intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

luận văn thạc sĩ giáo dục học: thiết kế hỗ trợ việc dạy và học phần hóa hữu cơ 11 trung học phổ thông (chương trình nâng cao)

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:119

79
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

luận văn thạc sĩ giáo dục học: thiết kế hỗ trợ việc dạy và học phần hóa hữu cơ 11 trung học phổ thông (chương trình nâng cao) tập trung thiết kế e-book hỗ trợ hoạt động tự học và phát triển tư duy của học sinh phần hóa hữu cơ lớp 11 thpt (chương trình nâng cao) nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: luận văn thạc sĩ giáo dục học: thiết kế hỗ trợ việc dạy và học phần hóa hữu cơ 11 trung học phổ thông (chương trình nâng cao)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM __________ Vũ Thị Phương Linh THIẾT KẾ E-BOOK HỖ TRỢ VIỆC DẠY VÀ HỌC PHẦN HÓA HỮU CƠ 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (Chương trình nâng cao) Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học hóa học Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. TRẦN THỊ TỬU Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
  2. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, ngoài nỗ lực của bản thân, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ to lớn của các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và các em học sinh. Bằng tất cả lòng kính trọng và và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gởi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám Hiệu trườ ng ĐHSP TP. H ồ Chí Minh, Phòng Khoa học công nghệ và Sau đại học, quý thầy cô đã tận tình giảng dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các học viên hoàn thành khóa học. Tác giả cũng xin gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến: - PGS. TS. Trần Thị Tửu, cô đã hướng dẫn tận tình, động viên và theo dõi sát sao với tinh thần trách nhiệm cùng lòng thương mến trong suốt quá trình tôi thực hiện luận văn này. - TS. Trịnh Văn Biều, Trưởng Khoa Hóa, ĐHSP TP. Hồ Chí Minh. Cảm ơn thầy đã dành rất nhiều thời gian, công sức và những lời chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình làm luận văn. - Các thầy cô, các bạn đồng nghiệp và các em học sinh tại các trường thực nghiệp đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực nghiệm sư phạm. - Cuối cùng xin cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè, đó là nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành tốt luận văn. Thành phố Hồ Chí Minh 2009
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CĐ : cao đẳng CNTT : công nghệ thông tin CSS : cascading Style Sheets – Bảng kiểu xếp chồng ĐH : đại học GV : giáo viên HS : học sinh HTML : hypertext Markup Language – Ngôn ngữ liên kết siêu văn bản ICT : information and communication technology – Công nghệ thông tin và truyền thông PPDH : phương pháp dạy học PMDH : phần mềm dạy học THPT : Trung học phổ thông
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài - Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh – với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão – thì người giáo viên không thể truyền đạt hết cho học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều; phải quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học ngay từ cấp tiểu học và càng lên cấp học cao hơn càng phải được chú trọng. - Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên. - Sách giáo khoa điện tử là một trong những tài liệu hỗ trợ việc tự học của học sinh, đó là nguồn cung cấp tri thức quan trọng, nguồn tư liệu cốt lõi, cơ bản để tra cứu, tìm tòi. Do đó trong quá trình làm việc với sách giáo khoa, học sinh không những nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện các thao tác tư duy, hình thành kĩ năng, kĩ xảo đọc sách. - Ngoài ra, sách giáo khoa điện tử cung cấp hệ thống kiến thức hóa học được trình bày với những hinh ảnh, phim minh họa sinh động, hấp dẫn nhằm phát huy tính tự giác, chủ động sáng tạo, giúp học sinh sớm làm quen với những ứng dụng của công nghệ thông tin, hình thành hứng thú học tập và niềm say mê bộ môn hoá cho học sinh. - Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, tin học đã xâm nhập vào các ngành nghề và trong mọi lĩnh vực. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học và ngành học là cần thiết. - Để giúp học sinh có cơ hội làm quen với hình thức tự học qua sách giáo khoa điện tử, tôi đã chọn đề tài: “THIẾT KẾ E-BOOK HỖ TRỢ VIỆC DẠY VÀ HỌC PHẦN HÓA HỮU CƠ LỚP 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH NÂNG CAO)” với mong muốn hỗ trợ hoạt động dạy và học, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay.
  5. 2. Mục đích nghiên cứu Thiết kế E-book hỗ trợ hoạt động tự học và phát triển tư duy của học sinh phần hóa hữu cơ lớp 11 THPT (chương trình nâng cao) nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học hoá học ở trường THPT. - Đối tượng nghiên cứu: việc thiết kế E-book phần hóa hữu cơ lớp 11 THPT (chương trình nâng cao). 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài: + Quá trình dạy học. + Xu hướng đổi mới phương pháp dạy học. + Quá trình tự học. + Phân tích chương trình, nội dung kiến thức phần hóa hữu cơ lớp 11 THPT (chương trình nâng cao). - Nghiên cứu các phần mềm cần thiết cho việc thiết kế E-book. - Vận dụng cơ sở lý luận và sử dụng các phần mềm để thiết kế E-book hóa hữu cơ lớp 11 (chương 5, 6, 7) THPT. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm chất lượng của E-book đã thiết kế. 5. Phạm vi nghiên cứu Phần hoá hữu cơ lớp 11 THPT chương trình nâng cao (chương 5, 6, 7). 6. Giả thuyết khoa học Nếu thiết kế sách giáo khoa điện tử có nội dung hấp dẫn, giao diện đẹp sẽ kích thích hứng thú học tập của học sinh, phát triển năng lực tư duy, niềm say mê đọc sách, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. 7. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN NGHIÊN CỨU - Phương pháp nghiên cứu: + Nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài. + Truy cập và chọn lọc thông tin trên Internet.
  6. + Điều tra. + Thực nghiệm sư phạm. + Tổng hợp, phân tích và xử lý số liệu thống kê. - Phương tiện nghiên cứu: sách giáo khoa, sách bài tập và tài liệu liên quan đến đề tài, máy vi tính và các phần mềm hỗ trợ. 8. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu - Ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế các bài học phần hóa hữu cơ lớp 11 T HPT (chương trình nâng cao) dưới dạng E-book. - Góp phần nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu SGK cho học sinh. - Giúp học sinh có niềm say mê tìm tòi, hứng thú học tập môn hóa. - Giúp giáo viên có một nguồn tư liệu phong phú để giảng dạy phần hóa học hữu cơ . - Hệ thống phương pháp giải toán hóa hữu cơ lớp 11 với các chuyên đề cụ thể. - Có thêm phần VUI HỌC với nội dung hấp dẫn và phong phú với những kiến thức gắn liền hóa học cuộc sống và môi trường, giúp học sinh mở rộng thêm vốn kiến thức. - Góp phần đổi mới phương pháp dạy và học ở trường THPT.
  7. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và truyền thông, việc tự học qua mạng, qua hệ thống E-learning và các E-book đang được phổ biến rộng rãi. Người học có thể học bất cứ lúc nào, bất kì ở đâu, với bất kì ai, học những vấn đề mà bản thân quan tâm, phù hợp với năng lực và sở thích, phù hợp với yêu cầu công việc…mà chỉ cần có máy tính và mạng Internet. Việc học trở nên linh hoạt và mở. Chính vì thế, các đề tài nghiên cứu về thiết kế website tự học, xây dựng E -learnig, thiết kế E-book đang được mọi người quan tâm nhiều hơn. Sau đây là một số khoá luận và luận văn tốt nghiệp chuyên ngành hóa học, trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh và ĐHSP Hà Nội: 1. Đỗ Ngọc Linh (2005), Nghiên cứu xây dựng giáo trình đi ện tử hóa học lớp 10, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục, ĐHSP Hà Nội. 2. Hỉ A Mổi (2005), Thiết kế website tự học môn hóa học lớp 11 chương trình phân ban thí điểm, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. 3. Phạm Dương Hoàng Anh (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia Dreamweaver MX và Macromedia Flash MX 2004 để thiết kế website hỗ trợ cho việc học tập và củng cố kiến thức môn Hóa học phần Hiđrocacbon không no mạch hở dành cho học sinh THPT, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. 4. Nguyễn Thị Thanh Hà (2006), Ứng dụng phần mềm Macromedia Flash và Macromedia Dreamver để thiết kế website về lịch sử hóa học 10 góp phần nâng cao chất lượng dạy học, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. 5. Nguyễn Thị Ánh Mai (2006), Thiết kế sách giáo khoa điện tử (E-book) các chương về lý thuyết chủ đạo sách giáo khoa hoá học lớp 10 THPT, Luận văn Thạc sĩ khoa học giáo dục, ĐHSP Hà Nội. 6. Phạm Duy Nghĩa (2006), Thiết kế Web site phục vụ việc học tập và ôn tập chương nguyên tử cho học sinh lớp 10 bằng phần mềm Macromedia Flash và Dreamweaver, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
  8. 7. Đỗ Thị Việt Phương (2006), Ứng dụng Macromedia Flash MX 2004 và Dreamweaver MX 2004 để thiết kế website hỗ trợ cho hoạt động tự học hoá học của học sinh phổ thông trong chương halogen lớp 10, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. 8. Nguyễn Ngọc Anh Thư (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia Dreamweaver MX và Macromedia Flash MX 2004 để tạo trang web hỗ trợ cho học sinh trong việc tự học môn hóa học lớp 11 nhóm Nitơ chương trình phân ban thí đi ểm, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. 9. Phạm Thị Phương Uyên (2006), Phối hợp phần mềm Macromedia Dreamweaver MX 2004 và Macromedia Flash MX 2004 thiết kế website hỗ trợ cho việc học tập và củng cố kiến thức cho học sinh môn hoá học nhóm oxi – lưu huỳnh chương trình cải cách, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. 10. Lê Thị Xuân Hương (2007), Thiết kế website hỗ trợ việc dạy và tự học chương Halogen lớp 10 THPT, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP.HCM. 11. Trịnh Lê Hồng Phương (2008), Thiết kế học liệu điện tử chương oxi – lưu huỳnh lớp 10 hỗ trợ hoạt động tự học hóa học cho học sinh trung học phổ thông, Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. 12. Nguyễn Thị Thu Hà (2008), Thiết kế sách giáo khoa điện tử lớp 10 – nâng cao chương “Nhóm Halogen”, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. 13. Nguyễn Thị Thùy Linh (2008), Xây dựng E-learning chương “Liên kết hóa học và cấu tạo phân tử” học phần hóa đại cương trường cao đẳng Giao thông vận tải 3, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. 14. Thái Hoàng Minh (2008), Thiết kế website hỗ trợ việc kiểm tra đánh giá môn hóa học lớp 10 trung học phổ thông, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. 15. Trần Tuyết Nhung (2009), Thiết kế sách giáo khoa điện tử chương “Dung dịch – sự điện li” lớp 10 chuyên hóa học, Luận văn thạc sĩ giáo d ục học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh. - Các website, E-learning và E-book đều có đặc điểm chung là góp phần nâng cao hiệu quả cho việc tự học, tự nghiên cứu kiến thức của HS. Tuy nhiên các tác giả chưa quan tâm đến một số vấn đề sau: + Một số website đòi hỏi phải truy cập Internet mới sử dụng được.
  9. + Nội sung kiến thức được xây dựng chủ yếu bằng phần mềm DreamWeaver nên giao diện chưa được hấp dẫn, việc link và load các mục của bài học chậm. + Website tự học phần hóa hữu cơ còn hạn chế (chủ yếu là hóa học vô cơ và đ,ại cương). + Nguồn tư liệu gắn liền nội dung bài học và thực tiễn cuộc sống, hóa học và môi trường chưa được phong phú. + Chưa đề cập đến nhứng lỗi sai, dễ mắc phải của HS khi nghiên cứu bài mới. + Việc đọc nội dung từng mục không được linh hoạt, phải sử dụng các nút tới và lui liên tục. + Các phim thí nghiệm được đưa trực tiếp vào trang nội dung bài học gây khó khăn trong việc trình bày bố cục bài học. Đôi khi các phim thí nghiệm phải download về máy mới xem được. + Phương pháp giải toán chỉ đề cập đến những phương pháp chung mà chưa phân thành các dạng toán cụ thể. + Phần vui học giúp HS thư giãn chưa được phong phú và hấp dẫn. 1.2. Đổi mới phương pháp dạy và học 1.2.1. Đổi mới PPDH – yêu cầu cấp bách của thời đại 1.2.1.1. Phương pháp dạy học [ 14, tr. 29] Thụật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp (methodos) có nghĩa là con đường để đạt mục đích. Theo đó, PPDH là con đường để đạt mục đích dạy học. PPDH là cách thức hành động của GV và HS trong quá trình dạy học. Cách thức hành động bao giờ cũng diễn ra trong những hình thức cụ thể. Cách thức và hình thức không tách nhau một cách độc lập. PPDH là những hình thức và cách thức hoạt động của GV và HS trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục đích dạy học. PPDH là những hình thức và cách thức, thông qua đó và bằng cách đó GV và HS lĩnh hội những hiện thực tự nhiên và xã hội xung quanh trong những điều kiện học tập cụ thể. 1.2.1.2. Đổi mới PPDH – yêu cầu cấp bách của thời đại
  10. Giáo dục thế kỉ 21 đang đứng trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là CNTT. Trên thế giới sự tương tác ở mức độ cao của các hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra. Đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam sẽ từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là con người, là nguồn lực người Việt Nam được phát triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao, phẩm chất và năng lực được hình thành trên một nền tảng kiến thức, kĩ năng đủ và chắc chắn. Xã hội đòi hỏi người có học vấn hiện đại không chỉ có khả năng lấy ra từ trí nhớ các trí thức dưới dạng có sẵn, đã lĩnh hội ở nhà trường mà còn phải có năng lực chiếm lĩnh, sử dụng các tri thức mới một cách độc lập, khả năng đánh giá các sự kiện, hiện tượng mới, các tư tưởng một cách thông minh, sáng suốt trong cuộc sống, trong lao động và trong quan hệ với mọi người. Chính vì thế, một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay là phải tập trung vào việc đổi mới phương pháp dạy học. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định “Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng ạo t và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay, đổi mới và thực hiện nghiêm minh chế độ thi cử… ” [10, tr. 68]. Có thể nói mục tiêu cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. 1.2.2. Mục đích của đổi mới PPDH [14, tr. 30–31] Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học đến cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới PPDH. Mục đích của việc đổi mới PPDH ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “Phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp HS phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những hình thức khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tập. Làm cho “học” là quá trình kiến tạo; HS tìm tòi, khám phá, phát hiện, luyện tập, khai thác và xử lí thông tin, tự hình thành hiểu biết,
  11. năng lực và phẩm chất. Tổ chức hoạt động nhận thức cho HS, dạy HS cách tìm ra chân lí. Chú trọng hình thành các năng lực tự học (tự học, sáng tạo, hợp tác, …) dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai. Những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân HS và cho sự phát triển xã hội. PPDH tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái với không hoạt động, thụ động. PPDH tích cực hướng tới việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS, nghĩa là hướng vào phát huy tính tích cực, chủ động của người học chứ không chỉ hướng vào việc phát huy tính tích cực của người dạy. Muốn đổi mới cách học, phải đổi mới cách dạy. Cách dạy quyết định cách học, tuy nhiên, thói quen học tập thụ động của HS cũng ảnh hưởng đến cách dạy của thầy. mặt khác cũng có trường hợp HS mong muốn được học tập theo PPDH tích cực nhưng GV chưa đáp ứng được. Do vậy, GV cần phải được bồi dưỡng, phải kiên trì cách dạy theo PPDH tích cực, tổ chức các hoạt động nhận thức từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, hình thành thói quen cho HS. Trong đồi mới phương pháp, phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp hoạt động dạy với hoạt động học thì mới có kết quả. PPDH tích cự c hàm chứa cả phương pháp dạy và phương pháp học. 1.2.3. Những xu hướng đổi mới PPDH Theo TS. Lê Trọng Tín [62], một số xu hướng đổi mới PPDH nói chung và PPDH hóa học nói riêng ở nước ta là: 1. Tăng cường tính tích cực, tính tìm tòi sáng tạo ở người học, tiềm năng trí tuệ nói riêng và nhân cách nói chung thích ứng năng động với thực tiễn luôn đổi mới. 2. Tăng cường năng lực vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống, sản xuất luôn biến đổi. 3. Chuyển dần trọng tâm của PPDH từ tính chất thông báo, tái hiện đại trà chung cho cả lớp sang tính chất phân hóa – cá thể hóa cao độ, tiến lên theo nhịp độ cá nhân. 4. Liên kết nhiều PPDH riêng lẻ thành tổ hợp PPDH phức hợp. 5. Liên kết PPDH với phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại (phương tiện nghe
  12. nhìn, máy vi tính…) tạo ra các tổ hợp PPDH có dùng kĩ thuật. 6. Chuyển hóa phương pháp khoa học thành PPDH đặc thù của môn học. 7. Đa dạng hóa các PPDH phù hợp với các cấp học, bậc học, các loại hình trường và các môn học. Việc đổi mới PPDH hóa học cũng theo 7 hướng đổi mới của PPDH nói chung như đã nêu ở trên, nhưng trước mắt tập trung vào hướng sau: - PPDH hóa học phải đặt người học vào đ úng vị trí chủ thể của hoạt động nhận thức, làm cho họ hoạt động trong giờ học, rèn luyện cho họ học tập giải quyết các vấn đề của khoa học từ dễ đến khó, có như vậy họ mói có điều kiện tốt để tiếp thu và vận dụng kiến thức một cách chủ động sáng tạo. - Phương pháp nhận thức khoa học hóa học là thực nghiệm, nên PPDH hóa học phải tăng cường thí nghiệm thực hành và sử dụng thật tốt các thiết bị dạy học giúp mô hình hóa, giải thích, chứng minh các quá trình hóa học. 1.2.4. CNTT và truyền thông góp phần đổi mới PPDH 1.2.4.1. Dạy và học theo quan điểm CNTT CNTT và truyền thông hay còn được viết tắt là ICT (Information and Communicatio n Technologies) là [113]: “Một tập hợp đa dạng các công cụ và tài nguyên công nghệ được sử dụng để giao tiếp, tạo ra, phổ biến, lưu trữ và quản lí thông tin. Các công nghệ này bao gồm máy tính, điện thoại, Internet, vô tuyến truyền hình, đài phát thanh…” CNTT và truyền thông được coi là những công cụ tiềm năng mạnh mẽ, có khả năng tạo ra những thay đổi và cải cách giáo dục. Ở đó những cơ cấu cứng nhắc theo truyền thống về mối quan hệ “không gian – thời gian – trật tự thang bậc” sẽ bị phá vỡ. Chẳng hạn, việc phát sóng chương trình giáo dục trên đài hay vô tuyến không cần thiết phải có GV và học viên tại cùng địa điểm vật lý. Bài học, bài tập, bài giảng,… được ghi vào đĩa CD hoặc được đưa lên mạng Internet, nhờ đó mọi người có thể học bất cứ lúc nào. Những diễn đàn trao đổi về mọi vấn đề, những buổi hội thảo trực tuyến… sẽ giúp cho người học có thể học mọi lúc, mọi nơi, mọi lứa tuổi, bất kì ai có khả năng và mong muốn đều học được [114]. Với sự phát triển như vũ bão của CNTT và truyền thông, những thành tựu và sản phẩm mới liên tục ra đời, trong đó thành tựu quan trọng nhất là mạng Internet thì việc tạo ra, phổ biến, lưu trữ và quản lý, trao đổi thông tin là rất dễ dàng. Vì vậy, trong những năm gần đây,
  13. người ta đặc biệt quan tâm đến việc làm thế nào để khai thác một cách hiệu quả nhất máy tính và Internet nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở mọi cấp độ, mọi cơ sở đào tạo và mọi hình thức đào tạo. Theo quan điểm CNTT [14, tr. 43–44], để đổi mới PPDH, người ta tìm những “Phương pháp làm tăng giá trị lượng tin, trao đổi thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và hiệu quả hơn”. Nhờ sự phát triển của khoa học kĩ thuật, quá trình dạy học đã sử dụng phương tiện dạy học sau đây: - Phim chiếu để giảng bài với đèn chiếu Overhead. - Phần mềm hỗ trợ giảng bài, minh họa trên lớp với LCD – projector (máy chiếu tinh thể lỏng) hay còn gọi là video - projector. - Phần mềm dạy học (PMDH) giúp HS học trên lớp và ở nhà. - Công nghệ kiểm tra, đánh giá bằng trắc nghiệm trên máy tính. - Sử dụng mạng Internet để dạy học. Sử dụng phần mềm dạy học làm phương tiện hỗ trợ dạy học một cách hợp lí sẽ cho hiệu quả cao, bởi lẽ khi sử dụng phần mềm dạy học bài giảng sẽ sinh động hơn, sự tương tác hai chiều được thiết l ập, HS được giải phóng khỏi những công việc thủ công vụn vặt, tốn thời gian, dễ nhầm lẫn, nên có điều kiện đi sâu vào bản chất dạy học. Hai công nghệ hiện đại và ứng dụng có hiệu quả nhất cho giáo dục đào tạo là công nghệ đa phương tiện Multimedia và công nghệ mạng Networking, đặc biệt là mạng Internet. Hai công nghệ này đã giúp cho con người thực hiện được khẩu hiệu học ở mọi nơi, học ở mọi lúc, học suốt đời và dạy cho mọi người với mọi trình độ khác nhau. Sử dụng CNTT để dạy học, PPDH cũng thay đổi. GV là người hướng dẫn HS học tập chứ không đơn thuần chỉ là người “rót” thông tin vào đầu HS. GV cũng phải học tập thường xuyên để nâng cao trình độ về CNTT, sử dụng có hiệu quả CNTT trong học tập. HS có thể lấy thông tin từ nhiều nguồn phong phú khác nhau như sách, Internet, CD – ROM… Lúc này HS phải biết đánh giá và lựa chọn thông tin, không còn chỉ đơn thuần nhận thông tin một cách thụ động vì nguồn thông tin vô cùng phong phú. 1.2.4.2. Vai trò của CNTT trong giảng dạy hóa học [47] Đối với môn hóa học, việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy sẽ tạo ra một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. Cụ thể là:
  14. - CNTT là một công cụ đắc lực hỗ trợ cho việc xây dựng các kiến thức mới. - CNTT t ạo môi trường để khám phá kiến thức nhằm hỗ trợ cho quá trình học tập. - CNTT tạo môi trường để hỗ trợ học tập qua thực hành, qua cộng đồng và qua phản ánh. - CNTT giúp cho việc đánh giá định tính và định lượng hóa học chính xác hơn. 1.2.4.3. Ưu điểm và hạn chế của việc ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy học - Ưu điểm + Là công cụ đắc lực, hỗ trợ cho việc xây dựng kiến thức. + Giúp HS dễ hiểu bài, hiểu bài một cách sâu sắc hơn và nhớ bài lâu hơn do việc thu nhận thông tin về sự vật hiện tượng một cách sinh động, chính xác đầy đủ từ đó nâng cao hứng thú học tập môn học, nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học. + HS được tiếp cận, làm quen với các thiết bị, công nghệ hiện đại. + HS không bị thụ động, có nhiều thời gian nghe giảng để đào sâu suy nghĩ… và điều quan trọng hơn là nhiều HS được dự và nghe giảng bài của nhiều GV giỏi. + GV chuẩn bị bài dạy một lần thì sử dụng được nhiều lần chỉ cần bổ xung những kiến thức mới. + Các phương tiện hiện đại sẽ tạo ra khả năng để GV trình bày bài giảng sinh động hơn, dễ dàng cập nhật và thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học hiện đại. + Các phương tiện sẽ hỗ trợ, chuẩn hóa các bài giảng mẫu, đặc biệt với những phần khó giảng, những khái niệm phức tạp. + Giúp GV tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi tiết h ọc, giúp GV điều khiển được hoạt động nhận thức của HS, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của các em được thuận lợi và cho hiệu suất cao hơn. + Giải phóng người thầy khỏi một lượng lớn các công việc tay chân do đó làm tăng khả năng nâng cao chất lượng dạy học. + Đặc biệt nếu áp dụng hình thức đào tạo điện tử (E-Learning) sẽ đáp ứng được mọi tiêu chí: Hình thức đào tạo đa dạng, học mọi nơi, học mọi lúc, học mọi thứ và học mềm dẻo, học một cách mở, học suốt đời và tiết kiệm chi phí cho cả người dạy lẫn người học. Bởi đặc điểm của E – Learning là có hệ thống giảng bài và có tài liệu học
  15. tập được giới thiệu dưới dạng số hóa, được đặc trưng bởi tính đa và siêu phương tiện, có sự tương tác qua lại giữa người học, hệ thống dạy và người dạy. Với các lý do nêu trên, việc ứng dụng ICT trong dạy học hóa học sẽ tạo ra một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung chương trình, PPDH và phương pháp đào tạo. - Hạn chế + Chi phí đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất lớn. + Đòi hỏi đội ngũ GV và HS phải có trình độ tin học, ngoại ngữ (tiếng Anh) nhất định. + Khi sử dụng máy tính điện tử, người ta dễ đánh mất cảm giác chân thực thiếu đi những cảm xúc, xúc giác và ấn tượng thực. Do đó, ICT chỉ hỗ trợ chứ không thay thế được các thiết bị thực hành. Theo nhận định của một số chuyên gia, thì việc đưa công nghệ thông tin và truyền thông ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, những gì đã đạt được vẫn còn hết sức khiêm tốn. Khó khăn, vướng mắc và những thách thức vẫn còn ở phía trước bởi những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Chẳng hạn: - Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học nhưng trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ giáo viên hoàn toàn trong các bài giảng của họ. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài giảng chứ không phải toàn bộ chương trình do nhiều nguyên nhân, mà cụ thể là, với những bài học có nội dung ngắn, không nhiều kiến thức mới, thì việc dạy theo phương pháp truyền thống sẽ thuận lợi hơn cho học sinh, vì giáo viên sẽ ghi tất cả nội dung bài học đó đủ trên một mặt bảng và như vậy sẽ dễ dàng củng cố bài học từ đầu đến cuối mà không cần phải lật lại từng “slide” như khi dạy trên máy tính điện tử. Những mạch kiến thức “ vận dụng” đòi hỏi giáo viê n phải kết hợp với phấn trắng bảng đen và các phương pháp dạy học truyền thống mới rèn luyện được kĩ năng cho học sinh. - Bên cạnh đó, kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin ở một số giáo viên vẫn còn hạn chế, chưa đủ “vượt ngưỡng” để đam mê và sáng tạo, thậm chí còn né tránh. Mặt khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một lối mòn khó thay đổi, sự uy quyền, áp đặ t vẫn chưa thể xóa được trong một thời gian tới. Việc dạy học tương tác giữa người - máy, dạy theo nhóm, dạy phương pháp tư duy sáng tạo cho học sinh, cũng như dạy học sinh cách biết,
  16. cách làm, cách chung sống và cách tự khẳng định mình vẫn còn mới mẻ đối với giáo viên và đòi hỏi giáo viên phải kết hợp hài hòa các phương pháp dạy học đồng thời phát huy ưu điểm của phương pháp dạy học này làm hạn chế những nhược điểm của phương pháp dạy học truyền thống. Điều đó làm cho công nghệ thông tin, dù đã được đưa vào quá trình dạy học, vẫn chưa thể phát huy tính trọn vẹn tích cực và tính hiệu quả của nó. - Việc sử dụng CNTT để đổi mới PPDH chưa được nghiên cứu kỹ, dẫn đến việc ứng dụng nó không đúng chỗ, không đúng lúc, nhiều khi lạm dụng nó. - Việc đánh giá một tiết dạy có ứng dụng CNTT còn lúng túng, chưa xác định hướng ứng dụng CNTT trong dạy học. Chính sách, cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, chưa tạo được sự đồng bộ trong thực hiện. Các phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc đổi mới PPDH bằng phương tiện chiếu projector, … còn thiếu, chưa đồng bộ và chưa hướng dẫn sử dụng nên chưa triển khai rộng khắp và hiệu quả. - Việc kết nối và sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để và có chiều sâu; sử dụng không thường xuyên do thiếu kinh phí, do tốc độ đường truyền. Công tác đào tạo, công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng đội ngũ GV chỉ mới dừng lại ở việc xoá mù tin học nên giáo viên chưa đủ kiến thức, mất nhiều thời gian và công sức để sử dụng công nghệ thông tin trong lớp học một cách có hiệu quả. 1.2.4.4. Thực trạng ứng dụng CNTT và truyền thông ở nước ta hiện nay - Trước đây, trong điều kiện hệ thống giáo dục của nước ta chưa thích nghi được hoàn toàn với kỉ n guyên kinh ết tri thức. Nghị quyết TW IV của Ban chấp hành TW đã nhấn mạnh: “ Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những chương trình của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước một bước và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp kinh tế - xã hội”. Nhìn lại những năm vừa qua chúng ta thấy nội dung giáo dục ít gắn liền với yêu cầu của cuộc sống hằng ngày, dạy học vẫn bằng phương pháp lạc hậu: thầy giảng – trò ghi, chưa cập nhật được những thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới. Do đó, sản phẩm giáo dục – con người thông qua gíáo dục đào tạo thường thiếu năng động, sáng tạo, còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng, thậm chí bất lực trước đòi hỏi của cuộc sống vốn rất đa dạng và luôn luôn biến đổi không ngừng. - Để hòa cùng với nhịp độ phát triển giáo dục chung của các nước trên thế giới, trong những năm 1990 trở lại đây, Bộ Giáo dục và Đ ào tạo đã có những cố gắng trong việc tăng
  17. cường trang thiết bị, cung cấp thêm nhiều máy tính cho các trường phổ thông, mở rộng và nâng cao chất lượng sinh viên khoa công ngh ệ thông tin, cử nhiều GV đi học thêm tin họ c, phổ cập chứng chỉ Intel cho GV ở các trường phổ thông, khuyến khích các cán bộ nghiên cứu các phần mềm dạy học. - Theo http://vietbao.vn/Giao-duc/ [96] Năm 1998, ngay sau khi Internet được mở ra tại Việt Nam, Trung tâm CNTT của Bộ (nay là Cục CNTT) đã xây dựng đề án Mạng giáo dục EduNet, để nối mạng toàn ngành và phát triển dịch vụ thông tin giáo dục. Ý tưởng nội dung cơ bản của dự án Mạng giáo dục có thể tóm tắt như sau: Nối tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo vào Internet trên một xa lộ quốc gia (backbone), phát triển các dịch vụ thông tin và ứng dụng trên Internet, phát triển thông tin (số) về giáo dục; đưa công nghệ dạy học trực tuyến lên mạng EduNet để chia sẻ dùng chung, để mọi người có thể học mọi nơi, mọi lúc; mỗi trường đại học (ĐH), cao đẳng (CĐ) phải có website riêng, mỗi giáo viên và học sinh có email theo tên miền của trường. Trong khoảng mười năm gần đây, các trường THPT đã triển khai chương trình dạy môn tin học, trình độ giảng dạy và ứng dụng tin học đã có cơ sở vững chắc, nhiều phần mềm dạy học đã được thử nghiệm. Nhiều giáo viên đã thử ứng dụng phần mềm của nước ngoài để làm công cụ dạy học, song các phần mềm còn quá ít ỏi, các ứng dụng còn mang tính thử nghiệm. Nếu xây dựng và đưa các phần mềm vào dạy học phổ biến sẽ là một bước ngoặc quan trọng cho nền giáo dục nước nhà. Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin Bộ Giáo dục và Đào tạo Quách Tuấn Ngọc: Cho đến nay, giáo viên các trường đang chủ yếu soạn bài trình chiếu powerpoint và một số phần mềm dạy học. Vẫn còn có sự nhầm lẫn khá lớn giữa khái niệm về giáo án điện tử với bài trình chiếu, bài giảng điện tử, giữa thiết bị dạy học với phần mềm. Năm học ứng dụng CNTT sẽ tạo ra bước ngoặt mới về việc làm bài giản g điện tử theo công nghệ E -Learning. Trong những năm qua , Cục CNTT đã xây dựng website E - Learning http://el.edu.net.vn để tuyên truyền phổ cập công nghệ, nghiên cứu thử nghiệm và tuyển chọn các phần mềm E-Learning thích hợp, đã Việt hoá phần mềm mã nguồn mở Moodle và đến nay đã có khoảng 70 trường ĐH, CĐ sử dụng. Cục CNTT sẽ tổ chức
  18. chuyển giao các phần mềm công cụ tạo bài giảng đạt chuẩn quốc tế, phù hợp với yêu cầu Việt Nam cho các Sở. - Theo thông tấn xã Việt Nam [98]: Đến nay, đã có 20% GV trung học, 30% trường THPT ứng dụng CNTT. Trong đó, từ 2 – 5% số bài giảng đã sử dụng phần mềm dạy học và có ứng dụng CNTT. Ngoài ra còn có nhiều phần mềm hỗ trợ khác đã sử dụng rộng rãi trong các trường. Các tập đoàn máy tính và phần mềm mới như Intel, IBM, Microsoft,… cũng đã đầu tư rất lớn cho việc nghiên cứu đưa CNTT vào giáo dục và hỗ trợ cho Bộ G iáo dục và Đào tạo nhiều dự án đang được triển khai ở nhiều trường phổ thông một cách có hiệu quả, mở ra một hướng mới cho việc đổi mới giáo dục ở nước ta. - Tuy nhiên, nhiều GV vẫn còn quen với cách dạy cũ, ngại thay đổi, tâm lí ngại phải hao tốn nhiều thời gian, công sức để đầu tư, soạn lại giáo án của tất cả bài giảng cho phù hợp với phương pháp, phương tiện, hình thức dạy học mới. - Một số GV chưa thực sự cố gắng tự học, tự nâng cao khả năng ứng dụng CNTT. - Bên cạnh đó, sinh viên sư phạm chưa ứng dụng nhiều CNTT và các phần mềm dạy học trong soạn giáo án. Theo Th.S Vũ Thị Ngọc Tú [106], Khoa Tâm lý - giáo dục học của Trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã tiến hành một khảo sát về mức độ sử dụng CNTT trong việc soạn giáo án của các sinh viên tại 6 khoa Toán, Lý, Hóa, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý trong trường. Kết quả cho thấy, 19,6% số sinh viên thường xuyên sử dụng CNTT trong việc soạn giáo án; 50,8% thỉnh thoảng sử dụng; 28,8% hiếm khi sử dụng và 0,8% chưa sử dụng CNTT để soạn giáo án bao giờ. Trong 6 khoa được khảo sát, khoa Ngữ Văn và Địa lý lại có số sinh viên thường xuyên sử dụng CNTT nhiều nhất (25%), trong khi đó, số ít nhất lại rơi vào các sinh viên khoa Toán. Cá biệt, khoa Hóa học có đến 5% sinh viên chưa từng sử dụng CNTT để soạn bài giảng. Nguyên nhân của tình trạng này là các sinh viên ít có cơ hội được học một cách bài bản hệ thố ng các phần mềm ứng dụng trong dạy học, những em biết thì hầu hết do tự học nên không thành thạo hoặc không biết cách sử dụng những phần mềm đó vào việc soạn giáo án cụ thể. - Nghiên cứu của Th.S Vũ Thị Ngọc Tú cũng cho thấy sự chênh lệch trong việc sử dụng phương tiện CNTT trong khi soạn giáo án. Internet là phương tiện được sử dụng nhiều nhất (52,1%). Các phương tiện khác cần sự tìm tòi, sáng tạo được sử dụng ít hơn, như bài trình bày đa phương tiện (4, 6%); thiết kế trang We b (17,1%); xây dựng ấn phẩm (17 ,1%);
  19. học theo dự án (4,6%); sử dụng các câu hỏi cơ bản (4,6%). Trong khi soạn giáo án, có đến 42,1% sinh viên chưa khi nào yêu cầu học sinh sử dụng CNTT vào việc tìm kiếm thông tin, phát triển tư duy bâc cao và trình bày sản phẩm và tự đánh giá. Dưới 50% sinh viên dùng Internet để hỗ trợ xây dựng các hoạt động trong bài học và đến 42,1% chưa sử dụng CNTT để trình bày bài giảng của mình cho học sinh. [http://www.giaovien.net/tin-tuc/tin-tuc-ict] Như vậy, ta có thể khẳng định rằng “Đổi mới phương pháp dạy học hóa học bằng CNTT là xu thế của thời đại ngày nay”. Tuy nhiên, việc ứng dụng làm sao để khai thác hợp lí và hiệu quả của ICT vào dạy học nói chung và dạy học hóa học nói riêng lại cần phải có những nghiên cứu cụ thể và nghiêm túc. 1.2.4.5. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng CNTT ở trường trung học [14, tr. 45-46] Hiện tại nhiều trường trung học đã được trang bị máy vi tính, các phương tiện nghe nhìn, các phương tiện truyền thông khác, khá nhiều trường đã được kết nối Internet. GV đã được tập huấn về ứng dụng CNTT trong dạy học. HS thường xuyên tiếp xúc với CNTT. Để nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong trường trung học, cần thực hiện một số nội dung sau: - Nâng cao nhận thức cho c án bộ quản lí, GV và HS về việc ứng dụng CNTT trong quản lí giáo dục và dạy học. - Sử dụng các nguồn kinh phí để đầu tư trang thiết bị về CNTT cho các trường trung học. - Bồi dưỡng GV các bộ môn về CNTT để họ có thể tổ chức tốt ứng dụng CNTT trong dạy học. - Tổ chức trình diễn các tiết dạy học có ứng dụng CNTT trong trường trung học nhằm mục đích tuyên truyền, động viên các các nhân, đơn vị tổ chức tốt việc ứng dụng CNTT. - Xây dựng một số dịch vụ giáo dục và đào tạo ứng dụng trên mạng Internet. - Tuyển chọn, xây dựng và hướng dẫn sử dụng các phần mềm quản lí giáo dục và dạy học.
  20. - Nâng cao hiệu quả của việc kết nối Internet. - Nghiên cứu để đưa các phần mềm dạy học tốt vào danh mục thiết bị dạy học tối thiểu. - Tổ chức trao đổi kinh nghiệm về ứng dụng CNTT giữa các trường trung học trong nước và quốc tế. Để việc đổi mới PPDH không chỉ là phong trào, để nó không chỉ được nhìn thấy trên bề nổi mà còn được nhân rộng ở các nhà trường, từng lớp học, trở thành thói quen của mỗi thầy cô giáo thì một trong những điều kiện cần thiết là sự quan tâm, chỉ đạo, giúp đỡ thiết thực từ phía ban giám hiệu nhà trường và các cấp quản lý. Vì rất nhiều lý do như đã thoát ly giảng dạy, bận bịu với quá nhiều việc, nên ban giám hiệu các nhà trường thường ít có thời gian dự giờ, có nơi chưa thực sự đi sâu, đi sát, tháo gỡ kịp thời những băn khoăn, vướng mắc của GV trong việc triển khai yêu cầu này. Thực tế cho thấy, nếu hiệu trưởng trường nào quan tâm đến việc đổi mới PPDH, thì chắc chắn GV trường ấy sẽ được tạo điều kiện để tiếp cận với các phương pháp dạy học mới, với trang thiết bị hiện đại, có cơ hội được tham dự những buổi hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm của những chuyên gia... Ngoài việc chuẩn bị điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, tập huấn GV... điều quan trọng nữa là ban giám hiệu các trường phải chủ động, sáng tạo trong cách tổ chức, quản lý để khích lệ GV thường xuyên thực hiện đổi mới trong các giờ dạy, không để tình trạng người làm cũng được, người không làm cũng chẳng sao. - Các chuyên gia, các nhà quản lý giáo dục s ớm đưa ra tiêu chí đánh giá tiết dạy có sử dụng CNTT, chuẩn bài giảng điện tử để có cơ sở thẩm định, tạo ra ngân hàng bài giảng điện tử có chất lượng. Sự cần thiết phải đổi mới PPDH thì đã rõ, song để thực hiện được rộng khắp trong toàn ngành thật không đơn giản. Nó đòi hỏi người thầy không chỉ có bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, mà còn phải tự mình vượt qua những thói quen đã ăn sâu, bám rễ. Nói như một vị cán bộ quản lý ngành: “Nó đòi hỏi thay đổi nhận thức về sự trao đổi chủ thể trong một tiết dạy và phục vụ cho điều ấy là biết bao công sức: Làm quen với CNTT và những phương tiện dạy học hiện đại, sử dụng được đa dạng các hình thức kiểm tra đánh giá, tiếp cận với những đòi hỏi mới về kiến thức cũng như tâm lý của học trò... Hãy nhìn vào những đôi mắt học trò! Chúng ta sẽ thấy sự háo hức, niềm khát khao hiểu biết vô bờ. Chúng đang mong đợi các thầy cô truyền cho cách tự phát hiện, chiếm lĩnh và sử dụng tri thức một cách tự nhiên nhất, giản
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2