intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở các trường THPT thành phố Lào Cai tỉnh Lào Cai

Chia sẻ: Trần Phát | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:174

69
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn công tác chủ nhiệm lớp, thực trạng quản lý công tác chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng nhằm đề xuất một số biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở các trường THPT thành phố Lào Cai tỉnh Lào Cai, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở các trường THPT thành phố Lào Cai tỉnh Lào Cai

  1. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Giáo viên chủ nhiệm lớp là người tổ chức, quản lý trực tiếp và sâu  sát nhất về  mọi mặt đối với HS và thực hiện GD đạo đức, lối sống, phát   triển nhân cách, tư  vấn hướng nghiệp cho từng HS. Vì thế, công tác chủ  nhiệm lớp giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng và duy trì nền nếp, góp  phần nâng cao chất lượng GD toàn diện HS. Đồng thời, người GVCN lớp là   “cầu nối” giữa nhà trường và gia đình HS, góp phần thực hiện tốt mối quan   hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. 1.2. Để đáp ứng được yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả  giáo dục, từ năm học 2009 – 2010 Bộ GD&ĐT đã có các qui định, hướng dẫn  đề cao vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người GVCN. Đồng thời trong  Qui định  chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ  sở, giáo viên trung học phổ  thông  (Ban hành kèm theo Thông tư số 30 /2009 /TT­BGDĐT ngày 22 tháng 10 năm  2009   của Bộ  trưởng Bộ  GD&ĐT) có đề  cập đến  năng lực tìm hiểu đối  tượng và môi trường GD (Tiêu chuẩn 2), năng lực GD (Tiêu chuẩn 4) và năng  lực hoạt động chính trị, xã hội (Tiêu chuẩn 5) của ngườiGV, đó cũng là năng   lực cần thiết của người GVCN. Chỉ thị Số 3399 /CT­BGDĐT, ngày 16 tháng 8  năm 2010 của Bộ trưởng  Bộ  GD&ĐT  về  nhiệm vụ  trọng tâm của GD mầm non, GD phổ  thông, GD  thường xuyên và GD chuyên nghiệp năm học 2010 – 2011 trong phần nhiệm  vụ chăm lo, đầu tư phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQLGD  có nhấn mạnh:  “Tổ  chức có hiệu quả công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ,  chú trọng bồi  dưỡng kinh nghiệm làm công tác chủ nhiệm lớp”. Công văn số 4718/BGDĐT­GDTrH,  ngày 11 tháng 8  năm 2010 của Bộ  GD&ĐT    về  việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ  GD trung học năm học   2010­2011 có hướng dẫn nhiệm vụ trọng tâm tập trung chỉ đạo nâng cao chất  1
  2. lượng, hiệu quả hoạt động GD: “Tiếp tục đổi mới phương thức GD đạo đức,  GD ngoài giờ lên lớp, GD hướng nghiệp theo tinh thần lồng ghép và tích hợp;   chú trọng GD giá trị, GD kỹ  năng sống cho HS”, đây là những nội dung hoạt  động có liên quan đến GVCN lớp. Trong phần hướng dẫn triển khai đồng bộ các  giải pháp nâng cao chất lượng GD trung học, Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo: “Tăng cường  vai trò của đội ngũ GVCN lớp trong việc GD đạo đức, GD hướng nghiệp, GD giá  trị và kỹ năng sống, tư vấn học đường… cho HS; thiết lập và duy trì có hiệu quả  mối quan hệ giữa GVCN lớp với GV bộ môn, các đoàn thể xã hội và gia đình HS   trong việc phụ đạo HS yếu kém, bồi dưỡng HS giỏi, nắm chắc tình hình, khắc  phục nguyên nhân HS bỏ học; GD toàn diện cho HS... Nghiên cứu xây dựng và  triển khai chương trình bồi dưỡng GV làm công tác chủ  nhiệm lớp”,  Tăng  cường tổ chức các hoạt động ngoại khóa, hoạt động GD ngoài giờ lên lớp theo   nội dung của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”  nhằm đảm bảo tính linh hoạt về hình thức dạy học, hình thức kiểm tra, đánh   giá, rèn luyện kỹ năng sống và kỹ  năng hoạt động xã hội cho HS”,   Điều này  cho thấy Bộ GD&ĐT đã rất quan tâm đến công tác chủ  nhiệm lớp nói chung,  đến nhiệm vụ của GV chủ nhiệm lớp nói riêng. 1.3. Thành phố  Lào Cai là trung tâm tỉnh lỵ  của tỉnh Lào Cai. Các điều  kiện thuận lợi về kinh tế xã hội đã giúp cho sự nghiệp GD thành phố Lào Cai   phát triển nhất so với các huyện trong tỉnh. Thành phố  Lào Cai có 4 trường   THPT đủ đáp ứng nhu cầu học tập của con em cán bộ, công nhân và nhân dân  các dân tộc. Được sự chỉ đạo của Sở  GD&ĐT, trong những năm học vừa qua  các trường THPT ở thành phố Lào Cai đã thực hiện nhiều biện pháp xây dựng  và duy trì nền nếp, kỷ  cương, nâng cao chất lượng, hiệu quả  giáo dục toàn   diện HS. Một trong các biện pháp đã được triển khai là tăng cường vai trò của  đội ngũ GVCN lớp trong việc GD  toàn diện cho học sinh trên cơ sở phối  hợp với   các lực lượng trong và ngoài nhà trường. 2
  3. 1.4. Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng GD toàn  diện HS, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập   và tồn tại. Một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là nhận thức   chưa đầy đủ  về  vai trò, trách nhiệm của đội ngũ  GVCN trong việc GD toàn  diện cho HS ở trường THPT; sự thiết lập và duy trì mối quan hệ giữa GVCN lớp  với GV bộ môn, các đoàn thể xã hội và gia đình HS trong việc phụ đạo học sinh   yếu kém, bồi dưỡng HS giỏi; nắm chắc tình hình, khắc phục nguyên nhân HS  chưa chăm học và công tác nghiên cứu xây dựng và triển khai chương trình bồi  dưỡng GV làm công tác chủ nhiệm lớp đã được triển khai thực hiện nhưng  chưa  thực sự có hiệu quả. Mặt khác, mặt trái của nền kinh tế thị trường và những   tiêu cực ngoài xã hội đã có  ảnh hưởng không tốt đến GD. Do đó,  ở  mỗi   trường THPT vẫn còn một bộ  phận HS chưa có động cơ, thái độ  học tập   đúng đắn dẫn đến không tích cực học tập hoặc sa sút về  đạo đức, lối sống.   Những biểu hiện thường gặp đối với các HS đó là sự  chểnh mảng học tập,  mải chơi, thậm chí bỏ học để đi chơi game online; nói tục, chửi bậy, thiếu lễ  phép hoặc gây gổ, thiếu kiềm chế  bản thân dẫn đến đánh nhau từ  những   nguyên nhân đơn giản. Mặt khác, các biện pháp quản lý của hiệu trưởng đối  với công tác chủ nhiệm và đối với GVCN lớp chưa thật hợp lý trong nền kinh  tế thị trường. 1.5. Vấn đề công tác chủ nhiệm lớp và quản lý công tác chủ nhiệm lớp  ở  trường THPT Thành phố  Lào Cai chưa được quan tâm đúng mức để  nâng  cao chất lượng GD toàn diện. Việc nghiên cứu thực trạng công tác chủ nhiệm   lớp và quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở các trường THPT thành phố Lào Cai  để đưa ra các biện pháp quản lý đồng bộ, phù hợp với thực tế của giáo dục   địa phương nhằm tăng cường vai trò của đội ngũ GVCN, góp phần thực hiện   mục tiêu nâng cao chất lượng GD toàn diện HS là vấn đề cấp thiết. 3
  4. Xuất phát từ  những lý do trên, tôi chọn đề  tài:  “Biện pháp quản lý   công tác chủ  nhiệm lớp  ở các trường THPT thành phố  Lào Cai tỉnh Lào   Cai” làm vấn đề nghiên cứu của luận văn này. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu cơ  sở  lý luận và thực tiễn công tác chủ  nhiệm lớp, thực  trạng quản lý công tác chủ nhiệm lớp của hiệu trưởng nhằm đề xuất một số  biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở các  trường THPT thành phố Lào  Cai tỉnh Lào Cai, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Các biện pháp quản lý công tác chủ  nhiệm lớp của hiệu trưởng  ở  các  trường THPT. 3.2. Khách thể nghiên cứu Công tác quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp ở trường THPT thành phố Lào   Cai. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu Một số  biện pháp quản lý hoạt động chủ  nhiệm lớp của hiệu trưởng   trường THPT tỉnh Lào Cai. 4.2. Khách thể nghiên cứu: họat động quản lý công tác chủ nhiệm lớp  của Hiệu trưởng trường THPT 4.3. Giới hạn địa bàn nghiên cứu Tại 4 trường THPT ở thành phố Lào Cai. 5. Giả thuyết khoa học Hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp và chất lượng giáo dục toàn diện  học sinh các trường THPT  ở  thành phố  Lào Cai sẽ  được nâng cao nếu Hiệu  4
  5. trưởng có những biện pháp quản lý công tác chủ  nhiệm lớp một cách khoa   học và phù hợp với thực tế giáo dục của địa phương. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu 6.1 Nghiên cứu cơ  sở  lý luận về  biện pháp quản lý công tác chủ   nhiệm lớp của Hiệu trưởng. 6.2 Tìm hiểu thực trạng công tác chủ  nhiệm lớp và thực trạng các   biện pháp quản lý của hiệu trưởng đối với công tác chủ nhiệm lớp ở các   trường THPT thành phố Lào Cai hiện nay. 6.3  Đề   xuất   một  số  biện pháp  quản lý  công tác  chủ  nhiệm lớp   nhằm nâng cao chất lượng GD toàn diện HS. 6.4. Khảo nghiệm các biện pháp quản lý của hiệu trưởng đối với   công tác chủ nhiệm lớp trường THPT đã nghiên cứu đề xuất. 7. Các cách tiếp cận nghiên cứu 7.1. Tiếp cận chuẩn hóa. Tiếp cận chuẩn nghề nghiệp GV THPT để  xem xét một số năng lực của GVCN, bởi GVCN cũng chính là người GV thực   hiện nhiệm vụ giảng dạy môn học, đồng thời cũng là người làm công tác chủ  nhiệm, quản lí một tập thể HS. 7.2.  Tiếp cận hoạt động.  Công tác chủ  nhiệm lớp là một họat động  trong quá trình người GV thực hiện nhiệm vụ GD, trong đó mục đích là GD  toàn diện cho HS do lớp mình phụ trách. Tiếp cận họat động giúp cho người   nghiên cứu họat động chủ nhiệm lớp theo cấu trúc họat động, đồng thời xem   xét công tác quản lí của người hiệu trưởng cũng theo quan điểm cấu trúc họat  động. 7.3. Tiếp cận thực tiễn. Họat động chủ nhiệm lớp và quản lí công tác  chủ nhiệm lớp gắn với thực tiễn ở trường phổ thông, cụ thể là trường THPT.  Việc nghiên cứu theo tiếp cận thực tiễn giúp cho người nghiên cứu xem xét  5
  6. mọi vấn đề, mọi họat động xuất phát từ  HS, GVCN lớp, phụ  huynh HS,  CBQL GD... những người có liên quan trực tiếp đến quá trình GD học sinh. 8. Phương pháp nghiên cứu 8.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận Thu thập và đọc các tài liệu lý luận, các văn bản pháp qui, các công  trình nghiên cứu khoa học về QLGD, QL công tác chủ nhiệm lớp. Từ đó phân  tích và tổng hợp các vấn đề lý luận liên quan đến luận văn. Phân tích và tổng hợp các quan niệm về  QLGD, quản lý công tác chủ  nhiệm lớp; công tác quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động chủ  nhiệm  lớp ở trường THPT; công tác chủ nhiệm lớp của GV. 8.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn ­ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: + Bảng hỏi cha mẹ học sinh về sự phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhịêm  lớp với cha mẹ học sinh, cộng đồng trong quá trình giáo dục học sinh. + Bảng hỏi giáo viên làm công tác chủ  nhiệm lớp về những công việc  của giáo viên chủ  nhiệm lớp; những biện pháp quản lý lớp và làm việc với  học sinh + Bảng hỏi hiệu trưởng,   phó hiệu trưởng về  công tác quản lý họat   động chủ  nhiệm lớp và những biện pháp quản lý có hiệu quả  đối với họat  động chủ nhiệm lớp của giáo viên trong trường. + Bảng hỏi học sinh về công tác chủ nhiệm của giáo viên ­   Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động chủ  nhiệm lớp của các  GVCN và công tác quản lý của các hiệu trưởng đối với hoạt động chủ  nhiệm  lớp của GV. ­ Phương pháp phỏng vấn: 6
  7. + Phỏng vấn HS, cha mẹ HS để  làm rõ thực trạng công tác chủ nhiệm  lớp + Phỏng vấn GV để làm rõ thực trạng công tác QL chủ nhiệm lớp của  hiệu trưởng 8.3. Phương pháp chuyên gia:  xin tư  vấn thêm từ  các chuyên gia có  kinh nghiệm về  công tác chủ  nhiệm lớp, và CBQL có kinh nghiệm QL công  tác chủ nhiệm lớp. 8.4. Nghiên cứu sản phẩm: phân tích những sáng kiến về công tác chủ  nhiệm và kế hoạch công tác chủ nhiệm của một số GV. 8.5 Phương pháp toán thống kê Sử  dụng phương pháp toán thống kê để  xử  lý và phân tích các số  liệu  từ các bảng hỏi thu thập được 9. Cấu trúc luận văn Cấu trúc luận văn được chia làm ba phần như sau: Phần 1. Phần mở đầu Phần 2. Kết quả nghiên cứu bao gồm có ba chương ­ Chương 1: Cơ sở lý luận có liên quan đến vấn đề nghiên cứu ­ Chương 2: Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của  hiệu trưởng trường THPT phố Lào Cai. ­ Chương 3: Đề  xuất một số biện pháp quản lý hoạt động chủ  nhiệm  lớp của hiệu trưởng trường THPT thành phố Lào Cai. Phần 3. Kết luận và khuyến nghị Ngoài phần chính văn còn có phần danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ  lục. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 7
  8. 1.1. Vài nét sơ lược về lịch sử vấn đề nghiên cứu Trong hệ thống tổ chức của các trường phổ thông, đơn vị cơ bản được  tổ chức để giảng dạy và giáo dục HS là lớp học. Hình thức tổ chức dạy học,  GD theo lớp được hình thành từ  thế  kỉ  XVI do nhà giáo dục Tiệp Khắc JA.   Cômenxki đề  xướng. Mô hình lớp học được duy trì và ngày càng phát triển  mạnh mẽ ở khắp các nước trên thế giới. Không những vậy, mô hình lớp học   được phát triển và mở  rộng, tùy thuộc vào điều kiện thực tế, song bao giờ  một lớp học vẫn cần người quản lý. Để  QL lớp học, nhà trường cử  ra một  trong   những   GV   đang   giảng   dạy   làm   chủ   nhiệm   lớp.   GVCN   được   hiệu  trưởng nhà trường lựa chọn từ những GV ưu tú có kinh nghiệm GD, có uy tín  trong HS, được hội đồng nhà trường nhất trí phân công chủ  nhiệm lớp học  xác định để  thực hiện mục tiêu. Như  vậy, khi nói đến GVCN lớp là nói đến  mặt quản lý và mặt lãnh đạo học sinh của một lớp. Từ khi xã hội phát triển và từ sự phân công lao động đã hình thành hoạt  động đặc biệt đó là sự chỉ huy, chỉ đạo, điều khiển/ điều hành, kiểm tra, điều  chỉnh giành cho những người đứng đầu của một tổ chức hay một nhóm. Hoạt  động đặc biệt đó chính là hoạt động quản lý. Và cũng từ lúc đó mọi người đi  tìm hiểu bản chất khái niệm QL và đưa ra những định nghĩa khác nhau từ  những góc nhìn riêng. Theo quan điểm kinh tế  học thì F.W Taylor cho rằng:  "Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế  nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất"; hoặc A. Fayon lại cho rằng:   "Quản lý là đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng các nguồn lực (nhân, tài,  vật, lực) của nó". Còn ông H.Koontz thì khẳng định: "Quản lý là một hoạt  động thiết yếu, nó đảm bảo  phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm  đạt được các mục đích của nhóm (tổ  chức) với thời gian, tiền bạc, vật chất   8
  9. và sự bất mãn ít nhất. Với tư cách thực hành thì QL là một nghệ thuật, còn với  kiến thức thì QL là một khoa học". Trong báo cáo (1996) với nhan đề “Học tập: Một kho báu tiềm ẩn” của   UNESCO đã xem xét vấn đề  GD suốt đời như  là việc học tập dựa trên bốn   trụ  cột lớn: “Học để  biết; Học để  làm; Học để  cùng chung sống; Học để  cùng tồn tại”. Đây chính là định hướng cốt lõi cho GD học sinh trong các  trường THPT. Vấn đề GD để làm gì? GD cái gì? và GD như thế nào?. Trong tác phẩm “Phương pháp công tác chủ  nhiệm lớp” (NXB Giáo  dục Matxcơva,1984), Bôn ­ đư  ­ rép N.I. đã trình bày những phương pháp cơ  bản về cách thức thực hiện công tác chủ nhiệm lớp ở các trường PT. Từ  định hướng trên, các nước phát triển đã chỉ  ra những nội dung GD   cho HS trung học mà có liên quan đến công tác chủ  nhiệm lớp. Những nội   dung GD học sinh như: GD kĩ năng sống, GD những giá trị  sống, GD hướng  nghiệp… Theo quan điểm của UNESCO đã cho rằng GD trung học là giai   đoạn mà thế hệ trẻ lựa chọn cho mình những giá trị cần thiết cho cuộc sống   cũng như con đường chuẩn bị bước vào hoạt động nghề nghiệp và cuộc sống  sau này. Đặc biệt, cuốn tài liệu tập huấn kĩ năng cơ  bản trong tham vấn  (Unicef 2005) cũng đưa ra những cách thức tham vấn cho HS lứa tuổi thanh  niên. Như vậy, người GV cần tổ chức các họat động khác nhau để HS có thể  tham gia được dễ dàng và học được rất nhiều thứ từ đó. Ở Việt Nam, nhiều tác giả  cũng đã quan tâm nghiên cứu vấn đề  quản  lý và quản lý trong GD. Các tác giả cũng đưa ra những quan niệm của mình:   "Quản lý là những hoạt động có phối hợp nhằm định hướng và kiểm soát quá  trình tiến tới mục tiêu" (PGS.TS Trần Quốc Thành); hay "Quản lý là một quá  trình định hướng, QL một hệ  thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất   định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ  thống mà  người QL mong muốn" (TS Đặng Vũ Hoạt). Nhìn chung các quan niệm về  9
  10. QL đều nhấn mạnh đến hoạt động nhằm hướng vào đạt mục tiêu đã hoạch  định. Nghiên cứu về  công tác chủ  nhiệm lớp được tác giả  Nguyễn Thanh  Bình quan tâm sâu sắc với các công trình: “Công tác chủ nhiệm lớp ở trường  THPT”, đề tài mã số  SPHN­09­465NCSP, 2010, cũng như  cuốn “Một số vấn   đề trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT hiện nay” (NXB Đại học sư  phạm, 2011).  Ở  đây các tác giả  đề  cập đến những vấn đề  cơ  bản của công  tác chủ  nhiệm lớp, những nội dung trong công tác chủ  nhiệm lớp  ở  trường   THPT hiện nay từ  góc nhìn của chuẩn nghề  nghiệp GV trung học. Tác giả  Nguyễn Thị Kim Dung cũng thể hiện quan điểm của mình về  nội dung quan  trọng trong đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên sư phạm (kỉ  yếu hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng nghiệp vụ  sư  phạm cho sinh   viên các trường Đại học sư phạm”, 2010). Ngoài ra còn có nhiều nhà khoa học cũng quan tâm đến công tác chủ  nhiệm lớp với các công trình như: Nguyễn Dục Quang, Lê Thanh Sử, Nguyễn   Thị Kỷ, “Những tình huống giáo dục HS của người GVCN”, NXB ĐHQG Hà   Nội,   2000;   Hà   Nhật   Thăng   (chủ   biên),   “Phương   pháp   công   tác   của   người  GVCN trường THPT”, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001; Hà Nhật Thăng, Nguyễn   Dục Quang, Nguyễn Thị Kỷ, “Công tác GVCN ở trường phổ thông”, NXBGD,  1998; Bộ  Giáo dục và Đào tạo, “Kỷ  yếu hội thảo Công tác GVCN  ở  trường  phổ thông”, NXBGD, 2010. Các tác giả  còn đi sâu vào nghiên cứu những khía cạnh khác có liên  quan đến công tác chủ  nhiệm như: Nguyễn Thanh Bình với tác phẩm “Giáo  dục kĩ năng sống” (NXB Đại học sư phạm, HN 2007); Nguyễn Thị Kim Dung   và cộng sự  “Hướng dẫn tổ  chức họat động giáo dục ngoài giờ  lên lớp” (tài   liệu dành cho lớp 11); Nguyễn Thị Kim Dung với đề  tài “Rèn luyện kĩ năng  10
  11. làm việc nhóm của học sinh tiểu học thông qua họat động giáo dục ngoài giờ  lên lớp” (2006 ­2007), mã số: B 2006 ­ 17­ 01­ 2007. Nghiên cứu về  biện pháp quản lý công tác chủ  nhiệm lớp có “Một số  biện pháp tăng cường quản lý của  hiệu trưởng đối với công tác chủ  nhiệm  lớp trong các trường THPT tỉnh Bắc Ninh”, 2005, của Nguyễn Khắc Hiền.   Hiện vấn đề  này chưa có công trình nghiên cứu nào được thực hiện  ở  các  trường trung học phổ  thông của tỉnh Lào Cai – đây cũng là vấn đề  khá mới   với một tỉnh miền núi, nơi có nhiều dân tộc cùng sinh sống. 1.2. Cơ sở lý luận về quản lý công tác chủ nhiệm lớp 1.2.1. Quản lý 1.2.1.1. Khái niệm quản lý Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, con người muốn tồn  tại và phát triển cần phải có sự  phối hợp với nhau trong một nhóm, một tổ  chức. Để tổ chức, điều khiển tạo nên sự phối hợp của nhóm người trong hoạt  động theo yêu cầu nhất định, một loại hình lao động mới xuất hiện. Loại hình  lao động đó là hoạt động QL. Như vậy, QL là một loại hình lao động của con người trong cộng đồng  nhằm thực hiện các mục tiêu mà tổ  chức hoặc xã hội đặt ra. QL là một hoạt  động bao trùm mọi mặt đời sống xã hội và là nhân tố  không thể  thiếu được   trong sự  phát triển của xã hội. Các triết gia, các nhà chính trị  từ  thời cổ  đại  đến nay đều rất coi trọng vai trò của  QL trong sự ổn định và phát triển của xã  hội. QL là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử. Theo Các Mác: “Tất cả  mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động  chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng đều cần đến  một sự  chỉ  đạo để  điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những  chức năng chung phát sinh từ  vận động của toàn bộ  cơ  thể  khác với sự  vận   động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều  11
  12. khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”[4]. Từ  quan   niệm trên, có nhiều định nghĩa khác nhau về QL, tùy theo góc độ xem xét của  mình. Như theo tác giả Frederich Wiliam Taylor (1856­1915) người Mỹ: “QL   là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng   phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất”[10]. Trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực”,  Paul Herscy và Ken Blanc Heard   lại coi “QL là một quá trình cùng làm việc giữa nhà QL và người bị QL, nhằm   thông qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để  đạt mục tiêu của tổ chức”[25]. Tác giả  Hà Thế  Ngữ  và  Đặng Vũ Hoạt coi “QL là một quá trình định   hướng, quá trình có mục tiêu, QL một hệ  thống nhằm đạt được những mục  tiêu nhất định”[23]. Tác giả Mai Hữu Khuê lại cho rằng “Hoạt động QL là một dạng hoạt  động đặc biệt của người lãnh đạo mang tính tổng hợp các loại lao động trí   óc, liên kết bộ  máy QL, hình thành một chỉnh thể  thống nhất điều hoà phối  hợp các khâu và các cấp QL, làm sao cho hoạt động nhịp nhàng, đưa đến hiệu  quả”[14] Giáo trình “QL giáo dục và đào tạo” của trường Cán bộ  QL GD&DT có  nêu: ­ QL  là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào hệ  thống con người nhằm đạt các mục tiêu kinh tế – xã hội. ­ QL là một quá trình tác động có định hướng, có tổ  chức dựa trên các  thông tin về  tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ  cho sự  vận   hành của đối tượng ổn định và phát triển đến mục tiêu đã định. ­ QL là sự tác động có ý thức, hợp quy luật giữa chủ thể QL đến khách thể  QL 12
  13. nhằm đạt các mục tiêu đề ra. ­ QL là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể QL là đối tượng  QL và khách thể  QL nhằm sử  dụng có hiệu quả  nhất các tiềm năng, các cơ  hội  của tổ  chức để  đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến đổi của môi  trường [12]. Các định nghĩa trên tuy khác nhau nhưng có một số  điểm chung trong   nhận thức về QL, trong đó coi:  i) QL là hoạt động lao động  để điều khiển lao  động, hoạt động khác của nhóm hay tập thể; ii) Yếu tố con người giữ vai trò   trung tâm của hoạt động  bởi trong QL, bao giờ cũng có chủ  thể    QL và đối  tượng QL, quan hệ  với nhau bằng những tác động QL. Những tác động QL  chính là những quyết định QL, là những nội dung của chủ thể QL yêu cầu đối  với đối tượng QL. Qua đó, cả chủ thể QL và đối tượng QL đều phát triển; iii)  QL là một thuộc tính bất biến nội tại của một quá trình lao động xã hội. Lao   động  QL  là điều kiện tiên quyết làm cho xã hội loài người tồn tại và phát   triển; iv) QL là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện. Điều đó cũng xác  lập rằng QL phải có một cấu trúc và vận hành trong một môi trường xác định.  Trong cấu trúc đó, ba thành tố: Mục tiêu, chủ thể, khách thể quan hệ chặt chẽ  với nhau tạo nên hoạt động của bộ máy. Hiện nay  QL  được định nghĩa:  QL  là những hoạt động có phối hợp  nhằm định hướng và kiểm soát quá trình tiến tới mục tiêu. Như vậy, nội hàm  của khái niệm QL gồm: i) Hoạt động phối hợp nhiều người, nhiều yếu tố; ii)   Định hướng các hoạt động theo mục tiêu nhất định; iii) Kiểm soát được tiến  trình của hoạt động trong quá trình tiến tới mục tiêu. 1.2.1.2. Chức năng quản lý * Chức năng kế hoạch hoá 13
  14. Peter Drucker, đã đề  xuất tiêu chuẩn về  tính hiệu nghiệm (khả  năng  làm những việc “đúng”) và tính hiệu quả    (khả  năng làm đúng việc). Theo   quan điểm của ông, tính hiệu nghiệm là quan trọng hơn, bởi vì vẫn có thể đạt  được hiệu quả khi chọn sai mục tiêu. Hai tiêu chuẩn này song hành cùng với   hai khía cạnh của kế  hoạch, đó là xác định những mục tiêu “đúng” và lựa   chọn những biện pháp “đúng” để  đạt các mục tiêu. Cả  hai khía cạnh đó đều  có ý nghĩa sống còn đối với quá trình QL [26]. Chức năng kế  hoạch hoá là quá trình xác định mục tiêu và quyết định  những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Như vậy, thực chất của   kế  hoạch hoá là đưa toàn bộ  những hoạt động vào kế  hoạch, với mục đích,  biện pháp rõ ràng, bước đi cụ thể và xác  định rõ các điều kiện cung ứng cho   việc thực hiện mục tiêu. Nhiều nhà lý luận QL cho rằng, kế hoạch là cái khởi nguyên của mọi   hoạt động, mọi chức năng QL khác. Họ  ví kế  hoạch như  một chiếc đầu tầu  kéo theo các toa “tổ chức”, “chỉ đạo”, “kiểm tra”. Như vậy, nếu không có kế  hoạch thì người QL không biết phải tổ chức nhân lực và các nguồn nhân lực  khác như thế nào, thậm chí họ còn không rõ phải tổ chức cái gì nữa. Không có  kế  hoạch, người QL không thể  chỉ  dẫn, lãnh đạo người thuộc quyền hành  động một cách chắc chắn với những kỳ vọng đặt vào kết quả  mong đợi. Và  không có kế hoạch thì cũng không xác định được tổ chức hướng tới đúng hay   chệch mục tiêu, không biết khi nào đạt được mục tiêu và sự  kiểm tra sẽ  không có căn cứ. Kế hoạch hoá có vai trò quan trọng như vậy bởi bản thân nó có những   chức năng cơ bản sau: Chức năng dự báo: Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu trên  cơ sở phân tích và căn cứ vào hướng dẫn của cấp trên về nhiệm vụ của năm  học mới để  suy ra những hướng phát triển cơ  bản của nhà trường, trong đó  14
  15. có tính tới nhu cầu bên ngoài và bên trong của nhà trường, lựa chọn những   hướng ưu tiên, dự kiến những mục tiêu cần đạt và các tiêu chuẩn đánh giá. Chức năng dự  đoán: Bao gồm việc phác thảo các phương án chọn lựa  có tính tiềm năng của nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan. Trong QL nhà trường, kế hoạch hoá là một chức năng quan trọng vì trên  cơ  sở  phân tích các thông tin quản lý, căn cứ  vào những tiềm năng đã có và   những khả năng sẽ có mà xác định rõ các mục tiêu, nội dung hoạt động, biện   pháp cần thiết để  chỉ  rõ trạng thái mong muốn của nhà trường khi kết thúc  các hoạt động. * Chức năng tổ chức: Bamard định nghĩa tổ  chức như  là “Hệ  thống các hoạt động hay tác  động có ý thức của hai hay nhiều người”. Cuốn “Cơ sở khoa học QL” đã xác  định: “Tổ  chức là hoạt động hướng tới hình thành cấu trúc tối  ưu của hệ  thống QL và phối hợp tốt nhất giữa các hệ  thống lãnh đạo và bị  lãnh đạo  (chấp hành)” [9]. Xuất phát từ  quan điểm trên, trong QLGD, quản lý trường trung học,   điều quan trọng nhất của công tác tổ chức là phải xác định rõ vai trò của mỗi   bộ  phận, cá nhân, bảo đảm các mối quan hệ  ngược, sự  thống nhất và đồng   bộ về tổ chức trong QLGD ở trường trung học. Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống QL trở nên có hiệu quả, cho phép  các cá nhân góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi là điều   kiện của QL. Thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa   con người, giữa các bộ  phận trong hệ thống QL. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn   các động lực, tổ  chức không tốt sẽ  làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu   quả QL. *  Chức năng chỉ đạo: 15
  16. Chỉ  đạo là quá trình tác động  ảnh hưởng của chủ  thể  QL đến hành vi   và thái độ của những người khác nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chỉ đạo thể  hiện quá trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể QL và mọi thành viên trong tổ  chức nhằm góp phần  hiện thực hoá các mục tiêu đã đặt ra. Chức năng chỉ  đạo chính là sự  tác động lên con người, khơi dậy động  lực của nhân tố con người trong hệ thống QL, thể hiện mối quan hệ giữa con   người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó để  họ tự  nguyện và nhiệt tình phấn đấu thực hiện mục tiêu. * Chức năng kiểm tra đánh giá Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những biện pháp tốt nhất để  đạt tới các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để thực hiện  hoá các mục tiêu đó cần phải tiến hành những hoạt động kiểm tra đánh giá để  xem xét việc triển khai các quyết định trong thực tiễn, từ  đó có những điều  chỉnh cần thiết trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác định. Như vậy, kiểm tra  đánh giá có vị trí quan trọng trong việc đổi mới công  tác QL như đổi mới công tác kế hoạch hoá, công tác tổ chức, chỉ đạo cũng như  đổi mới cơ chế  QL, phương pháp QL nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả  QL. Tóm lại, sự phân công và chuyên môn hoá trong hoạt động QL đã hình thành  nên các chức QL, đó là chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Các   chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một chu trình QL. 1.2.1.3. Nội dung quản lý Theo Từ  điển Tiếng Việt, nội dung là mặt bên trong của sự  vật được   hình thức chứa đựng hoặc biểu hiện. Nội dung QL là các công việc, các hoạt động của nhà QL thực hiện phối  hợp nhiều người, nhiều yếu tố, định hướng các hoạt động và kiểm soát tiến  trình của hoạt động trong quá trình tiến tới mục tiêu của tổ chức. 16
  17. Con người là đối tượng chủ yếu của QL nên nội dung quản lý bao gồm: ­ QL con người là sự  sắp xếp, phân công; hướng dẫn, bồi dưỡng nâng  cao năng lực thực hiên mục tiêu. ­ QL hoạt động của con người bao gồm: Tổ chức các hoạt động và kiểm  tra, đánh giá và điều chỉnh các hoạt động; Nội dung  QL  trên được thực hiện bởi các chức năng  QL trong hoạt  động. 1.2.2. Công tác chủ nhiệm lớp 1.2.2.1. Khái niệm công tác chủ nhiệm lớp Trong trường học, lớp học là đơn vị cơ bản được thành lập để tổ chức   giảng dạy và GD học sinh. Để  QL, GD học sinh trong lớp, nhà trường phân  công một trong những GV đang giảng dạy có năng lực chuyên môn tốt, có  kinh nghiệm làm công tác QL, GD học sinh, có tinh thần trách nhiệm cao và  lòng nhiệt tình trong công tác, có uy tín với HS và đồng nghiệp làm chủ nhiệm  lớp. Đó là giáo viên chủ nhiệm. 1.2.2.2.  Nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiêm lớp a.  Vai trò của GVCN lớp GVCN là người thay mặt hiệu trưởng QL  lớp học. Vai trò QL  đó được  thể hiện trong việc xây dựng kế hoạch GD; tổ  chức các hoạt động GD; đôn  đốc, hướng dẫn việc thực hiện các hoạt động GD theo kế  hoạch; kiểm tra,   đánh  giá  kết  quả   học  tập,  tu  dưỡng  của  HS  trong  lớp.  GVCN   chịu  trách  nhiệm về kết quả học tập và rèn luyện của HS trong lớp trước hiệu trưởng,   hội đồng nhà trường và cha mẹ HS. Do đó, có thể nói trách nhiệm của GVCN  lớp rất nặng nề. Đồng thời GVCN là linh hồn của tập thể lớp, là người tập   hợp HS thành một khối đoàn kết. GVCN là người tổ chức quản lý lớp học và  dìu dắt các em nhỏ  như  con em mình trưởng thành qua từng năm tháng. Vì  17
  18. vậy, HS kính yêu thầy, cô chủ nhiệm như cha mẹ mình. Các em HS trong lớp   đoàn kết, thân ái với nhau như anh em ruột thịt, lớp học sẽ trở thành một tập   thể vững mạnh. GVCN sẽ để lại trong lòng HS những ấn tượng sâu sắc, tốt  đẹp nhất. Tình cảm của lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín   của GVCN càng cao thì chất lượng giáo dục càng tốt. Trong quá trình làm việc, GVCN là người tổ  chức các hoạt động GD  học sinh trong lớp. Vai trò tổ  chức của GVCN được thể  hiện trong các việc:  i) ­ Thành lập bộ máy tự  quản của lớp; ii) ­ Phân công trách nhiệm cho từng   cá nhân và cho các tổ, nhóm; iii) ­ Tổ chức các hoạt động của lớp theo mục   tiêu GD đã được xây dựng; iv) ­ Các hoạt động của lớp thực hiện theo năm   mặt   toàn diện, GVCN phải quán xuyến tất cả  các hoạt động của lớp một   cách chặt chẽ. Chất lượng học tập và tu dưỡng đạo đức của HS trong lớp   phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tổ chức GD của GVCN. GVCN là người cố vấn đắc lực của Chi đoàn  Thanh niên (Chi đội Thiếu niên tiền phong) trong việc tổ  chức sinh hoạt tập thể.  Ở đây, GVCN làm cố  vấn cho các tổ  chức đoàn thể  việc lập kế  hoạch công tác, thành lập các Ban   chấp hành Chi đoàn (Chi đội), tổ  chức các mặt hoạt động, sinh hoạt các đoàn  thể và phối hợp với các hoạt động của tập thể lớp nhằm thực hiện mục tiêu  giáo dục chung. GVCN giữ vai trò chủ động trong việc phối hợp các lực lượng GD: Gia   đình, nhà trường, xã hội là ba lực lượng GD, trong đó nhà trường là lực lượng  GD có tính chất chuyên nghiệp. GVCN là người giữ  vai trò chủ  động trong  việc phối hợp các lực lượng GD. Do vậy, GVCN phải là người đứng ra điều  phối và kết hợp cùng các lực lượng GD để  tổ  chức các hoạt động GD một  cách có hiệu quả nhất. 18
  19. Năng lực chuyên môn, đạo đức, uy tín và kinh nghiệm công tác của  GVCN là điều kiện quan trọng nhất cho việc tổ  chức, phối hợp thành công   các hoạt động GD học sinh của lớp. b. Nhiệm vụ của GVCN Tại điều 31, Điều lệ  trường trung học cơ  sở, trường trung học phổ  thông và  trường phổ  thông có nhiều cấp học, GVCN trước hết phải là GV  giảng dạy bộ môn, đã được quy định rõ như sau: “1. GV bộ  môn có những nhiệm vụ  sau đây: a) Dạy học và GD theo  chương trình, kế  hoạch GD, kế  hoạch dạy học của nhà trường theo chế  độ  làm việc của GV do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định; QL học sinh trong các  hoạt động GD do nhà trường tổ  chức; tham gia các hoạt động của tổ chuyên   môn; chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả GD; tham gia nghiên cứu khoa  học SP  ứng dụng; b) Tham gia công tác phổ  cập GD  ở  địa phương; c) Rèn  luyện đạo đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ  để  nâng   cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và GD; vận dụng các phương pháp dạy   học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo, rèn luyện PP tự  học củaHS; d) Thực hiện Điều lệ nhà trường; thực hiện quyết định của Hiệu  trưởng, chịu sự kiểm tra, đánh giá của Hiệu trưởng và các cấp QLGD; đ) Giữ  gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước HS; thương  yêu, tôn trọng HS, đối xử  công bằng với HS, bảo vệ  các quyền và lợi ích   chính đáng của HS; đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp; tạo dựng môi trường học  tập và làm việc dân chủ, thân thiện, hợp tác, an toàn và lành mạnh; e) Phối  hợp với GVCN, các GV khác, gia đình HS, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí  Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ  Chí Minh trong dạy học và GD học  sinh; g) Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. 2. Ngoài các nhiệm vụ quy định tại khoản 1 của Điều này, GVCN còn  có những nhiệm vụ  sau đây:   a) Xây dựng kế  hoạch các hoạt động GD thể  19
  20. hiện rõ mục tiêu, nội dung, PP GD bảo đảm tính khả  thi, phù hợp với đặc  điểm HS, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự  tiến bộ của   cả lớp và của từng HS; b) Thực hiện các hoạt động GD theo kế hoạch đã xây  dựng; c) Phối hợp chặt chẽ với gia đình HS, với các GV bộ môn, Đoàn thanh  niên Cộng sản HCM, Đội Thiếu niên Tiền phong HCM, các tổ chức xã hội có  liên quan trong việc hỗ  trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp  của HS lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng   đồng phát triển nhà trường; d) Nhận xét, đánh giá và xếp loại HS cuối kỳ và  cuối năm học; đề  nghị  khen thưởng và kỷ  luật HS; đề  nghị  danh sách HS   được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về  hạnh kiểm  trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi sổ  điểm và học bạ  HS;   đ) Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng.” 1.2.2.3. Nội dung công tác chủ nhiệm lớp a. Tìm hiểu và nắm vững đối tượng GD U.D. Usinxki – nhà GD người Nga cho rằng: “Muốn GD con người về  mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Nếu hiểu rõ HS thì mới thực  hiện được chức năng QL để  GD toàn diện HS của mình, lựa chọn được  những biện pháp tác động phù hợp, mới biến quá trình GD của GV thành quá   trình tự GD của HS với tư cách HS là chủ thể của quá trình GD, mới đánh giá   đúng đắn và chính xác chất lượng và hiệu quả  của GD. Tìm hiểu và nắm  vững đối tượng GD vừa là nội dung, vừa là điều kiện để  là tốt công tác của  GVCN lớp. * Nội dung tìm hiểu: ­ Tìm hiểu và nắm vững đặc điểm của lớp chủ nhiệm: + Số lượng, tên, tuổi của từng HS trong lớp. +  Đặc  điểm  tình hình của lớp: phong trào, truyền  thống, khó  khăn,  thuận 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2