Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai
lượt xem 3
download
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai, đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ HOÀI THANH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KHEN THƯỞNG CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI Ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. LÊ THỊ HẢI NAM ĐẮK LẮK, năm 2019 1
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng nội dung của bản luận văn này chưa đuợc nộp cho bất kỳ một chương trình cấp bằng cao học nào, cũng như một chương trình đào tạo cấp bằng nào khác. Tôi xin cam đoan các kết quả, phân tích và kết luận nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ Chính sách công về “Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai” (ngoài các phần được trích dẫn) đều là kết quả làm việc của cá nhân tôi với sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Thị Hải Nam. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Lê Hoài Thanh 1
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Quý thầy cô khoa Chính sách công, cùng Lãnh đạo các khoa, phòng của Học viện Khoa học xã hội đã tận tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại học viện. Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn cô giáo TS. Lê Thị Hải Nam đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thiện luận văn. Luận văn được hoàn thành với sự nỗ lực của bản thân trong tìm hiểu tài liệu, số liệu và khảo sát thực tế để tổng hợp, đánh giá. Dù rất cố gắng nhưng trong quá trình nghiên cứu khó tránh khỏi sai sót, rất mong quý thầy, cô góp ý. Đồng thời do thời gian và trình độ lý luận, sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ quý thầy cô để bản thân học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm và sẽ hoàn thành tốt hơn công việc trong thực tiễn sắp tới. Học viên Lê Hoài Thanh 2
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH 9 KHEN THƯỞNG VÀ KHEN THƯỞNG CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP 1.1. Một số khái niệm cơ bản về khen thưởng, chính sách khen 9 thưởng và người lao động 1.2. Mục đích, yêu cầu, tầm quan trọng của công tác khen 17 thưởng và thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp 1.3. Các yếu tố tác động đến chất lượng, hiệu quảthực hiện 20 chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp Tiểu kết chương 1 24 Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KHEN 25 THƯỞNG ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP Ở TỈNH GIA LAI 2.1. Khái quát về tỉnh Gia Lai và các chính sách, pháp luật về 25 công tác khen thưởng cho người lao động trực tiếp 2.2. Tổ chức, thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao 40 động trực tiếp ở tỉnh Giai Lai 2.3. Đánh giá về kết quả thực hiện chính sách khen thưởng cho 53 người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai Tiểu kết chương 2 56 3
- Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ 57 THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KHEN THƯỞNG CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP Ở TỈNH GIA LAI HIỆN NAY 3.1. Giải pháp về nâng cao nhận thức về vai trò vị trí và tầm 57 quan trọng của công tác khen thưởng cho người lao động trực tiếp 3.2. Đổi mới cách thức tổ chức thực hiện chính sách khen 59 thưởng theo hướng kịp thời, thiết thực, trọng tâm và hiệu quả 3.3 Hoàn thiện quy định, pháp luật khen thưởng đối với người 65 lao động trực tiếp 3.4 Kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ 69 làm công tác khen thưởng; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chấp hành quy định pháp luật về khen thưởng, nhất là công tác khen thưởng cho người lao động trực tiếp Tiểu kết chương 3 73 KẾT LUẬN 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 PHỤ LỤC 80 4
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI STT Viết tắt Viết đầy đủ 1. BNV Bộ Nội vụ 2. CP Chính phủ 3. CT Chỉ thị 4. HCM Hồ Chí Minh 5. NĐ Nghị định 6. ND Nhân dân 7. NN Nhà nước 8. NLĐTT Người lao động trực tiếp 9. TP Thành phố 10. TT Thông tư 11. TW Trung ương 12. UBND Ủy ban nhân dân 13. VPCP Văn phòng Chính phủ 14. XHCN Xã hội chủ nghĩa 15. TĐKT Thi đua, khen thưởng 5
- DANH MỤC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Về kết quả khen thưởng cho cá nhân giai đoạn 2014 – 2018 49 Về kết quả danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp tỉnh cho cá nhân 2.2 80 từ năm 2014 đến năm 2018. Về kết quả Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho cá nhân 2.3 81 từ năm 2014 đến năm 2018 2.4. Tổng hợp kết quả khen thưởng giai đoạn 2014 -2018 84 2.5 Tổng hợp kết quả khen thưởng cấp tỉnh giai đoạn 2014 -2018 86 DANH MỤC SƠ ĐỒ Số hiệu Tên sơ đồ Trang sơ đồ Về kết quả danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp tỉnh cho cá nhân 2.1 50 từ năm 2014 đến năm 2018 Về kết quả Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho cá nhân 2.2 51 từ năm 2014 đến năm 2018 6
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm, chỉ đạo sâu sắc đối với các phong trào thi đua và công tác khen thưởng, đặc biệt là đã có nhiều chính sách, quy định pháp luật quan trọng điều về TĐKT. Thi đua và khen thưởng là hai hoạt động luôn gắn kết và hỗ trợ cho nhau trong nhiều phong trào từ lớn đến nhỏ, từ cả nước đến mỗi cụm dân cư. Khen thưởng là một nội dung không thể thiếu của phong trào thi đua. Thi đua mà không có khen thưởng thì rất khó để duy trì và tạo động lực cho người lao động. Trong thực tiễn khen thưởng đã luôn tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước phát triển, góp phần dành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước Việt Nam. Qua khen thưởng đã xuất hiện nhiều tấm gương anh hùng, dũng sĩ, chiến sĩ thi đua, tấm gương điển hình tiên tiến “người tốt” “việc tốt”. Thực hiện lời kêu gọi thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua, những người thi đua là những người yêu nước nhất”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước các phong trào thi đua yêu nước trong những năm qua đã liên tục được phát động, động viên, cổ vũ các tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất, vượt qua khó khăn, thử thách, lập nên những chiến công hiển hách trong kháng chiến chống đế quốc xâm lược cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật về thi đua, khen thưởng được ban hành và được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhằm đáp ứng tốt tình hình thực tế về thi đua, khen thưởng trong mỗi giai đoạn đổi mới của đất nước và phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế. Luật Thi đua, khen thưởng được ban hành và sửa đổi gần nhất là năm 2013 cho thấy công tác thi đua, khen thưởng ngày càng được chú trọng và quan tâm. Luật sửa đổi bổ sung nhiều quy định mới về nội dung và hình thức khen thưởng, trong đó chú trọng hơn tới đối tượng khen thưởng là cá nhân. Nghị định hướng dẫn Luật thi 1
- đua, khen thưởng đã quy định về nguyên tắc khen thưởng cần chú trọng tới người lao động trực tiếp, người trực tiếp thực hiện các phong trào thi đua. Đây là một bước tiến quan trọng, cho thấy người lao động trực tiếp đã được quan tâm biểu dương, ghi nhận công sức và khen thưởng được làm rõ trong chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trước 2013 chính sách, quy định khen thưởng cụ thể cho người lao động trực tiếp không nhiều, cho đến khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng (năm 2013) đề cập đến mục tiêu của thi đua rất cụ thể đó là: “Tạo động lực lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, ...hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao” (Điều 1) và được cụ thể hóa tại Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thi đua, khen thưởng, theo đó, quy định về nguyên tắc khen thưởng: “Khen thưởng phải căn cứ vào điều kiện, tiêu chuẩn và thành tích đạt được, không nhất thiết phải có hình thức khen thưởng mức thấp mới được khen thưởng mức cao hơn. Chú trọng khen thưởng tập thể nhỏ và cá nhân là người trực tiếp lao động, sản xuất, học tập, công tác hoặc chiến đấu, phục vụ chiến đấu”; quy định cụ thể các điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng cho người lao động trực tiếp tại các Điều 22, 23, 24 và 38. Để triển khai thực hiện Luật Thi đua, khen thưởng; Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thi đua, khen thưởng, tỉnh Gia Lai đã kịp thời ban hành Quyết định số 33/2018/QĐ- UBND ngày 28/12/2018 về ban hành quy định thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Gia Lai nhằm cụ thể hóa quy định luật thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh, trong đó, cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện khen thưởng cho nông dân, người lao động trực tiếp. Từ những nội dung nêu trên cho thấy pháp luật hiện hành tuy đã có những quy định cụ thể về khen thưởng cho người lao động trực tiếp, song trên thực tế việc thực hiện nội dung này trong thực tiễn còn có những khó khăn và vướng mắc. Các hướng dẫn về khen thưởng cho đối tượng là người lao động trực tiếp, khái niệm về 2
- người lao động trực tiếp, công tác khen thưởng cho người lao động trực tiếp mới chỉ dùng lại ở những điểm còn chung chung, chưa được quy định cụ thể, chi tiết. Mặc dù nhiều năm qua, đối tượng lao động trực tiếp đã được khen thưởng, nhưng số lượng không nhiều, không đồng đều. Công tác khen thưởng chưa thực sự chú trọng nhiều đến người lao động trực tiếp và chưa thực sự quyết liệt. Mặt khác, trong thực hiện trên thực tế vẫn còn tình trạng khen thưởng chưa thực sự đúng người, còn có cách nghĩ cách làm “hoa thơm mỗi người hưởng một tý” làm cho giá trị của công tác khen thưởng không còn nguyên bản. Trên thực tế nếu khen thưởng đúng sẽ góp phần quan trọng trong việc xây dựng cuộc sống mới, con người mới, nền văn hóa mới, thực sự làm cho cái thiện, mặt tốt trong mỗi con người ngày càng được nhân lên làm cho cái xấu, cái ác đẩy lùi trong xã hội. Khen thưởng đúng sẽ tạo động lực cho mỗi người trong lao động, học tập và hướng thiện. Khen thưởng thiếu thực chất sẽ tác động ngược lại, làm cho phong trào thi đua và động lực của người lao động giảm sút, tác động tiêu cực đến mỗi người và toàn xã hội. Trước tình hình đó, với trách nhiệm là người làm công tác khen thưởng của tỉnh Gia Lai học viên đã lựa chọn vấn đề: “Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai.” làm đề tài luận văn của mình, với mong muốn bổ sung và làm sáng rõ thêm các vấn đề lý luận về khen thưởng, chính sách khen thưởng, khen thưởng cho người lao động trực tiếp; rà soát, tổng hợp và phân tích các quy định pháp luật về khen thưởng cho người lao động, đánh giá tình hình thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp và trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Từ đó, đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng thực hiện chính sách khen thưởng cho đối tượng này trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tính đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Tuy nhiên, có một số công trình nghiên cứu về thi đua, khen thưởng và chính sách khen thưởng 3
- nhưng chủ yếu tập trung vào quản lý hoạt động thi đua khen thưởng, pháp luật về thi đua khen thưởng, cụ thể là: Tài liệu dạng sách và đề tài khoa học: - Ban Thi đua - khen thưởng Trung ương (2008), Đảng, Bác Hồ với thi đua yêu nước và công tác TĐKT”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. - Nguyễn Thế Thắng (2012), Những vấn đề lý luận chung về thi đua, khen thưởng, đề tài khoa học cấp Nhà nước, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. - Trần Thị Hà (2013), Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua khen thưởng trong giai đoạn hiện nay, đề tài khoa học cấp Nhà nước, Ban TĐKT Trung ương. - Phạm Thu Thuỷ (2017), “Nâng cao chất lượng công tác khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở nước ta hiện nay”, Đề tài cấp khoa học cấp Bộ, Ban TĐKT Trung ương. Tài liệu dạng luận án, luận văn có: - Đỗ Thúy Phượng (2010), Hoàn thiện pháp luật về TĐKT ở Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. - Dương Thị Tuyết Nhung (2015), Quản lý nhà nước về TĐKT trong các trường đại học trên địa bàn Hà Nội, luận văn thạc sỹ luật học, Học viện KHXH. - Nguyễn Đức Hiếu (2016), Hoàn thiện công tác TĐKT tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt nam, Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh, Học viện KHXH. - Phùng Ngọc Tấn (2016), Pháp luật về thi đua khen thưởng ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ luật hiến pháp và luật hành chính, Học viện KHXH. - Bùi Tuyết Nhung (2017) “Về thực hiện chính sách TĐKT từ thực tiễn của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam” , luận văn thạc sĩ chính sách công, Học Viện KHXH. Tài liệu bài tạp chí có: - Phùng Ngọc Tấn (2014), Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về thi đua khen thưởng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. 4
- - Nguyễn Đình Châu (2014), Tăng cường làm tốt công tác TĐKT góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng con người mới của Đảng trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 213 (tháng 5). - Lê Văn Phong (2014), Công tác thi đua, khen thưởng ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2009-2014), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 9, tr. 52-56. Các công trình nêu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của công tác thi đua khen thưởng, như một số vấn đề về lý luận và thực tiễn về công tác thi đua khen thưởng: Khái niệm, hình thức, nội dung, yêu cầu công tác thi đua, công tác khen thưởng; thực trạng pháp luật về thi đua khen thưởng, giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Đáng chú ý là Luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Tuyết Nhung nghiên cứu “về thực hiện chính sách TĐKT từ thực tiễn của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam”. Đây là nguồn tài liệu có giá trị mà học viên có thể tham khảo, kế thừa có chọn lọc để phục vụ cho nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, nghiên cứu trực tiếp về thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai theo tài liệu học viên đã tìm hiểu nghiên cứu thì cho tới nay chưa có tác giả nào thực hiện. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai, đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản và các quy định pháp luật, văn bản hướng dẫn về công tác khen thưởng. Mô tả, phân tích và đánh giá thực trạng tổ chức và thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai. 5
- Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp và thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về mặt nội dung nghiên cứu: Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp. - Về không gian: Tỉnh Gia Lai - Về thời gian: từ năm 2014 đến năm 2018 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Đề tài sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và quy định pháp luật Nhà nước về TĐKT. - Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp phân tích: được sử dụng khi đánh giá các quan điểm, đường lối của Đảng, các quy định pháp luật. Đề tài cũng sử dụng phương pháp này đối với việc phân tích các số liệu trong bảng tổng hợp, tính toán tỷ lệ % để thấy được thực trạng công tác khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai hiện nay. + Phương pháp tổng hợp: Sử dụng để tóm lược, rút ra những kết luận của vấn đề nghiên cứu. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu, số liệu thống kê về đối tượng khen thưởng là người lao động trực tiếp từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh qua các báo cáo về công tác thi đua, khen thưởng hàng năm. + Phương pháp so sánh: Sử dụng khi phân tích, đánh giá các Nghị quyết, chuyên đề của Đảng, các quy định của pháp luật về chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp qua các giai đoạn lịch sử so sánh với việc thực hiện chính sách và quy pháp luật trên địa bàn tỉnh Gia Lai. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt lý luận: 6
- Hệ thống hóa những quan niệm, quan điểm lý luận về khen thưởng, công tác khen thưởng và làm rõ thêm một số vấn đề mang tính chất mới về khen thưởng cho người lao động trực tiếp, khái niệm người lao động trực tiếp và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng khen thưởng cho đối tượng này. - Về thực tiễn: Cung cấp số liệu về kết quả thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai ở các cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Đề xuất một số giải pháp cơ bản như bổ sung, sửa đổi pháp luật về khen thưởng cho người lao động trực tiếp; ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể của tỉnh Gia Lai về khen thưởng cho người lao động trực tiếp để phù hợp với thực tiễn của tỉnh Gia Lai để điều chỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu; phần Kết luận; Luận văn này có kết cấu gồm 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chính sách khen thưởng và khen thưởng cho người lao động trực tiếp. Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách khen thưởng đối với người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Chương 3. Giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp ở tỉnh Gia Lai hiện nay. 7
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH KHEN THƯỞNG VÀ KHEN THƯỞNG CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP 1.1. Một số khái niệm cơ bản về khen thưởng, chính sách khen thưởng và người lao động 1.1.1. Khen thưởng Khen thưởng là khái niệm không xa lạ, bởi khái niệm này được tiếp cận ở nhiều văn bản về thi đua, khen thưởng qua từng thời kỳ khác nhau. Khen thưởng được hiểu chung là việc làm của một cá nhân, tổ chức một cách chính thức đối với đối tượng có thành tích nào đó. Trong lịch sử đất nước, việc khen thưởng thường diễn ra rất đa dạng như: “Khen thưởng người có công trong chiến trận, người có công trong việc đi sứ, người phò tá có công lao tài đức, người tiến cử người hiền tài, người có lời tâu đúng, người cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người quyền quý cấp trên, người có công làm thuỷ lợi, người có tài văn chương, người cao tuổi”[1]. Hình thức khen thưởng cũng rất đa dạng. Nếu còn sống người được khen thưởng có thể nhận được một trong các hình thức: Được ban họ vua (Quốc thính), được ghi công vào sử sách, được vẽ hình, được dựng bia ghi công, được phong chức, được thưởng vàng bạc, được cấp ruộng đất. Nếu người có công đã mất thì vua đích thân làm văn tế, giảm ăn, nghỉ coi trầu một số ngày, truy phong, truy tặng hoặc gửi vàng bạc, lụa để viếng, phong quan chức cho con, cấp ruộng cho con cháu thờ cúng. Đối tượng khen thưởng rất rộng, từ người già đến trẻ em, từ nam giới đến nữ giới, từ người Kinh đến người dân tộc thiểu số đều được khen thưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc khen thưởng, Người nêu rõ: “Thưởng phạt phải nghiêm minh, có công thì thưởng, có lỗi thì phạt; có công mới có huân, phải có công huân mới được thưởng huân chương, thưởng cái nào đích 8
- đáng cái ấy khen thưởng phải có tác dụng động viên, giáo dục, nêu gương”[28, tr.20]. Ngay sau khi giành được chính quyền, ngày 26/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Quốc lệnh 10 điều thưởng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, gồm: “1. Nhà nào có 3 con tòng quân sẽ được thưởng. 2. Ai lập được quân công sẽ được thưởng. 3. Ai vì nước hy sinh sẽ được thưởng. 4. Ai ra trận can đảm phi thường sẽ được thưởng. 5. Ai làm việc một cách trong sạch, ngay thẳng sẽ được thưởng. 6. Ai làm việc gì có lợi cho nước nhà, dân tộc, được dân chúng mến phục sẽ được thưởng. 7. Ai bỏ tiền ra xây đắp cầu cống, đê, đường sẽ được thưởng. 8. Ai bắt được những kẻ phản quốc sẽ được thưởng. 9. Ai liều mình về công việc sẽ được thưởng. 10. Ai cứu được người bị nạn sẽ được thưởng.[28, tr.19] 10 điều khen thưởng này chính là nền tảng tư tưởng, nguyên tắc pháp lý chỉ đạo việc khen thưởng trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước và trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường nhắc cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”[29]. Sau đó, năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh lần lượt ký các Sắc lệnh thành lập Viện Huân chương, ban hành Sắc lệnh đặt ra các Huân chương Quân công, Huân chương Chiến sĩ, Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập. Năm 1948 đặt ra Huân chương Kháng chiến, năm 1959 đặt ra Huân chương Lao động. Chính phủ cũng đã quy định các danh hiệu Anh hùng Quân đội, Anh hùng Nông nghiệp, Anh hùng Công nghiệp năm 1952 để khen thưởng kịp thời những cá nhân và đơn vị có thành tích trong cuộc kháng chiến kiến quốc. 9
- Từ thực tiễn lịch sử trên đây, khen thưởng được hiểu là quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để nhận xét, đánh giá về một tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc, có công đối với đất nước trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua khen thưởng năm 2013, tại Khoản 2, Điều 3 định nghĩa về khái niệm khen thưởng như sau: “Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Khen thưởng là một trong những nội dung và hình thức không thể thiếu trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhằm ghi nhận, biểu dương, tôn vinh thành tích, công trạng, quá trình hoạt động đóng góp của tập thể và cá nhân trong xây dựng, phát triển cơ quan, đơn vị và bảo vệ Tổ quốc. 1.1.2. Người lao động trực tiếp Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thức về người lao động trực tiếp. Trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước Việt Nam, các khái niệm về lao động trực tiếp, lao động gián tiếp, người lao động, cán bộ quản lý, người lao động trực tiếp đã được đề cập và sử dụng ở các mức độ sau đây: Theo Bộ Luật lao động và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật lao động và một số công trình nghiên cứu [2] thì khái niệm “người lao động” là dùng để chỉ một đối tượng chung là người làm công ăn lương, người trực tiếp sử dụng sức lao động để tạo ra sản phẩm, của cải, cụ thể có thể hiểu dưới các góc độ dưới đây: Người lao động là người làm công ăn lương, là lao động phổ thông như: Người công nhân, nông dân, thợ (thợ cả, thợ phụ, thợ lành nghề, thợ chưa lành nghề), người làm thuê, người giúp việc. Người lao động là người làm công ăn lương là người lao động trí thức như: công chức, viên chức, cán bộ, các chuyên gia trong các ngành, lĩnh vực khác nhau như công nghệ, kinh tế, ngoại thương, ngoại giao... Đặc điểm của người lao động là “bán công sức”, có thể là sức khỏe, trí tuệ... để làm ra của cải vật chất hoặc các sản phẩm mang tính sáng tạo, mang tính đặc thù 10
- như là “lao động mềm trong nền công vụ” phục vụ cho người thuê lao động (chủ lao động). Các công việc được thuê làm đối với người lao động này thường được tuân thủ bởi các hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc (bằng miệng hoặc văn bản) hoặc các quyết định tuyển dụng của cơ quan quản lý nhà nước... để họ làm việc, đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng. - Có thể nhìn nhận khái niệm “Người lao động trực tiếp” dưới các góc độ khác nhau như: + Nhìn dưới góc độ lao động, sản xuất, người lao động trực tiếp có thể được hiểu là: Người làm ra sản phẩm cụ thể, trực tiếp cầm, nắm, sản xuất hoặc điều khiển trực tiếp để tạo ra sản phẩm. Người lao động trực tiếp là những người lao động bình thường trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, như công nhân lao động trực tiếp, người nông dân trực tiếp lao động, canh tác, giáo viên đứng lớp, người nghệ sĩ biểu diễn, người lao động dọn vệ sinh, những hộ lý, điều dưỡng trong các bệnh viện hoặc những người âm thầm, lặng lẽ trực tiếp làm các nhiệm vụ tình nguyện, thiện nguyện... + Nhìn dưới góc độ quản lý nhà nước, người lao động trực tiếp có thể hiểu là cán bộ, công chức, viên chức và không giữ chức vụ lãnh đạo quản lý; có thể là người làm công ăn lương và được cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp trả lương cho họ và không phải là lãnh đạo, quản lý, không phải là đối tượng được hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo theo quy định của nhà nước. Ví dụ như: công chức, viên chức bình thường, giáo viên, bác sĩ, y tá, y sĩ, các văn nghệ sĩ… được hưởng lương từ ngân sách nhà nước nhưng không thuộc diện lãnh đạo quản lý. Nếu so với sản phẩm của người lao động trực tiếp là công nhân, nông dân với sản phẩm của đối tượng là người lao động trực tiếp nhìn nhận dưới góc độ quản lý có phần khác và mang tính đặc thù hơn. Sản phẩm của họ mang tính trí tuệ và “đầu ra” của sản phẩm là các văn bản tham mưu cho đội ngũ lãnh đạo nhà nước, các ý tưởng đổi mới trong cải cách, tổ chức bộ máy nhà nước, các công việc mang lại hiệu quả lớn cho xã hội như chăm sóc người bệnh, điều chế thuốc, gìn giữ văn hóa cội nguồn dân tộc.... 11
- Đến nay, khái niệm “người lao động trực tiếp” vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể, chính thức bằng văn bản từ cơ quan quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu... được công nhận hoặc được đông đảo công chúng công nhận về khái niệm này. Từ những quan điểm quy định pháp luật nêu trên, khái niệm “người lao động trực tiếp” có thể hiểu đối ngược với khái niệm “người lao động gián tiếp”. Người lao động gián tiếp là những người được bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo, quản lý theo quy định, những người không trực tiếp tạo ra sản phẩm mà chỉ là người có công trong việc đóng góp một phần công sức, hỗ trợ để làm ra sản phẩm đó mà thôi. Ví dụ, trong một môi trường sản xuất máy móc hoặc chế biến, chế tạo sản phẩm, người lao động gián tiếp là người có công hỗ trợ trong việc tạo ra sản phẩm như người quản lý, người hỗ trợ về nhân sự, người thiết kế, người phục vụ.... Từ các mô tả trên có thể rút ra đặc điểm người lao động trực tiếp như sau: Là người lao động trực tiếp làm việc ở nhiều môi trường, nhiều công việc khác nhau trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; Không phân biệt tuổi tác, giới tính; Trực tiếp làm ra sản phẩm, của cải vật chất hoặc trực tiếp tạo ra những giá trị tốt đẹp cho xã hội từ bàn tay, khối óc, trí tuệ của bản thân. 1.1.3. Chính sách, chính sách công Chính sách được hiểu là tập hợp các quyết định hay chương trình hành động do tập thể các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình [3]. Chính sách là một công cụ quan trọng của quản lý. Mọi tổ chức, mọi cấp quản lý đều phải sử dụng các công cụ quản lý như chính sách, quyết định quản lý, kế hoạch, chiến lược, quy định pháp luật để tác động lên đối tượng quản lý theo một cách thức nào đó nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn. “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” [6, tr.12]. 1.1.4. Chính sách khen thưởng Chính sách khen thưởng là một hợp phần của chính sách công. 12
- Luật Thi đua, khen thưởng đã xác định: “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc; Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả nước”. Hiện nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về Chính sách khen thưởng. Từ khái niệm chung của chính sách công, cùng với các khái niệm về thi đua, khen thưởng có thể định nghĩa: Chính sách khen thưởng là tập hợp các quy định, quyết sách của Nhà nước nhằm đưa ra các công cụ và cách thức giải quyết các vấn đề liên quan đến công tác khen thưởng và hoạt động khen thưởng. Các cơ quan trong hệ thống hành pháp và mọi cá nhân, tổ chức có nhiệm vụ chấp hành quyết sách này trong lĩnh vực hoạt động thi đua, khen thưởng theo đúng quy định của pháp luật. 1.1.5. Thực hiện chính sách khen thưởng Thực hiện chính sách khen thưởng, là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực, là bước hiện thực hóa, đưa chính sách khen thưởng vào thực tiễn cuộc sống. Thực hiện chính sách khen thưởng là khâu quan trọng, là một khâu hợp thành chính sách khen thưởng, thực hiện tốt không những mang lại lợi ích to lớn cho các nhóm đối tượng thụ hưởng chính sách mà còn góp phần làm tăng uy tín của nhà nước trong quá trình quản lý xã hội. Thực hiện chính sách khen thưởng là tất yếu, để duy trì sự tồn tại của công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý của nhà nước và cũng là để đạt được mục tiêu của chính sách. Mục tiêu của khen thưởng là nhằm động viên mọi cá nhân, tổ chức tham gia các phong trào thi đua để từ đó phát huy tính tích cực trong công việc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; người được khen thưởng tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được của mình, có thêm những sáng kiến và đóng góp nhằm tăng cường khả năng chuyên môn và góp phần phát triển cơ quan, tổ chức nơi mình làm việc; người chưa được khen cũng thấy 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở tỉnh Hải Dương
119 p | 68 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang
81 p | 88 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội
130 p | 65 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tài khóa và cân đối ngân sách địa phương của tỉnh An Giang
83 p | 95 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
83 p | 80 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực thi chính sách đối với người có công trên địa bàn thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội
115 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua khen thưởng tại Viện sức khỏe nghề nghiệp và môi trường
115 p | 63 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh
70 p | 76 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
72 p | 48 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam
87 p | 70 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
73 p | 37 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
77 p | 47 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thông tin cơ sở trên địa bàn huyện Châu Thành, tỉnh An Giang
65 p | 61 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang
77 p | 46 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách xử phạt vi phạm hành chính tại tỉnh An Giang
79 p | 32 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách tổ chức, khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ từ thực tiễn Trung tâm Lưu trữ lịch sử tỉnh Cao Bằng
78 p | 31 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách thi đua, khen thưởng ở huyện Châu Phú, tỉnh An Giang
70 p | 48 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn thành phố Phúc Yên- tỉnh Vĩnh Phúc
24 p | 50 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn