và được trả công một cách hợp lý, cũng như được sự bảo trợ khi có biến động bên ngoài”. Ngày nay, cần phải xem xét và nhìn nhận vấn đề nghèo theo nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy, theo tổ chức Liên hợp quốc (UN): “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo là không có đủ ăn, mặc, không được đi học, khám bệnh, không có đất để sản xuất hoặc nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ, dễ bị bạo hành, phải sống ngoài lề xã hội hoặc trong các điều kiện rủi ro, không được tiếp cận nước sạch 8
- và công trình vệ sinh an toàn” (Tuyên bố Liên hợp quốc, 6/2008, được lãnh đạo của tất cả các tổ chức UN thông qua). Từ những quan niệm trên,cho chúng ta nhận thức sự nghèo khó không đơn thuần là khó khăn về lương thực, hay thiếu các điều kiện sinh hoạt tối thiểu, mà nó còn các yếu tố như kìm hãm cá nhân đó không tiếp cận được các nguồn lực hoặc không biết và không thể tìm ra các giải pháp để thoát ra khỏi tình trạng hiện có. Theo đó, để giảm nghèo, không chỉ là cung cấp lương thực, thực phẩm, việc làm cho người dân, mà còn phải tạo cơ hội cho họ tiếp cận các dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế, cùng với nguồn vốn để phát triển sản xuất từ đó họ có thể tự vươn lên thoát nghèo bền vững. 1.1.1.2. Quan niệm của Việt Nam về nghèo Nhận thức được tầm quan trọng của công tác XĐGN, trong thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong hoạt động XĐGN cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Trong đó, việc thống nhất quan niệm đói nghèo của Việt Nam cũng được xác định là một vấn đề cần được quan tâm. Quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam khá phong phú. Nó được thay đổi và ngày một gần với quan niệm đói nghèo của thế giới. Từ các khái niệm về nghèo của các tổ chức quốc tế, khái niệm về nghèo mà Việt Nam đưa ra như trong Chương trình mục tiêu Quốc gia về xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2010 cụ thể hơn: Nghèo, đói, hộ đói, hộ nghèo, vùng nghèo... và có các tiêu chí xác định cho từng loại cụ thể. Công cụ quan trọng để xác định mức độ và tình trạng nghèo đói chính là xây dựng các tiêu chí, lấy đó là một chuẩn mực chung mà bất cứ người/hộ nào có thu nhập/chi tiêu dưới mức chuẩn chung thì được coi là người/hộ nghèo. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta và hiện trạng đời sống trung bình phổ biến của dân cư hiện nay, là căn cứ có thể xác lập các tiêu chuẩn để đánh giá về nghèo. Và các tiêu chuẩn đó sẽ được thay đổi, nâng lên không ngừng cùng với sự phát triển của các điều kiện kinh tế-xã hội. Dựa trên những phương pháp chung mà các tổ chức quốc tế đưa ra và tốc độ phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam. Các chuẩn nghèo tính theo thu nhập bình quân đầu người, theo vùng cho từng giai đoạn khác nhau đã được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội [4,5] nhiều lần thay đổi cho phù hợp với thực tế. 9
- Giai đoạn 2016-2020 thực hiện chuẩn nghèo đa chiều[4] theo hướng tiếp cận nhiều hơn các dịch vụ cơ bản, mà trước hết là 5 dịch vụ: giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin với 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt. Riêng mức thu nhập bình quân hàng tháng sẽ được nâng lên 700.000đ với khu vực nông thôn và 900.000đ với khu vực thành thị. 1.1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nghèo Ngay từ những ngày đầu cách mạng Hồ Chủ Tịch đã luôn chăm lo đến đời sống nhân dân: hễ dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi hễ dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, hễ dân ốm đau bệnh tật là Đảng và Chính phủ có lỗi, hễ dân không được học hành là Đảng và Chính phủ có lỗi. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Người xem đói nghèo cũng là một thứ giặc nguy hiểm như giặc dốt, giặc ngoại xâm, vì vậy Người đã sớm phát động cuộc vận động thi đua ái quốc kêu gọi toàn dân bằng nhiều phương pháp cách thức khác nhau để giúp nhân dân như: tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, nhường cơm xẻ áo, quyên góp gạo cứu đói... Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, Người đã chủ trương đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, ngay hồi ấy Người đã có tư tưởng về xóa đói giảm nghèo. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03/9/1945, Người đã nêu sáu vấn đề cấp bách trong đó cứu đói là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Người nói: nhân dân đang đói. Hơn hai triệu đồng bào chúng ta đã chết đói vì chính sách độc ác của bọn Pháp, Nhật. Những người sắp chết đói nay cũng bị đói, Chính phủ ta phải làm thế nào cho họ sống. Người nêu ra biện pháp khắc phục: “Tôi đề nghị với Chính phủ là phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất và mở một cuộc lạc quyên, tuần gạo tiết kiệm được sẽ phát cho người nghèo…” Vậy, xóa đói giảm nghèo là trách nhiệm của toàn xã hội, Người kêu gọi toàn dân đoàn kết phát huy tinh thần nhân ái, giá trị truyền thống của dân tộc “lá lành đùm lá rách'' để giúp đỡ nhân nhân vượt qua đói nghèo. Khi chính quyền về tay nhân dân rồi phải làm sao cho nhân dân thấy được giá trị của tự do bình đẳng thực sự đó mới là nội dung đích thực của độc lập tự do, theo Người: ''Nước nhà đã giành được độc lập tự do mà dân vẫn còn đói nghèo cực khổ thì độc lập tự do không có ích gì''. 10
- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiệm vụ chung của cách mạng bao gồm cả phát triển kinh tế - xã hội lẫn văn hóa tinh thần, để giúp nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng và sống một đời hạnh phúc. Người rất quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số, miền núi, và Bác lưu ý rằng: việc chăm lo đời sống cho đồng bào dân tộc coi như việc đánh thắng giặc nghèo khổ lạc hậu, phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất đi liền với tiết kiệm, làm nhiều tiêu ít, làm chóng tiêu chậm, tức là đủ. Điểm mới của tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói giảm nghèo đó là, đi kèm với tăng gia sản xuất phải thực hành tiết kiệm, như vậy mới đảm bảo lâu dài, chắc chắn công cuộc xoá đói giảm nghèo. Đến nay tư tưởng này vẫn còn giữ nguyên giá trị, hiện nay chúng ta hình thành quỹ xóa đói giảm nghèo, giúp người đói nghèo là áp dụng những trường hợp cụ thể với một bộ phận dân cư đặc biệt. Đó là những biện pháp tình thế nhất thời mang tính nhân đạo, còn về lâu dài phải hướng dẫn họ cách thức làm ăn, trợ giúp về vốn, kỹ thuật... để họ tự vươn lên thoát nghèo, cho họ cần câu và hướng dẫn cách câu mới là biện pháp lâu dài bởi chỉ có phát triển sản xuất mới có thể xóa đói giảm nghèo một cách hiệu quả. Theo Bác, xóa đói giảm nghèo là: ''Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá, giàu, người giàu thì giàu thêm”. Vậy là, mọi thành viên trong xã hội không ngừng phấn đấu vươn lên vượt qua cửa ải đói nghèo, Người quan niệm xã hội mà chúng ta xây dựng là ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh''. Nó xa lạ với đói nghèo bần cùng, lạc hậu, là xã hội giàu về kinh tế, lành mạnh về văn hóa xã hội, quan niệm này hàm chứa ý nghĩa to lớn trong việc giải phóng sức sản xuất, hướng đến phát triển toàn diện con người. Theo Người một dân tộc dốt cũng là một dân tộc yếu, giặc dốt cũng là một trong ba thứ giặc nguy hiểm nó sẽ kìm hãm sự phát triển, Người chỉ ra rằng: ăn no mặc ấm phải đi liền với học hành tiến bộ, xã hội phải ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng phải đi liền với tinh thần ngày càng tốt. Qua đó chúng ta thấy rằng ý nghĩa sâu xa trong tư tưởng xoá đói giảm nghèo của Người là bên cạnh xoá đói giảm nghèo về vật chất phải chú ý cả xóa đói giảm nghèo về tinh thần, không nên phiến diện một chiều chỉ tập trung về kinh tế, mà bỏ quên văn hóa tinh thần, lúc ấy sẽ xuất hiện nguy cơ, lực cản nguy hiểm ảnh hưởng đến sự phát triển. Tư tưởng này đến nay vẫn thể hiện rõ tính thời sự của nó: Phát triển bền vững phải bao hàm cả vật chất và tinh thần. Đó 11
- là giá trị to lớn trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xóa đói giảm nghèo [3] mà chúng ta cần vận dụng sáng tạo trong điều kiện tình hình mới, phấn đấu đạt mục tiêu chung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.1.2. Cơ sở lý luận về giảm nghèo bền vững 1.1.2.1. Giảm nghèo bền vững GNBV là quá trình thực hiện cải thiện đời sống vật chất, tinh thần hướng tới nâng cao năng lực tự thoát nghèo và không rơi trở lại trạng thái nghèo của người dân. GNBV ngoài việc bảo đảm hoàn thành các mục tiêu giảm nghèo đã định trong từng giai đoạn. Phải hướng đến khắc phục hiệu quả những bất cập, hạn chế trong giảm nghèo để tránh tái nghèo, cải thiện ở mức tốt nhất thu nhập và điều kiện sống của người nghèo. Giúp họ có thể từng bước tự vươn lên vững vàng thông qua việc có các điều kiện và cơ hội khai thác các nguồn lực cơ bản để phát triển. Đồng thời, hướng tới nắm bắt các xu hướng tác động đến chất lượng giảm nghèo để có cách thức bảo đảm tính bền vững cho thành quả giảm nghèo. GNBV là việc tạo điều kiện cho người nghèo có khả năng tiếp cận với 5 nội dung cơ bản đó là: y tế, giáo dục, điều kiện sống, việc làm và tiếp cận thông tin. Chỉ có thể giảm nghèo một cách bền vững khi chúng ta giải quyết được vấn đề trên, giúp cho người nghèo có nhiều cơ hội được tiếp cận với văn hóa, xã hội, thông tin và nâng cao đời sống vật chất. GNBV rất cần thiết và có ảnh hưởng nhiều mặt đối với sự phát triển KTXH, là một trong những nội dung của quá trình phát triển bền vững. Có thể khái quát sự cần thiết của GNBV trên các phương diện như: ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, phát triển xã hội, đóng góp với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội. Thực tiễn phát triển của các quốc gia đều cho thấy, nhờ kinh tế tăng trưởng cao mà có nguồn lực vật chất để thực hiện các chương trình hỗ trợ vật chất, và đầu tư tài chính cho các đối tượng xã hội khác nhau. Trong đó có những hỗ trợ thiết thực cho đối tượng nghèo, yếu thế. Tạo tiền đề phát triển cho họ từ đó vươn lên thoát nghèo. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để GNBV trên quy mô rộng; không có tăng trưởng mà chỉ thực hiện các chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo truyền thống thì tác dụng không lớn và giảm nghèo chỉ là hành động xử lý tình thế không mang tính lâu dài, bền vững. 12
- 1.1.2.2. Khái niệm chính sách giảm nghèo bền vững + Chính sách Là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các tài liệu, trên các phương tiện truyền thông và trong đời sống xã hội. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa...” [28, tr.21]. Như vậy, có thể hiểu: Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Căn cứ vào phạm vi, qui mô ảnh hưởng và tính chất của chủ thể hoạch định chính sách có thể chia làm hai loại: chính sách tư và chính sách công. + Chính sách công Quan niệm về chính sách công có nhiều cách ý kiến khác nhau, nhưng nhìn chung các quan niệm đều thống nhất rằng: “Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống theo mục tiêu xác định” [28, tr.21]. Chính sách công, có thể nhận biết qua năm đặc trưng cơ bản: Là chính sách tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống KTXH theo những mục tiêu xác định; Nhà nước là chủ thể hoạch định chính sách và được đảm bảo thực thi bởi khả năng và công cụ cưỡng chế hợp pháp; chính sách công không phải các quyết định nhất thời, mà là chương trình hoạt động được suy tính một cách khoa học, liên quan với nhau một cách hữu cơ và nhằm đạt được những mục đích tương đối cụ thể của nhà nước; Chính sách công không phải chỉ là những tuyên bố mà bao gồm những gì được thực sự thi hành; Chính sách công là những chính sách liên quan đến nhiều người. Chính sách công cần được nhìn nhận như một quá trình từ hoạch định đến thực hiện cho ra kết quả cuối cùng. Về tổng thể, chính sách công có thể được coi là một chu trình gồm năm giai đoạn: (1) Tìm kiếm vấn đề chính sách công; (2) Hoạch định chính sách công; (3) Tổ chức thực thi chính sách công; (4) Đánh giá chính sách công; (5) Phân tích chính sách công [29, tr.22]. 13
- Từ những quan niệm trên, GNBV thuộc về chính sách công. Có thể thấy, một vài yếu tố trong chính sách GNBV được coi là hàng hóa công cộng như: chính sách tín dụng cho người nghèo, chương trình mục tiêu quốc gia về GD-ĐT, tạo việc làm cho người nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo... Bởi những hàng hóa này đều mang đầy đủ các đặc điểm của hàng hóa công cộng là: tính dùng chung và tính không loại trừ [28]. + Chính sách XĐGN Là những quy định, quyết định, của nhà nước được cụ thể hóa trong các chương trình, dự án cùng với nguồn lực, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động vào các đối tượng cụ thể như người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo hay huyện nghèo với mục đích cuối cùng là XĐGN. Sau khi giành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định ngay nhiệm vụ trước mắt của Chính phủ là chống đói nghèo. Người nói giành được độc lập rồi mà dân vẫn nghèo đói và lạc hậu thì độc lập ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Người coi đói và dốt cũng là giặc, thứ giặc này nguy hiểm không kém giặc ngoại xâm. Vì vậy, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Người đã nêu ra 6 vấn đề cấp bách trong đó hàng đầu là phải cứu dân khỏi chết đói. Người kêu gọi toàn dân ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, quyên góp gạo để cứu đói và Người gương mẫu thực hiện điều đó. Theo Người, xóa đói phải tiến tới giảm nghèo và tăng giàu vì “Dân có giàu thì nước mới mạnh”. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh đã được Đảng ta quán triệt trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới. XĐGN là chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, nhiều chương trình, công tác XĐGN được xúc tiến. Năm 1992, Hội nghị Trung ương lần thứ 5, khóa VII đã đề ra chủ trương XĐGN. Sau đó cụ thể hóa thành kế hoạch, chương trình và giải pháp XĐGN của Quốc hội và Chính phủ nhằm mục tiêu hỗ trợ phát triển kinh tế, trợ giúp người nghèo, cụ thể như sau: Giai đoạn 1998-2000: thực hiện chủ trương của Đảng, năm 1998 lần đầu tiên Chính phủ chính thức phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN (Chương trình 133). Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục bổ sung Chương trình 135 - Chương trình phát triển KTXH các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa 14
- nhằm ổn định và cải thiện đời sống, cơ sở vật chất, hạ tầng... đại bộ phận nhân dân, xoá đói, giảm nghèo. Giai đoạn 2001-2005: Chính phủ xây dựng chiến lược xóa nghèo giai đoạn này với mục đích đầu tư hỗ trợ, tạo điều kiện cho người nghèo có tư liệu và phương tiện sản xuất, dịch vụ, nâng cao thu nhập; tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và mạng lưới an sinh xã hội; đảm bảo xóa đói, GNBV. Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN và việc làm giai đoạn này bao gồm các chính sách và dự án: Các nhóm chính sách hỗ trợ về y tế; giáo dục; an sinh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu thế; hỗ trợ người nghèo về nhà ở; hỗ trợ công cụ và đất đai sản xuất cho người nghèo. Các nhóm dự án XĐGN. Giai đoạn 2006-2010: Với chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, tiếp tục thực hiện các chính sách giai đoạn 2001-2005, nhưng có sửa đổi bổ sung cho phù hợp và được chia ra làm 3 nhóm chính sách: Nhóm chính sách tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập; Nhóm chính sách tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội; Nhóm chính sách nâng cao năng lực và nhận thức. Cùng với chương trình giảm nghèo quốc gia, Chương trình 135 tiếp tục giai đoạn 2 trên cơ sở điều chỉnh Chương trình 135 giai đoạn 1, với mục đích tiếp tục hỗ trợ cho các xã đặc biệt khó khăn. Sau một giai đoạn thực hiện các chính sách giảm nghèo, đặc biệt đối với dân tộc thiểu số, miền núi, tình trạng đói nghèo chưa được cải thiện đáng kể. Vì vậy, năm 2008, Chính phủ đã tập trung giải quyết những huyện nghèo nhất trên cá nước thông qua Chương trình “Hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững 61 huyện nghèo” (nay là 62 huyện). Trong đó, tập trung vào hỗ trợ nhà ở, sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng và dạy nghề cho người nghèo. Giai đoạn 2011-2020: Ngày 19/5/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 80/NQ-CP về định hướng GNBV thời kỳ từ năm 2011-2020 với mục tiêu: GNBV là một trong những trọng tâm của Chiến lược phát triển KTXH, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các dân tộc và các nhóm dân cư, giữa thành thị và nông thôn, nhằm từng bước cải thiện và nâng cao điều kiện sống của người nghèo. 1.2. Nội dung thực thi chính sách giảm nghèo bền vững 1.2.1. Thực thi chính sách GNBV 1.2.1.1 Thực thi chính sách 15
- Chính sách được coi như một dạng thức vật chất đặc biệt vì là kết tinh ý chí của chủ thể về phương thức tác động đến các đối tượng. Tuy nhiên, chức năng của chính sách chỉ được hiện thực hóa khi nó tham gia vào quá trình vận động, triển khai thực thi trong đời sống xã hội. Tổ chức thực thi chính sách công là yêu cầu tất yếu khách quan để duy trì sự tồn tại của chính sách với tư cách là công cụ vĩ mô theo yêu cầu quản lý của nhà nước và cũng là để đạt mục tiêu mà chính sách theo đuổi. Từ cách tiếp cận này, khái niệm về tổ chức thực thi chính sách công được hiểu như sau: “Tổ chức thực thi chính sách đưa ra là toàn bộ quá trình hoạt động của các chủ thể theo các cách thức khác nhau nhằm hiện thực hóa nội dung chính sách công một cách hiệu quả” [28, tr.22]. Giai đoạn có ý nghĩa quyết định sự thành bại của một chính sách chính là tổ chức thực thi chính sách là, gồm các bước: (1) Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách: đây là bước quan trọng và cần thiết, vì tổ chức thực thi chính sách thường diễn ra trong thời gian dài và phức tạp. Kế hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống, bao gồm: Kế hoạch về tổ chức, điều hành; Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực; Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện; Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách; Dự kiến những nội quy, quy chế. (2) Phổ biến, tuyên truyền chính sách: là công đoạn tiếp theo sau khi kế hoạch thực hiện được thông qua, nhằm giúp cho các cấp chính quyền, nhân dân hiểu được chính sách và làm cho chính sách được triển khai thuận lợi và có hiệu quả. (3) Phân công, phối hợp thực hiện chính sách: một chính sách thường được thực thi trên một địa bàn rộng lớn và nhiều tổ chức tham gia do đó phải có sự phối hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. (4) Đôn đốc việc thực hiện chính sách: để đảm bảo các chính sách này được thực hiện đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. Việc kiểm tra, đôn đốc tiến hành thường xuyên sẽ giúp nhà quản lý nắm vững được tình hình thực thi chính sách, từ đó có những kết luận chính xác về chính sách. (5) Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm: công việc này được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì chính sách. Trong quá trình này ta có thể đánh giá từng phần 16
- hay toàn bộ chính sách ở việc đánh giá này phải tiến hành đối với cả các cơ quan nhà nước và đối tượng thực hiện chính sách [28, tr.25]. 1.2.1.2 Thực thi chính sách GNBV Thực thi chính sách GNBV là toàn bộ quá trình đưa chính sách công vào đời sống xã hội theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ và thống nhất nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo đang diễn ra với những đối tượng cụ thể trong một phạm vi không gian và thời gian nhất định. Thực thi chính sách GNBV là khâu quan trọng trong chu trình chính sách công nói chung, chính sách giảm nghèo nói riêng. Thực hiện chính sách giảm nghèo là quá trình thực hiện những quyết định, quy định của Nhà nước được cụ thể hóa trong các chương trình, dự án, cùng với nguồn lực vật lực, các thể thức, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động đến các đối tượng cụ thể như: Người nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo - là quá trình biến chính sách XĐGN thành những kết quả trên thực tế thông qua hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước. 1.2.2. Nội dung thực thi chính sách GNBV và những vấn đề đặt ra Thực hiện chính sách giảm nghèo ở nước ta chủ yếu tập trung vào các mục tiêu: nâng cao dần đời sống vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho họ thoát nghèo và vươn lên làm giàu bằng các chính sách ưu đãi; xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo, vùng nghèo; xây dựng nền giáo dục công bằng, chất lượng hơn cho mọi người; nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, tăng khả năng tiếp cận và giảm gánh nặng chi phí y tế cho người nghèo; bảo vệ môi trường và duy trì cuộc sống ổn định cho người nghèo; tạo điều kiện về hạ tầng xã hội và năng lực sản xuất để các vùng phát triển, giảm chênh lệch giữa các vùng về mặt xã hội; phát triển mạng lưới an sinh xã hội, trợ giúp cho các đối tượng yếu thế và người nghèo. Chính sách công được Nhà nước đưa ra không ngoài mục đích phục vụ nhân dân, đảm bảo hạnh phúc, phát triển toàn diện cho con người... Chính sách giảm nghèo cũng hướng tới mục đích đó, nó luôn luôn coi trọng nhân tố con người, gắn XĐGN với phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Từ đó chính sách giảm nghèo phải có tính đồng bộ, hệ thống và gắn với từng giai đoạn cụ thể, mới đạt được những mục tiêu đề ra. 17
- Mặc dù vậy, trong thực tế khi thực hiện chính sách giảm nghèo thường gặp phải một số khó khăn, thách thức như: Những người thực thi chưa nắm bắt đầy đủ mục đích, lợi ích của nhân dân hoặc họ có thể vì lợi ích riêng mà vượt quyền, lạm quyền làm tổn hại đến mục tiêu chung. Vì vậy, phải có sự kiểm soát quyền lực tốt đối với hệ thống các cơ quan nhà nước - một trong những chủ thể thực hiện chính sách giảm nghèo. Từ đó thì quá trình này sẽ dễ đưa tới tình trạng quyền lực bị phân tán, quan liêu, tham nhũng... dẫn đến việc thực hiện chính sách kém hiệu quả. Nguồn lực cơ bản về vốn, người lao động, khoa học công nghệ và tài nguyên thiên nhiên không đủ nên việc thực hiện chính sách cũng sẽ kém hiệu quả gây tổn thất cho xã hội. Cần phải có một cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực giảm nghèo. Đây là một yếu tố không thể thiếu trong khâu thực hiện chính sách giảm nghèo. Cơ quan chuyên môn này được phân quyền, phân cấp trong hoạch định, kiểm tra và giám sát quá trình thực hiện chính sách, đảm bảo được thực hiện hiệu quả cao nhất. Để chính sách giảm nghèo được thực hiện hiệu quả nhất phải có sự đồng thuận của người dân tại nơi thực hiện chính sách, đặc biệt là những người nghèo tại vùng, địa phương đó. Vì vậy, những người thực hiện chính sách cần thiết phải có những hiểu biết về phong tục, tập quán, lối sống của người dân. Từ đó có những cách làm sáng tạo gây dựng được niềm tin của người dân tại địa phương. 1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững 1.3.1. Chất lượng văn bản chính sách giảm nghèo Khâu thứ hai trong chu trình chính sách công là xây dựng và ban hành chính sách. Đây là khâu quan trọng quyết định chất lượng văn bản của chính sách xóa đói giảm nghèo nói riêng và chính sách công nói chung. Trong quá trình này, đòi hỏi phải làm tốt công tác hoạch định chính sách xóa đói giám nghèo. Từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện. Nếu chính sách bị hoạch định chủ quan, bất hợp lý thiếu thực tế và không đầy đủ thì dù công tác tổ chức thực hiện có tốt đến mấy cũng sẽ dẫn đến thất bại hoặc gây cản trở trong quá trình thực hiện chính sách. 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở tỉnh Hải Dương
119 p | 68 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
81 p | 88 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
130 p | 65 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tài khóa và cân đối ngân sách địa phương của tỉnh An Giang
83 p | 95 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
83 p | 80 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách đối với người có công trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
115 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua khen thưởng tại Viện sức khỏe nghề nghiệp và môi trường
115 p | 63 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh
70 p | 76 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
72 p | 48 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam
87 p | 70 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
73 p | 37 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
77 p | 47 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thông tin cơ sở trên địa bàn huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
65 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang
77 p | 46 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang
79 p | 32 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tổ chức, khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ từ thực tiễn Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Cao Bằng
78 p | 31 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
70 p | 48 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn thành phố Phúc Yên- tỉnh Vĩnh Phúc
24 p | 50 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn