Luận văn Thạc sĩ Du lịch: Phát triển du lịch tâm linh khu vực phía Tây Hà Nội
lượt xem 37
download
Luận văn tập trung vào các mục đích nghiên cứu sau đây: Hệ thống một số quan điểm lý luận liên quan đến du lịch văn hóa tâm linh, nghiên cứu thực trạng hoạt động du lịch tâm linh khu vực phía Tây Hà Nội. Từ đó đưa ra một số giải pháp để hoạt động du lịch tâm linh của khu vực phát triển. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Du lịch: Phát triển du lịch tâm linh khu vực phía Tây Hà Nội
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ TRỌNG HÒA PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÂM LINH KHU VỰC PHÍA TÂY HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH HÀ NỘI 2016
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VŨ TRỌNG HÒA PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÂM LINH KHU VỰC PHÍA TÂY HÀ NỘI Chuyên ngành: Du lịch (Chương trình đào tạo thí điểm) LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRIỆU THẾ VIỆT HÀ NỘI 2016
- MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ ....................................................... 4 PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 5 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 5 2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài ..................................................................... 7 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 9 4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài ............................................................. 9 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 10 6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 10 7. Bố cục của Luận văn ................................................................................. 11 CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH TÂM LINH ..................... 11 1.1 Các khái niệm liên quan .................................................................... …11 1.1.1 Tâm linh ............................................................................................... 11 1.1.2 Du lịch tâm linh ................................................................................... 16 1.2 Biểu hiện của tâm linh ở Việt Nam......................................................... 18 1.3 Giá trị của tâm linh đối với du lịch ......................................................... 20 1.4 Các điểm đến của hoạt động du lịch tâm linh ......................................... 22 1.5 Đặc điểm của khách du lịch tâm linh ...................................................... 29 1.6 Cơ sở thực tiễn về phát triển du lịch tâm linh của một số địa phương tại Việt Nam và trên Thế giới............................................................................. 30 1.6.1 Việt Nam ( Ninh Bình; An Giang) ....................................................... 30 1.6.2 Thế giới (Ấn Độ; Thái Lan; Lào; Myanmar) ....................................... 33 Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................... 38 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ TÂM LINH KHU VỰC PHÍA TÂY HÀ NỘI PHỤC VỤ DU LỊCH ........................ 39 2.1 Tổng quan về khu vực phía Tây Hà Nội ................................................. 39 2.2 Các điểm đến tâm linh tiêu biểu khu vực phía Tây Hà Nội có giá trị phục vụ du lịch ....................................................................................................... 41 2.3 Các sản phẩm du lịch tâm linh tiêu biểu của khu vực ............................ 70 2.4 Các dịch vụ và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch .......................... 76 2.5 Thị trường khách du lịch tâm linh........................................................... 82 2.6 Nguồn nhân lực phục vụ du lịch tâm linh ............................................... 89 Tiểu kết chƣơng 2 ...................................................................................... 90 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH TÂM LINH KHU VỰC PHÍA TÂY HÀ NỘI ........................................ 92 3.1 Căn cứ đề xuất giải pháp ........................................................................ 92 1
- 3.2 Giải pháp ................................................................................................. 94 3.2.1 Giải pháp về công tác quản lý .............................................................. 94 3.2.2 Giải pháp về đầu tư, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật ........................ 97 3.2.3 Giải pháp về phát triển sản phẩm, thị trường khách du lịch tâm linh .. 99 3.2.4 Giải pháp về tuyên truyền, quảng bá sản phẩm du lịch tâm linh ....... 104 Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................... 106 KẾT LUẬN .............................................................................................. 107 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 2
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1. CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 2. GS.TS: Giáo sư. Tiến sĩ 3. PGS.TS: Phó giáo sư. Tiến sĩ 4. TS: Tiến sĩ 5. Th.s: Thạc sĩ 6. UBND: Ủy ban nhân dân 7. UNESCO: Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc (United Nations Educational Scientific and Culural Oganization) 8. WTO: Tổ chức Thương mại thế giới (World Trade Oganization) 9. BQL: Ban quản lý. 3
- DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Mục đích của du khách quốc tế khi đến Hà Nội năm 2015 82 (Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Nội) Biểu đồ 2.2: Lượng du khách đến Hà Nội qua các năm (Nguồn: Sở Văn 83 hóa Thể thao và Du lịch Hà Nội) Biều đồ2.3: Lượng khách tâm linh đến khu vực Hà Tây cũ qua các năm 84 (Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Nội) Biểu đồ2.4: Cơ cấu khách du lịch tâm linh đến khu vực phía Tây Hà Nội 86 (Nguồn: Tác giả tổng hợp phiếu điều tra và phân tích) Bảng 2.1: Tổng hợp số liệu điều tra mục đích chuyến đi của du khách đến các điểm du lịch tâm linh (Nguồn: Tác giả tổng hợp phiếu điều tra và phân 86 tích) 4
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự đổi mới về chính sách đối ngoại, với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, ngành du lịch Việt Nam cũng đã có những bước phát triển mạnh mẽ và ngày càng có tác động tích cực hơn đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Du lịch được coi là ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Khu vực châu thổ sông Hồng nói riêng và vùng Bắc Bộ nói chung từ xa xưa đã được công nhận như cái nôi của nền văn hóa nước nhà với bề dày lịch sử hàng ngàn năm với những giá trị văn hoá lâu đời và hệ thống tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng . Đặc biệt khu vực này còn là nơi đầu tiên Phật giáo du nhập vào Việt Nam nên có thể nói Bắc Bộ và khu vực châu thổ sông Hồng được đánh giá là vùng có nhiều tiềm năng du lịch tâm linh nhất. Xác định được vai trò quan trọng của hoạt động du lịch tâm linh đối với sự phát triển ngành Du lịch nói riêng và phát triển nền kinh tế xã hội Việt Nam nói chung, Đảng và Nhà nước đã coi phát triển du lịch trong đó phát triển xu hướng du lịch tâm linh là một trong những thế mạnh chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế. Tuy nhiên trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước những năm qua xuất hiện nhiều yếu tố mới có nhiều tác động ảnh hưởng đến hoạt động du lịch tâm linh. Đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO, chúng ta đã gia nhập một mạng lưới toàn cầu hóa với những nguy cơ các nền văn hóa ngoại lai sẽ du nhập và đồng hóa nền văn hóa nước nhà. Điều này đặt lên vai những người làm du lịch, nhất là những người làm du lịch văn hóa những trọng trách trước cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi phải có những kế hoạch và giải pháp phù hợp để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững ngành du lịch, để du lịch nói chung và du lịch tâm linh thực sự trở thành một trong 5
- những yếu tố kinh tế mũi nhọn, đảm bảo lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam. Hà Nội là mảnh đất ngàn năm văn hiến, là trung tâm chính trị, kinh tế - văn hóa – xã hội của cả nước. Nói đến Hà Nội, người ta sẽ nghĩ ngay đến mảnh đất nơi hội tụ rất nhiều di tích lịch sử, di tích tôn giáo, tín ngưỡng có giá trị cao như Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hoàng Thành Thăng Long, chùa Trấn Quốc, Thăng Long Tứ trấn...Nhất là kể từ 1/8/2008 khi tỉnh Hà Tây sát nhập vào Hà Nội thì số lượng di tích lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng của Hà Nội trở thành lớn nhất cả nước (Hà Nội đứng đầu cả nước về số lượng di tích Việt Nam với 3840 di tích trên tổng số gần 40.000 di tích Việt Nam trong đó có 1164 di tích trên tổng số gần 3500 di tích cấp quốc gia ở Việt Nam). Ngoài ra, thủ đô cũng có hàng ngàn các lễ hội truyền thống diễn ra quanh năm. Với những điều kiện đó du lịch tâm linh trở thành một loại hình du lịch quan trọng của Hà Nội. Mặc dù hiện nay nguồn tài nguyên du lịch tâm linh của Hà Nội phong phú bậc nhất của cả nước nhưng lại chưa được nghiên cứu thật đầy đủ, sản phẩm du lịch tâm linh chưa được khai thác có hiệu quả. Các công trình nghiên cứu về hoạt động du lịch tâm linh của thủ đô Hà Nội chưa thể đề cập hết một cách toàn diện và kỹ lưỡng… Trên cơ sở đó, mặc dù khối lượng kiến thức có hạn, nhưng với một nhiệt huyết đam mê nghiên cứu khoa học và được sự giúp đỡ hỗ trợ từ các giảng viên, các chuyên gia chuyên ngành về lĩnh vực du lịch tâm linh, tác giả đã quyết định chọn đề tài: “Phát triển du lịch tâm linh khu vực phía Tây Hà Nội”. Dẫu chăng còn có nhiều thiếu sót nhưng đây sẽ là một nguồn tài liệu để các tác giả khác có thể tham khảo và tiếp tục phát triển hoàn thiện hoạt động du lịch tâm linh của khu vực phía Tây Hà Nội nói riêng và của thủ đô Hà Nội nói chung. 6
- 2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài Cho đến nay các công trình nghiên cứu về vấn đề văn hóa và văn hóa tâm linh ở Việt Nam rất phong phú như Đào Duy Anh với Việt Nam văn hóa sử cương; Trần Quốc Vượng với Cơ sở văn hóa Việt Nam; Toan Ánh với Nếp cũ – tín ngưỡng Việt Nam; Phan Kế Bính với Việt Nam phong tục; Nguyễn Đăng Duy với Văn hóa tâm linh; Văn hóa tâm linh Nam Bộ; Các hình thái tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam; Mai Thanh Hải với Tôn giáo thế giới và Việt Nam; Nguyễn Duy Hinh với Người Việt Nam với Đạo giáo; Tâm linh Việt Nam; Hồ Văn Khánh với Tâm hồn – khởi nguồn cuộc sống văn hóa tâm linh, Phan Ngọc với Bản sắc văn hóa Việt Nam; Minh Chi với Phật giáo và tâm linh; tác giả Văn Quảng với Văn hóa tâm linh Thăng Long - Hà Nội…các công trình đã nghiên cứu chủ yếu về các vấn đề như lý luận văn hóa; đặc trưng chức năng của văn hóa; các thành tố văn hóa Việt Nam; tôn giáo, tín ngưỡng trong văn hóa Việt Nam; quan niệm về văn hóa tâm linh... các tác phẩm trên tuy chưa nghiên cứu trực tiếp về vấn đề du lịch tâm linh, nhưng cũng là nguồn tài liệu rất bổ ích và là cơ sở, nền tảng để người viết có thể phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này. Về các công trình, đề tài nghiên cứu về du lịch văn hóa tâm linh ở Việt Nam đã có một số tác giả nghiên cứu. Trong đó có thể kể tới là đề tài Nghiên cứu phát triển du lịch tâm linh tỉnh Nam Định của Th.s Nguyễn Thị Thu Duyên thực hiện đi sâu vào việc phân tích tiềm năng, thực trạng phát triển du lịch tâm linh của tỉnh Nam Định và đưa ra các nhóm giải pháp về mặt quản lý nhà nước, quy hoạch không gian du lịch. Đề tài Nghiên cứu loại hình du lịch tâm linh ở Việt Nam do T.s Nguyễn Trùng Khánh thực hiện nghiên cứu và phân loại du lịch tâm linh trên cơ sở nguồn tài nguyên và động cơ du lịch, đồng thời xây dựng được cơ sở lý thuyết trên phương diện du lịch cho những nghiên cứ chi tiết hơn như nghiên cứu phát triển du lịch gắn với Phật giáo, tín ngưỡng dân gian… Luận văn Xây dựng tuyển điểm du lịch văn hoá tâm linh tại Hải Dương 7
- của tác giả tác giả Vũ Thị Hường nghiên cứu và xây dựng tuyến điểm du lịch tâm linh tại địa bàn Hải Dương, phân tích chi tiết môi trường vĩ mô và vi mô của du lịch văn hóa tâm linh khu vực này. Đây là luận văn nghiên cứu vấn đề tương đối hợp lý với những cơ sở lý luận tác giả đưa ra gợi mở khá nhiều hướng nghiên cứu cho các sản phẩm du lịch văn hóa gắn với tín ngưỡng và tôn giáo khác vốn rất đa dạng ở Việt Nam. Luận văn Khai thác văn hóa Phật giáo Khmer phục vụ phát triển du lịch tỉnh Trà Vinh của tác giả Hà Thế Linh lấy đối tượng nghiên cứu tương đối khác biệt là Phật giáo của nhóm dân tộc thiểu số Khmer. Luận văn phân tích được những tồn tại và triển vọng phát triển du lịch tâm linh ở Trà Vinh và đưa ra những giải pháp nhằm khai thác loại hình du lịch này phát triển một cách bền vững trong tương lai. Về vấn đề du lịch tâm linh ở Hà Nội, đã có một số đề tài nghiên cứu về du lịch tâm linh được tiến hành trên địa bàn Hà Nội như: Nguyễn Vinh Phúc với Du lịch Hà Nội hướng tới 1000 năm Thăng Long, Nguyễn Phạm Hùng với Tượng đài Hà Nội và du lịch văn hoá, Du lịch tôn giáo và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, Khai thác món ăn dân tộc trong các khách sạn ở Hà Nội, Tiềm năng du lịch phố cũ Hà Nội, Du lịch đêm Hà Nội; Đa dạng văn hóa và sự phát triển du lịch ở Việt nam… Các nghiên cứu này đã đề cập đến du lịch văn hóa và việc khai thác các di sản văn hóa Hà Nội vào hoạt động du lịch văn hóa. Điển hình là 2 đề tài nghiên cứu của Th.s Đoàn Thị Thùy Trang và đề tài của Th.s Trương Sỹ Tâm. Với đề tài Tìm hiểu hoạt động du lịch văn hóa tâm linh của người Hà Nội (khảo sát trên địa bàn quận Đống Đa) của tác giả Đoàn Thị Thùy Trang đã đem đến cho những người nghiên cứu 1 tài liệu tham khảo khá công phu, có khảo sát xã hội học trên thực tế và phân tích thực trạng của hoạt động du lịch văn hóa tâm linh trên địa bàn quận Đống Đa – Hà Nội và đưa ra những gói giải pháp cho hoạt động du lịch này. Tác giả Trương Sỹ Tâm thì chọn cho mình đề tài Nghiên cứu phát triển loại hình du lịch văn hóa tín ngưỡng tại các huyện phía tây Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ). Đây là đề tài đề cập 8
- khá đầy đủ và đưa ra những tiềm năng về loại hình du lịch văn hóa tín ngưỡng của các huyện phía tây Hà Nội, với những dẫn chứng, phân tích cùng những số liệu khá cụ thể tại địa bàn đã giúp cho tác giả đưa ra những nhận định khá đầy đủ về hiện trạng của hoạt động du lịch này. Nhìn chung qua đánh giá chủ quan của tác giả, thì các tài liệu và những công trình nghiên cứu trên nhất là về Hà Nội thì mới chỉ đề cập đến 1 khu vực địa bàn nhỏ trong nội thành Hà Nội như Quận Đống Đa hoặc mới chỉ đề cập đến 1 mảng của hoạt động du lịch tâm linh đó là hoạt động du lịch văn hóa tín ngưỡng của các huyện phía Tây Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ) trong khi đó du lịch tâm linh còn bao gồm cả du lịch văn hóa tôn giáo. Đây là một trong những khoảng trống trong việc nghiên cứu về hoạt động du lịch tâm linh của Hà Nội nói chung và du lịch tâm linh của tỉnh Hà Tây cũ nói riêng. Việc sát nhập hành chính Hà Tây vào Hà Nội tạo ra vô vàn cơ hội phát triển xã hội – kinh tế - văn hóa…trong đó có du lịch tuy nhiên đó cũng là nguy cơ các giá trị truyền thống vốn có bị mất đi hoặc bị lai tạp làm giảm giá trị đối với du lịch. Chính vì vậy tác giả đi đến quyết định chọn đề tài Phát triển du lịch tâm linh khu vực phía Tây Hà Nội để làm đề tài nghiên cứu. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung vào các mục đích nghiên cứu sau đây: - Hệ thống một số quan điểm lý luận liên quan đến du lịch văn hóa tâm linh. - Nghiên cứu thực trạng hoạt động du lịch tâm linh khu vực phía Tây Hà Nội. - Đưa ra một số giải pháp để hoạt động du lịch tâm linh của khu vực phát triển. 4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Ý nghĩa khoa học: Luận văn tập hợp và xây dựng hệ thống lý luận về du lịch văn hóa tâm linh và đưa ra phương pháp nghiên cứu các dạng thức hoạt động 9
- du lịch văn hóa tâm linh. Làm cơ sở cho những tác giả khác thực hiện các đề tài liên quan. Ý nghĩa thực tiễn: các kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ đóng góp làm tài liệu khảo cho các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp du lịch khai thác loại hình du lịch văn hóa tâm linh. Đồng thời tạo ra một cách ứng xử văn hóa tại những nơi du lịch văn hóa tâm linh. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: + Các hoạt động du lịch tâm linh khu vực phía Tây Hà Nội + Các giá trị văn hóa tâm linh của các điểm đến khu vực phía Tây Hà Nội - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi thời gian: nghiên cứu các hoạt động du lịch tín ngưỡng, tâm linh hiện nay (từ năm 2009 đến năm 2015) + Phạm vi về không gian: tác giả chọn khu vực phía Tây Hà Nội. Khái niệm này trong luận văn của tác giả được hiểu là toàn bộ tỉnh Hà Tây cũ. + Phạm vi vấn đề nghiên cứu: nghiên cứu thực tiễn, thực trạng hoạt động du lịch tâm linh, và một số giải pháp cho hoạt động du lịch này. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập và xử lý số liệu: Trên cơ sở những nguồn tư liệu đã có, tác giả tiến hành phân loại, phân tích và tổng hợp những nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu. - Phương pháp tiếp cận hệ thống: Tiếp cận hệ thống kiến thức giúp tác giả có cái nhìn tổng thể, thống nhất về đối tượng nghiên cứu. - Phương pháp quan sát, tham dự, phỏng vấn sâu: Phương pháp này giúp tác giả rút ra những nhận định về hoạt động du lịch tâm linh ở khu vực phía Tây Hà Nội. - Phương pháp nghệ thuật học: dùng phương pháp miêu thuật lại các giá trị vật thể và phi vật thể của nguồn tài nguyên. 10
- - Phương pháp văn hóa học: Sử dụng các kiến thức để giải mã đối tượng nghiên cứu dẫn tới khẳng định những giá trị văn hóa của đối tượng nghiên cứu. 7. Bố cục của Luận văn Luận văn bao gồm 3 chương như sau: Chƣơng 1: Tổng quan về du lịch tâm linh. Chƣơng 2: Thực trạng khai thác các giá trị tâm linh khu vực phía Tây Hà Nội phục vụ du lịch. Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm phát triển du lịch tâm linh khu vực phía Tây Hà Nội. 11
- CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH TÂM LINH 1.1 Các khái niệm liên quan 1.1.1 Tâm linh 1.1.1.1 Khái niệm Trong những năm gần đây, các vấn đề về tâm linh đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu nước nhà. Đúng hơn, vấn đề về tâm linh thực sự được bàn luận ở góc độ khoa học chỉ từ khoảng đầu thập niên 90 đến nay . Tâm linh gồm chữ “tâm” và chữ “linh” tạo nên. Theo từ điển Hán Việt của tác giả Thiều Chửu, “tâm” có nghĩa là tim (lòng), thuộc về thế giới bên trong. “Linh” có rất nhiều nét nghĩa như: “linh” trong linh hoạt, nhạy bén; “linh” trong thần linh; người chết cũng được gọi là “linh”; “linh” còn dùng để nói đến những ứng nghiệm, bói toán. Tác giả Hoàng Phê cũng cho rằng tâm linh là “tâm hồn, tinh thần” hoặc là “khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy tâm” [42,tr.897]. Hiểu như vậy ta có thể xác định tâm linh là niềm tin của con người vào sự linh thiêng. Một trong những xác định súc tích và khá chuẩn về tâm linh phải kể đến, là khái niệm tâm linh của tác giả Nguyễn Đăng Duy: “Tâm linh là cái linh thiêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được ngưng đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm” [13; tr.11]. Tâm linh cũng được tác giả Sơn Nam đề cập trong bài Nói thêm về tâm linh trong liên hệ với văn hóa Việt Nam [49] : “Tâm linh tồn tại trong mọi mặt đời sống từ xưa cho tới nay, từ trong truyền thuyết, các bài văn tế, các tác phẩm văn học, trong việc thờ cúng tổ tiên, cúng cô hồn cho tới những ca khúc về tổ quốc và cả những hành động, mọi việc làm, nghĩa cử cao đẹp của con người bình thường trong cuộc sống”. Tâm linh của con người ngưng đọng trong trí nhớ và con người luôn tâm niệm, thành kính về điều mình đã tin, đã làm. “Trí 11
- nhớ không phải đứng dừng một chỗ, lâu ngày phát triển thêm rồi tồn đọng trở thành tâm linh” [21, tr.130]. Nói đến tâm linh là nói đến niềm tin của con người bởi không ai sống mà không có niềm tin. Nó là hạt nhân cơ bản xác lập mọi mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. Theo tác giả Nguyễn Đăng Duy, niềm tin được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, song có thể quy về ba cấp độ: “niềm tin trao đổi”, “niềm tin lý tưởng” và “niềm tin tâm thức”. Trong đó niềm tin tâm thức gắn liền với tâm linh, gắn liền với niềm tin thiêng liêng vì nó có sự “hòa quyện cả tình cảm và lí trí, dẫn đến sự say đắm, say sưa tự nguyện hành động theo niềm tin ấy” [13;tr.16]. Đó là niềm tin thiêng liêng về tổ tiên, niềm tin về Mẫu, Phật, Chúa, niềm tin về các thần Thành hoàng ... Niềm tin thiêng liêng do vậy, được xem là yếu tố then chốt tạo nên đời sống tâm linh đúng nghĩa và trang trọng. Một xã hội văn minh, phát triển, niềm tin thiêng liêng, niềm tin cao cả càng có giá trị bền vững. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn nội hàm tâm linh, thiết nghĩ chúng ta nên đặt nó trong mối tương quan với các khái niệm khác: tâm linh với tín ngưỡng - tôn giáo, tâm linh với mê tín dị đoan. 1.1.1.2 Phân biệt tâm linh với tín ngưỡng – tôn giáo Hoàng Phê, tác giả của Từ điển Tiếng Việt cho rằng tôn giáo có hai nghĩa: Một là “hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên định đoạt tất cả, con người phải phục tùng tôn thờ. Tôn giáo nảy sinh từ rất sớm, từ trong xã hội nguyên thủy”. Hai là “hệ thống những quan niệm tín ngưỡng một hay những vị thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy”[42, tr.1011]. Thiết nghĩ, ở đây tác giả Hoàng Phê đã vô tình gộp tôn giáo với tín ngưỡng vào nhau. Nhưng thực chất tôn giáo không đồng nhất với tín ngưỡng. Tín ngưỡng (tin tưởng và ngưỡng mộ) là “một cách 12
- từ thực tế cuộc sống cộng đồng con người ý thức về một dạng thần linh nào đó, rồi cộng đồng con người đó tin và tôn thờ lễ bái, cầu mong cho hiện thực cuộc sống, gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng” [13]. Cùng quan điểm này, tác giả Mai Thanh Hải cho rằng, “dù ở những trình độ khác nhau, tín ngưỡng đều có hai đặc tính: một là tin vào cái gì thiêng liêng có sức mạnh chi phối số phận con người; hai là niềm tin ấy được nhiều người thừa nhận và cùng tin theo, cùng làm theo một số nghi thức gì đó để bày tỏ niềm tin chung” [22, tr.33]. Từ các định nghĩa trên, chúng ta nhận thấy tín ngưỡng và tôn giáo đều có chung niềm tin thiêng liêng nhưng tín ngưỡng và tôn giáo không đồng nhất với nhau. Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo là: tín ngưỡng không có giáo chủ, giáo lý, giáo hội cụ thể và đình, đền, miếu, phủ cũng không phải là giáo đường, không phải là nơi giảng kinh thuyết pháp mà chỉ là nơi thờ tự, cúng tế, hội hè... Ở tín ngưỡng, con người ta thấy mọi vật xung quanh đều trở nên linh thiêng, và chỉ tập trung giải quyết mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, chứ không thiết kế một thiên đàng hay một miền cực lạc nào cả. Trong khi tôn giáo có giáo chủ, giáo lí, giáo hội, có giới luật, thì tín ngưỡng vẫn bó kết con người vào sự sùng kính đơn sơ với niềm tin ngóng đợi đơn giản vào Thần, Mẫu, Tổ tiên sẽ phù hộ độ trì cho họ được mạnh khỏe, bình yên, ăn nên làm ra. Tín ngưỡng mang tính địa phương nhỏ hẹp, gần gũi với đời sống nhân dân nên có sức cuốn hút mạnh mẽ với đại đa số người dân còn tôn giáo cũng là một hiện tượng xã hội nhưng mang tính tổ chức cao, hướng đến một đời sống tâm linh siêu việt nên phạm vi ảnh hưởng và lan tỏa của tôn giáo rộng khắp thế giới. Suy cho cùng, tín ngưỡng và tôn giáo tuy có khác nhau nhưng không loại trừ nhau mà vẫn cùng tồn tại xen kẽ bổ sung cho nhau. 1.1.1.3 Phân biệt tâm linh và mê tín dị đoan Trong Từ điển tôn giáo, tác giả Mai Thanh Hải đã nói rất rõ về mê tín dị đoan: 13
- “Mê tín là tin nhảm, tin xằng bậy, không thấy, không hiểu mà nhắm mắt tin theo mù quáng, tin theo một cách mê muội, viễn vông, quàng xiên cả những việc, những hiện tượng trái lẽ tự nhiên, không có suy xét theo lẽ phải thông thường; dị đoan là suy luận, suy đoán một cách nhảm nhí, bậy bạ khác thường, rồi hành động bừa bãi, không lường trước được những hậu quả xấu về sức khỏe, tài sản, thời gian, có khi cả tính mạng cho mình...Nói chung là những ý thức, hành vi mê muội, tin và dựa vào những biểu tượng trái lẽ tự nhiên, có những hành vi lễ bái, ứng xử mang tính chất cuồng tín, nhảm nhí, trái với lẽ phải và hành vi thông thường của mọi người chung quanh, làm hại đến đời sống vật chất và tinh thần của mọi người” [22, tr.107]. Sở dĩ mê tín tồn tại được là do yếu kém về khoa học, con người chưa đủ trình độ để phân tích lí giải đúng sai nhảm nhí… hoặc lợi dụng khi tình trạng quẫn bách, mụ mẫm của con người không được kịp thời giải tỏa. Hoặc là một trong những giây phút thăng hoa như lạc vào thế giới khác khiến cho con người mất tỉnh táo, tin vào sự nhảm nhí. Nói cách khác đây là hiện tượng nhắm mắt tin mò, chứ không có cơ sở khách quan. Từ đó ta thấy tâm linh là niềm tin thiêng liêng trong đời sống tinh thần của con người tin vào Tổ tiên, Thần, Thánh, Phật, Chúa...hay những người không đi tu mà họ vẫn đi chùa, đền, đình; vẫn lễ Phật, ăn chay, vẫn tin vào những điều thiêng liêng của Phật, Thần, Thánh. Niềm tin vào cái thiêng vì thế đã đánh thức trong tâm hồn con người ý chí, bản ngã để sống và làm việc, xử sự tốt hơn, xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của cha ông ta. Còn mê tín dị đoan là dựa vào Thần, Phật để kiếm chác, thương mại hóa niềm tin, hoặc đặt ra bao nhiêu điều kì quái khác thường khiến cho người khác tin theo một cách mê muội, hành động theo sự tin ấy không những hao tốn về tiền bạc mà còn có khi ảnh hưởng đến sức khỏe bản thân. Giữa tâm linh và mê tín dị đoan chỉ cách nhau ranh giới nhỏ hẹp. Điển hình như hiện tượng nói chuyện với người âm của các nhà ngoại cảm, trước đây 14
- được cho là mê tín phù phiếm thì nay đã được khoa học thừa nhận “khả năng ngoại cảm” và bước đầu được nhà nước quan tâm đặc biệt. Vì thế có những trường hợp không thể qui hoàn toàn tâm linh là mê tín dị đoan, là những ngộ nhận của con người. Đây chỉ là những vấn đề mà khoa học không hoặc chưa có cách nào chứng minh đúng hay sai chính xác. Điều chúng ta nên làm và có thể làm là cố gắng đẩy lùi và xóa bỏ dần dần hiện tượng “nghe ở đâu có ông nọ, bà tê linh thiêng lắm” rồi đổ xô kéo đến cúng viếng mà chẳng biết rõ gốc tích thế nào. 1.1.1.4 Đặc điểm của tâm linh Thứ nhất, tâm linh là một hình thái ý thức, tâm linh gắn liền với ý thức của con người. Do vậy điều kiện để tồn tại tâm linh là sự có mặt của ý thức con người. Điều đó đồng nghĩa với việc một người mất trí không còn khả năng suy nghĩ thì trong đầu người đó sẽ trống rỗng và không có tâm linh. Thứ hai, tâm linh là phần thiêng liêng trong ý thức của mỗi con người.Ý thức của con người thì rất đa dạng như ý thức về toán học, ý thức về văn học, ý thức về cộng đồng... Trong đó, ý thức tâm linh là ý thức hướng về cái thiêng liêng cao cả. Ý thức tâm linh được ngưng tụ theo hai cách: Cách thứ nhất là ở ý niệm, con người phải hành động thì sự thiêng liêng mới được bộc lộ. Ví dụ như người ta có ý niệm thiêng liêng âm dương giao hòa, đực cái phối hợp nên đã tiến hành nhiều nghi lễ trò diễn phồn thực . Người ta quan niệm có thổ địa linh thiêng nên mỗi khi xây nhà phải làm lễ động thổ... Cách thứ hai là đọng lại ở các hình ảnh, biểu tượng. Biểu tượng là tiếng nói chung để biểu thị ước lệ về một tín hiệu. Trong đó, mọi biểu tượng thiêng liêng đều chứa đựng những giá trị cao cả, giá trị thẩm mỹ. Vì vậy, mọi biểu tượng thiêng liêng là cơ sở bền vững cho nhiều mối quan hệ của con người. Mọi người trong làng có mối quan hệ khăng khít với nhau vì họ cùng có 15
- chung biểu tượng thiêng liêng mái đình, cây đa, giếng nước mà đi đâu ai cũng nhớ. Hay cả dân tộc Việt Nam đoàn kết trong mối quan hệ cùng một tổ tiên với biểu tượng núi Lĩnh và đền Hùng. Đặc điểm thứ ba là tâm linh có sức truyền cảm truyền lệnh, tập hợp. Do con người có tâm lý tự nhiên là khi đời sống được yên bình mạnh khỏe, ăn nên làm gia, hoặc được cứu thoát khỏi cơn hoạn nạn, nguy hiểm, thì nảy sinh ý thức hướng, nhớ về cội nguồn, biết ơn những điều cao cả đã cho mình, cứu mình. Ý thức biết ơn này có sức hút tự nguyện rất lớn, không gì có thể ngăn cản. 1.1.2 Du lịch tâm linh 1.1.2.1 Du lịch Hiện tại trên thế giới và ở Việt Nam có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch. Giáo sư- Tiến sĩ Berkener, một chuyên gia có uy tín về du lịch trên thế giới, đã đưa ra nhận xét: “Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả thì có bấy nhiêu định nghĩa” Năm 1963, Hội nghị Liên Hợp Quốc Tế về Du lịch ở Rôma đã định nghĩa “Du lịch là tổng hòa các mối quan hệ, hiện tượng, các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi thường xuyên của họ hay ngoài nước của họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ.” Theo Pirogiơnic (1985) thì “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức – văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hóa”. Hay định nghĩa theo Hội nghị Quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa, Cannada tháng 6/1991: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi 16
- ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”. Theo Luật du lịch (2005): “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan , tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. 1.1.2.2 Du lịch tâm linh Du lịch tâm linh trên thế giới và ở Việt Nam có những quan niệm khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có được khái niệm chung nhất. Đây là một sản phẩm du lịch lấy “tâm linh” và những biểu hiện của chúng làm cơ sở hình thành và phát triển. Với tư cách là một sản phẩm du lịch khai thác nguồn tài nguyên du lịch văn hóa nên du lịch tâm linh mang đầy đủ đặc thù là một sản phẩm du lịch văn hóa. Theo Đoàn Thị Thuỳ Trang (2010): “ Du lịch tâm linh vốn là một thực thể đã có mặt hàng trăm năm nay trên khắp thế giới. Xưa nay, mọi người vẫn quen dùng danh từ hành hương để nói về chuyến đi của mình. Tuy nhiên, từ hành hương chưa thể nói hết được tính chất, ý nghĩa và mục đích của chuyến đi. Hành hương mang nặng ý nghĩa tâm linh, nhưng trong mỗi chuyến đi không phải tất cả mọi người đều chỉ có duy nhất mục đích mang ý nghĩa tín ngưỡng, mà có một bộ phận tuy tham gia chuyến hành hương nhưng thiên về du lịch nhiều hơn là tín ngưỡng. Thậm chí, những người lấy tín ngưỡng tâm linh làm mục đích chính của chuyến đi, nhưng cũng không khỏi có những cảm xúc thú vị của một người đi du lịch được thưởng ngoạn cảnh đẹp kỳ thú của thiên nhiên, được tiếp cận với những phong tục tập quán của đời sống cư dân địa phương và được hưởng các tiện ích của dịch vụ du lịch. Vì vậy, các chuyến đi như vậy cần sử dụng một khái niệm phù hợp hơn và nhất thiết phải 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ: Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tỉnh Thái Bình
31 p | 963 | 100
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Du lịch học: Nghiên cứu điều kiện phát triển du lịch homestay ở Sa Pa (tỉnh Lào Cai)
13 p | 640 | 93
-
Luận văn thạc sĩ du lịch: Các giải pháp hạn chế tính mùa vụ của hoạt động du lịch biển Cửa Lò
26 p | 492 | 75
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Một số giải pháp nhằm phát triển du lịch thành phố Hội An
26 p | 328 | 74
-
Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Du lịch sinh thái thành phố Cần Thơ – Thực trạng và giải pháp
160 p | 296 | 68
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kinh tế: Giải pháp phát triển du lịch bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
26 p | 289 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Địa lí học: Phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình trong thời kì hội nhập
10 p | 206 | 34
-
Luận văn Thạc sĩ Du lịch: Phát triển sản phẩm du lịch ẩm thực đường phố tại Nha Trang (Khánh Hòa)
115 p | 122 | 32
-
Luận văn Thạc sĩ Du lịch: Nghiên cứu phát triển du lịch lễ hội tại Huế
188 p | 157 | 26
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Du lịch học: Nghiên cứu điều kiện phát triển du lịch Homestay ở Sa Pa (Lào Cai)
13 p | 178 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Du lịch: Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa Chăm ở Khánh Hòa
124 p | 106 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Du lịch học: Một số giải pháp góp phần xây dựng và phát triển du lịch bền vững ở Tây Bắc Việt Nam
134 p | 75 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Du lịch học: Khai thác sản phẩm du lịch văn hóa vùng ven biển Thanh hóa
109 p | 63 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Du lịch: Phát triển du lịch sáng tạo ở Việt Nam
109 p | 83 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Du lịch: Nghiên cứu phát triển du lịch tại Thành cổ và Văn miếu Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa
125 p | 70 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Du lịch: Liên kết phát triển sản phẩm du lịch Thái Nguyên với một số tỉnh phía bắc Việt Nam - Lạng Sơn, Cao Bằng, Yên Bái
151 p | 52 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Du lịch: Phát triển nhân lực du lịch tỉnh Cao Bằng
129 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn