intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng công tác quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông huyện Thốt Nốt, Cần Thơ

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

120
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng công tác quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông huyện Thốt Nốt, Cần Thơ khảo sát thực trạng tự học của HS và công tác quản lí của hiệu trưởng đối với hoạt động tự học của HS, đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh THPT, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng công tác quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông huyện Thốt Nốt, Cần Thơ

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ______________ Lê Thanh Tú Chuyên ngành : Quản lý giáo dục Mã số : 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
  2. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BC : Bán công CBQL : Cán bộ quản lý CSVC : Cơ sở vật chất GD – ĐT : Giáo dục – Đào tạo GV : Giáo viên GVCN : Giáo viên chủ nhiệm GVBM : Giáo viên bộ môn HS : Học sinh QLGD : Quản lý giáo dục PPDH : Phương pháp dạy học SL : Số lượng TB : Trung bình THPT : Trung học phổ thông TS : Tổng số
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nhân loại đang bước từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp, còn gọi là xã hội thông tin với nền kinh tế tri thức toàn cầu hóa. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão dẫn đến lượng thông tin khoa học tăng nhanh, tăng nhiều gấp bội. Khối lượng kiến thức cũng tăng theo qui luật số mũ nhưng thời gian học không được tăng thêm. Việt Nam mới bước vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Nghĩa là phải thực hiện hai cuộc cách mạng cùng một lúc để tiến đến văn minh công nghiệp rồi tiến thẳng luôn đến nền văn minh trí tuệ. Nhưng phải bắt đầu từ đâu? Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII chỉ rõ: Đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD - ĐT khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thói quen, nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh...[18] Chiến lược phát triển giáo dục 2001 đến 2010 cũng đã đề cập đến vấn đề đổi mới và hiện đại hóa phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền đạt tri thức thụ động, thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho người học phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ thống và có tư duy phân tích, tổng hợp; phát triển được năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học tập, hoạt động tự quản trong nhà trường và tham gia các hoạt động xã hội. [6] Distecvec nói: Người thầy dở là người chỉ đem đến kiến thức cho học trò, người thầy giỏi là người biết đem đến cho học trò cách tự tìm ra kiến
  4. thức. [11] Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn cũng đã giải thích tự học của học sinh rất dí dỏm bằng năm mọi: Học mọi lúc, học mọi nơi, học mọi người, học bằng mọi cách, học qua mọi nội dung và sau này Ông thêm một mọi nữa là học trong mọi hoàn cảnh. [29] Nhưng thực tế, ở các trường THPT luôn đặt nặng việc dạy cho học sinh kiến thức, dạy đủ chương trình, dạy trúng trọng tâm mà chưa quan tâm đúng mức đến việc kích thích tính tò mò khoa học, phát huy tính tích cực, độc lập của HS. Nói một cách khác, nhà trường chú trọng việc dạy kiến thức hơn là dạy phương pháp học, tự học để HS tự học có kết quả. Hiệu trưởng các trường THPT cũng chưa nắm vững hoạt động tự học của HS và chưa có biện pháp quản lý để nâng cao kết quả của hoạt động tự học của HS trường mình. Hoạt động tự học của HS như thế nào? Thực trạng công tác quản lí của Hiệu trưởng đối với hoạt động tự học của HS ra sao? Đứng trước những câu hỏi đó chúng tôi đã chọn đề tài “Thực trạng công tác quản lí của Hiệu trưởng đối với hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông huyện Thốt Nốt, Cần Thơ” để nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở khảo sát thực trạng tự học của HS và công tác quản lí của Hiệu trưởng đối với hoạt động tự học của HS, đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh THPT, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. 3. Khách thể nghiên cứu 3.1. Khách thể: Quản lí hoạt động dạy học ở trường THPT. 3.2. Đối tượng: Công tác quản lí hoạt động tự học của Hiệu trưởng ở trường trung học phổ thông.
  5. 4. Giả thuyết khoa học Hiện nay, học sinh THPT chưa có động cơ học tập đúng đắn, tính tích cực học tập chưa cao nên khả năng tự học chưa được hình thành đúng yêu cầu. Nguyên nhân của thực trạng này có thể từ nhiều phía, nhưng chủ yếu là do Hiệu trưởng chưa có các biện pháp quản lý hoạt động tự học của HS một cách hiệu quả. Nếu Hiệu trưởng các trường THPT có các biện pháp quản lí toàn diện, sâu sắc hoạt động dạy học sẽ phát triển khả năng tự học của HS. 5. Nhiệm vụ 5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận liên quan đến đề tài 5.2. Khảo sát thực trạng tự học của học sinh THPT và công tác quản lí của Hiệu trưởng đối với hoạt động tự học của học sinh THPT 5.3. Đề xuất biện pháp quản lí của Hiệu trưởng nhằm phát triển khả năng tự học của học sinh THPT 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6.1. Cơ sở phương pháp luận - Quan điểm hệ thống cấu trúc - Quan điểm thực tiễn 6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể - Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra bằng phiếu, trò chuyện phỏng vấn, quan sát thực tiễn, nghiên cứu sản phẩm và ý kiến chuyên gia. 6.3. Phương pháp toán thống kê để xử lí số liệu 7. Giới hạn đề tài Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu thực trạng tự học và các biện pháp tác động của Hiệu trưởng đến Tổ bộ môn, Tổ chủ nhiệm, Đoàn thanh niên đối với hoạt động tự học của học sinh khối lớp 10 ở ba trường trung học phổ thông huyện Thốt Nốt, TP.Cần Thơ.
  6. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề Ngay từ thời cổ đại, khi Giáo dục học chưa được hình thành nhưng xã hội cũng đã xuất hiện nhiều tư tưởng về vấn đề tự học. Socrate (469 – 399 trCN), Ông đã thực hiện và đề xuất một phương pháp dạy học là bằng cách hỏi – đáp giữa hai người mà giúp cho người khác đi đến chân lí, tự rút ra chân lí. Ông đã nêu ra phương châm “Hỡi con người hãy tự khám phá bản thân”. [11] Khổng Tử (551 – 479 trước CN) rất coi trọng mặt tích cực suy nghĩ của người học. Ông nói “Không giận vì muốn biết thì không gợi mở cho, không bực vì không rõ được thì không bày vẽ cho” hay “Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc mà không suy ra ba góc kia thì không dạy nữa”. Rõ ràng là cách dạy học của Khổng Tử chỉ là gợi mở để học trò tự tìm ra chân lí, thầy giáo chỉ giúp học trò cái mấu chốt nhất, còn mọi vấn đề khác học trò phải từ đó mà tìm ra. [11] Đến thời cận đại, nhà sư phạm vĩ đại J.A.Comenxki (1592 – 1670) đã đưa ra những yêu cầu cải tổ nền giáo dục theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Theo Ông, “Dạy học lấy hoạt động của người học làm trung tâm”, qua đó phát huy cao độ tính tích cực hoạt động học tập của người học dưới sự giúp đỡ của thầy giáo để người học tự tìm tòi, suy nghĩ, tự nắm bắt bản chất sự vật hiện tượng. [11] A.S. Makarenko (1888 – 1939), Nhà giáo dục Xô Viết lỗi lạc cũng đã cho rằng người học phải là nhà tổ chức tích cực, phải kiên trì, phải làm chủ bản thân và gây ảnh hưởng tới người khác.
  7. Những tư tưởng về vấn đề tự học của các nhà giáo dục tiền bối đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, đặt một cơ sở vững chắc cho sự phát triển của nền giáo dục hiện đại, vạch ra một hướng đi đúng đắn khi nghiên cứu về hoạt động tự học của người học. Khi đi sâu nghiên cứu khoa học giáo dục, vai trò to lớn của hoạt động tự học cũng được khẳng định. Cuộc cải cách giáo dục có tính chất thế giới lần thứ hai diễn ra vào cuối những năm 1950 đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX đã đưa ra trọng tâm là đổi mới PPDH theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, “hướng vào người học”. Từ sau những năm 1980, với sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức, hình thành xã hội thông tin, và xu thế toàn cầu hóa đã tạo nên làn sóng đổi mới giáo dục. Quan tâm đến việc hình thành các phẩm chất và năng lực cho thế hệ trẻ và ý thức về trách nhiệm, tính tích cực chủ động, năng lực sáng tạo, thích ứng nhanh với những sự đổi mới: phát huy cá tính, bản sắc người học là một trong những điểm quan trọng của cải cách giáo dục lần này. Ở Việt Nam, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 – 1784) thế kỉ XVIII đã đưa ra phương châm học tập: Học nhiều nhưng phải biết nắm lấy cái chính; học phải có óc suy luận, không chỉ câu nệ vào sách vở; học phải hành, học phải giúp cho con người có năng lực để làm những việc có ích cho xã hội; phải chú ý việc tự học. Khi bàn về tự học, Bác Hồ đã viết trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc”: “Cách học tập, phải lấy tự học làm cốt, phải biết tự động học tập…” [18] Chiến lược phát triển giáo dục 2001 đến 2010 cũng đã đưa ra giải pháp phát triển giáo dục là đổi mới mạnh mẽ phương pháp GD - ĐT để làm tăng tính tích cực, chủ động của người học, phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp toàn dân.
  8. Luật giáo dục, chương I, điều 4 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng lực tự học của học sinh, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên…” Rất nhiều nhà giáo dục Việt Nam nghiên cứu về tự học như Đặng Vũ Hoạt, Lê Khánh Bằng, Hà Thị Đức, Thái Duy Tuyên, Võ Quang Phúc, …trong đó phải nói đến Nguyễn Cảnh Toàn đã có nhiều công trình nghiên cứu về tự học cả trên phương diện lí luận và thực tiễn. Nguyễn Cảnh Toàn đã phân tích các vấn đề của tự học trong tác phẩm “Quá trình dạy – tự học” như khái niệm, phương pháp, mô hình, chu trình dạy, tự học. Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: Tự học là “nội lực” phát triển bản thân người học, tác động của thầy là “ngoại lực” đối với sự phát triển của bản thân người học. Kết hợp quá trình dạy và quá trình tự học là quá trình kết hợp giữa ngoại lực và nội lực cộng hưởng với nhau tạo ra chất lượng và hiệu quả cao. Rõ ràng, vấn đề tự học không phải là vấn đề mới mẻ trong lý luận và thực tiễn dạy học, nó đã được các nhà nghiên cứu giáo dục trên thế giới cũng như ở Việt Nam đề cập từ lâu. Việc quản lý hoạt động tự học cũng đã có những công trình nghiên cứu như “Quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh THPT tại thành phố Hồ Chí Minh” (Luận văn thạc sĩ của Lê Khắc Mỹ Phượng); “Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên trường sĩ quan lục quân 2” (Luận văn thạc sĩ giáo dục học của Trần Bá Khiêm). Cần đánh giá đúng thực trạng công tác quản lí hoạt động tự học của học sinh THPT và các biện pháp quản lí hoạt động tự học cũng như việc triển khai các biện pháp sao cho có hiệu quả trong thực tiễn dạy học ở nhà trường phổ thông là việc làm cần thiêt. Chính vì thế mà chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu của mình là “Thực trạng công tác quản lý của Hiệu trưởng đối với hoạt động tự học của học sinh trung học phổ thông, huyện Thốt Nốt, Cần Thơ”.
  9. 1.2. Tự học của học sinh THPT 1.2.1. Khái niệm về tự học Hiểu theo cách thông thường, tự học là tự mình thực hiện việc học. Theo Nguyễn Cảnh Toàn và một số tác giả khác thì tự học được hiểu ở nhiều bình diện khác nhau, cụ thể: - “Tự học là vận dụng kiến thức cũ, kĩ năng cũ để trở thành phương tiện củng cố kiến thức mới, kĩ năng mới thành thạo. Nghĩa là phải tư duy để đi từ kiến thức cũ đến kiến thức mới”. [31, tr152] - “Tự học là biết cách tập làm các thao tác tư duy để rèn luyện tư duy, biết tự phê bình và sửa chữa để phấn đấu nâng cao các phẩm chất, tự mình chiếm lĩnh kiến thức, tự mình phát triển kiến thức”. [31, tr.153] - Tự học là quá trình cá nhân chủ động tiến hành hoạt động nhận thức có hệ thống để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại và biến lĩnh vực đó thành sở hữu của riêng mình. Cốt lõi của hoạt động học là tự học, học bằng hình thức nào muốn thành công cũng phải tự học, không ai học hộ mình cả. [30] - Còn Võ Quang Phúc lại xem xét tự học trong quan hệ với dạy học nên cho rằng: “Tự học là một bộ phận của học, nó cũng được tạo thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ thống tương tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ảnh rõ những nhu cầu bức xúc về học tập của người học, phản ảnh tính tự giác và sự nỗ lực của người học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt kết quả nhất định trong hoàn cảnh nhất định với một nội dung học tập nhất định”. [23] Qua các quan niệm về tự học đã nêu trên, theo chúng tôi tự học là tự giác, tích cực, độc lập và tự chủ cao trong việc chiếm lĩnh kiến thức khoa học và hình thành nhân cách cho bản thân.
  10. Như vậy, quá trình tự học là quá trình kết hợp sự nỗ lực của người học, chủ yếu là nỗ lực tư duy với sự tranh thủ tận dụng, khai thác của người học đối với những nguồn lực ngoài. 1.2.2. Các dạng tự học Hoạt động tự học được coi là hoạt động tự tổ chức để chiếm lĩnh những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Nếu xem xét tự học trong mối quan hệ với hoạt động dạy học hay nói cách khác diễn ra trong quan hệ với GV, thì tự học được phân thành các dạng sau: - Tự học không có thầy là hình thức tự học mò mẫm của cá nhân trong lao động, hoạt động hàng ngày thông qua quá trình thử và sai, bằng sự trải nghiệm chính cuộc sống của mình mà cá nhân tích lũy được những hiểu biết, kinh nghiệm, kĩ năng,… - Tự học có thầy hướng dẫn là hình thức tự học của tất cả HS, sinh viên hiện nay. Đây là dạng tự học trong hoạt động dạy học. Người học thực hiện tự học dưới sự định hướng, can thiệp của GV. Hình thức tự học này có thể diễn ra theo hai dạng, đó là tự học giáp mặt thầy và tự học không giáp mặt thầy. • Tự học giáp mặt thầy là hình thức tự học mà mỗi ngày HS có vài tiết học ở trên lớp với thầy giáo. Tự học giáp mặt thầy có thể diễn ra ở trên lớp và ngoài lớp. Ví dụ, học sinh giải bài tập, thảo luận nhóm để hoàn thành nhiệm vụ tự học mà GV giao cho ở trên lớp. Hoặc, học sinh làm bài tập về nhà, đọc trước tài liệu phục vụ cho bài học ở trên lớp,… • Tự học không giáp mặt thầy là hình thức tự học mà HS chỉ gặp thầy mấy tuần vào những đợt ấn định trong năm để nhận sự định hướng, gợi ý, giải đáp thắc mắc, còn lại, HS tự học với giáo trình và tài liệu hướng dẫn tự học dưới dạng tài liệu in hay tài liệu điện tử. Ví dụ, đào tạo từ xa, dạy học không trường, dạy học trực tuyến.
  11. - Tự học không cần thầy hay còn gọi là tự học bậc cao là hình thức tự học mà người học đã có một trình độ nhất định để có thể tự tổ chức việc học của mình mà không cần thầy hướng dẫn. Ví dụ, tự học của những nhà khoa học, nhà văn,… Do mục đích và phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ đề cập đến dạng tự học trong hoạt động dạy học và ở phạm vi tự học giáp mặt với thầy. 1.2.3. Tính chất của tự học Tự học có mặt thầy hay không có mặt thầy đều có những đặc điểm hay còn có tính chất như sau: - Tính tự giác, tích cực cao, thể hiện ở việc HS tiếp nhận các nhiệm vụ học tập của thầy, của nhóm học tập giao cho một cách tự nguyện, tìm tòi phương pháp, phương tiện và điều kiện để thực hiện nhiệm vụ học tập, tiến hành các thao tác tư duy để giải quyết nhiệm vụ học tập, huy động kiến thức, vốn sống đã có để giải thích kiến thức mới. - Tính độc lập, tính tự chủ cao, thể hiện ở việc không dựa dẫm, không ỉ lại người khác trong quá trình giải quyết nhiệm vụ học tập. Luôn tự mình tìm tòi các phương án khác nhau để giải quyết nhiệm vụ học tập. Tự đưa ra quyết định và tự chịu trách nhiệm về phương án giải quyết mà mình đã đưa ra. - Nỗ lực ý chí cao, thể hiện ở chỗ học sinh vượt qua những khó khăn khi giải quyết nhiệm vụ học tập. Những khó khăn từ bên trong như thiếu hụt kiến thức, kĩ năng, phương pháp học hay động cơ học tập chưa cao. Những khó khăn bên ngoài như thiếu thời gian, tài liệu học tập,…Người học phải khắc phục khó khăn để theo đuổi việc học đến cùng và đạt được mục đích học đã đề ra. - Tự kiểm tra, tự điều chỉnh cao, tức là tự kiểm tra phương án giải quyết nhiệm vụ học tập, kiểm tra phương pháp, phương tiện từ đó điều chỉnh phương án, lựa chọn lại phương pháp, phương tiện và các điều kiện giải quyết
  12. nhiệm vụ học tập. Từ những tính chất của tự học đã trình bày ở trên, chúng ta thấy tự học là bộ phận nòng cốt của học nhưng không phải bất cứ việc học nào cũng là tự học nếu việc học mang tính thụ động, áp đặt, bị bắt buộc. Tự học bao gồm cả học tích cực. Nhưng học tập tích cực chưa hẳn là tự học vì nếu người học không tích cực đến cùng. Vậy là phân biệt giữa tự học với học tích cực là tính độc lập, tính tự chủ của việc học. Tự học của học sinh THPT cũng mang tất cả những đặc điểm của tự học nêu trên và học sinh THPT có đầy đủ điều kiện để thực hiện các yêu cầu của tự học. Vì học sinh THPT đã có vốn kiến thức, kĩ năng nhất định; có phương pháp và phong cách học tập được hình thành từ các bậc học trước đó. Tư duy trừu tượng, tư duy bằng khái niệm ở học sinh THPT phát triển, các thao tác tư duy ở các em cũng đã được rèn luyện trong quá trình học tập ở các bậc học trước đó. Học sinh THPT có động cơ học tập cao, đó là thi đậu đại học hoặc cao đẳng để lập nghiệp. Về thể chất, các cơ quan, các hệ cơ, hệ xương đều phát triển, chiều cao, cân nặng của các em đều đã đạt đến mức nhất định. Tất cả những điều kiện về thể chất, tinh thần, trí tuệ của học sinh THPT cho phép học sinh tham gia hoạt động học tập và hoạt động tự học. Dạy học phát huy khả năng tự học thì dạy phải thúc đẩy học, dạy phải phát huy tính độc lập, tính chủ động, tự chủ trong học tập của học sinh. 1.2.4. Quan hệ giữa tự học và dạy học Hoạt động dạy học là một hoạt động kép gồm hoạt động dạy do thầy đảm nhận và hoạt động học do HS đảm nhận. Hoạt động dạy của thầy giữ vai trò chủ đạo, còn hoạt động học của HS giữ vị trí chủ động. Vai trò chủ đạo của thầy thể hiện ở các bình diện như:
  13. - Định hướng, kích thích hình thành động cơ học tập ở HS bằng cách làm cho HS hiểu rõ ý nghĩa của việc học, của môn học đối với bản thân, với cuộc sống, với nghề nghiệp tương lai. Từ đó, HS tự giác, tích cực học tập bởi việc học được xuất phát từ động cơ đúng đắn, từ động lực bên trong – học vì sự phát triển của bản thân, học vì chất lượng cuộc sống, học vì lập nghiệp trong tương lai. - Tổ chức hoạt động học tập của HS một cách sinh động, tích cực và hiệu quả. Thầy xây dựng các tình huống học tập vừa sức với học sinh, đặt HS vào các tình huống học tập, gợi ý các phương hướng, các điều kiện giải quyết tình huống, tạo điều kiện để HS tích cực giải quyết tình huống, qua đó lĩnh hội được kiến thức và phương pháp tìm ra kiến thức. - Giúp đỡ, hỗ trợ HS trong quá trình tự lực giải quyết tình huống học tập. Trong quá trình học sinh tự lực giải quyết các nhiệm vụ học tập bằng phương pháp tự học của mình, các em luôn gặp rất nhiều khó khăn từ bên trong như động cơ học chưa đủ mạnh, kiến thức, kĩ năng nền bị hổng,… và bên ngoài như thời gian tự học, tài liệu tham khảo thiếu,… điều này khiến HS chán nản và từ bỏ việc tự học. Vì thế, GV luôn phải phát hiện kịp thời những khó khăn mà HS đang phải đối mặt và có những giúp đỡ kịp thời, hợp lí. Ví dụ như giúp HS sử dụng thời gian tự học hợp lí; tiếp cận lại một khái niệm công cụ; cung cấp thêm nguồn tài nguyên,…. - Kiểm tra, điều chỉnh và xác nhận kết quả học tập của học sinh. GV dùng câu hỏi, bài tập, tình huống để kiểm tra mức độ lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo ở HS. Qua kết quả trả lời, giải bài tập, giải quyết tình huống mà GV xác nhận kết quả học tập của HS hay điều chỉnh việc dạy của mình và học sinh điều chỉnh việc học của mình. Phân tích vai trò chủ đạo của GV, chúng ta thấy GV không phải là người mang tri thức đến cho HS mà là người tổ chức cho HS tự mình tìm ra
  14. tri thức. GV là người tạo ra môi trường học tập để HS hoạt động và qua đó lĩnh hội được tri thức, kĩ năng và nhiều giá trị khác. Theo Nguyễn Kỳ: “Dạy học là hướng dẫn, hỗ trợ, khuyến khích người học xử lý, biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong con người. Dạy học là khuyến khích học. Dạy học là tri thức hóa con người”. [16] Quản lí hoạt động dạy học phát huy khả năng tự học của HS không phải chỉ quản lí mục tiêu, nội dung chương trình mà chủ yếu quản lí hoạt động lên lớp của giáo viên, đặc biệt quản lí phương pháp giảng dạy của giáo viên ở trên lớp để kích thích và phát triển khả năng tự học của HS. 1.2.5. Ý nghĩa của tự học - Tự học là một xu thế tất yếu trong nhà trường hiện đại. Trong xu thế toàn cầu hóa, khoa học công phát triển, thông tin bùng nổ thì tri thức trong nhà trường luôn rơi vào tình trạng “tụt hậu” và kém phong phú hơn rất nhiều so với tri thức mà học sinh tiếp thu từ cuộc sống và gia đình. Trong bối cảnh ấy, nếu người học lệ thuộc hoàn toàn vào nhà trường thì sẽ trở thành con người lạc hậu, bị động không theo kịp sự phát triển của xã hội hiện đại. Đối với học sinh THPT, quỹ thời gian 3 năm được đào tạo ở bậc trung học phổ thông ngắn ngủi ấy chắc chắn không thể nào đáp ứng khối lượng kiến thức khổng lồ trong nội dung, chương trình đào tạo. Với quỹ thời gian hiện có, nếu HS chỉ học theo khuôn khổ thời gian quy định trên lớp, chắc chắn chất lượng đào tạo sẽ rất thấp, không thể đáp ứng mục tiêu đào tạo của trường THPT. Vì thế, tự học là một giải pháp khoa học để giải quyết mâu thuẩn giữa khối lượng kiến thức đồ sộ với quỹ thời gian ít ỏi ở nhà trường. - Tự học đáp ứng yêu cầu giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong một xã hội công nghiệp và hiện đại, nhu cầu học tập của mọi thành viên trong xã hội ngày một tăng cao, mọi người muốn học để biết, để làm và sống tốt hơn, để tự khẳng định mình và để hòa nhập được với cộng đồng ngày
  15. càng văn minh, tiến bộ. Nếu không có khả năng tự học, tự nghiên cứu thì khi tốt nghiệp bậc THPT, các em làm sao có thể đáp ứng yêu cầu của xã hội, tiếp tục học cao hơn nữa, học thường xuyên, học suốt đời. Đây chính là sự phát huy “nội lực” trong GD – ĐT ở nước ta. - Tự học nâng cao kết quả học tập của học sinh và chất lượng giáo dục, dạy học của nhà trường. Khi có ý thức tự học, các em sẽ có hoạt động tự học phù hợp với khả năng của mình, biết cách xây dựng thời gian tự học, tự nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu, gắn lý thuyết với thực hành, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Điều này hoàn toàn phù hợp với khả năng của học sinh THP. Bởi vì, trước khi vào trường trung học phổ thông, học sinh đã trải qua 9 năm học tập có thầy và tự học với các nguồn tài liệu, tự học trong cuộc sống. Vốn kiến thức khoa học phổ thông cơ bản trong 9 năm đó đủ để làm cơ sở cho HS học ở những bậc cao hơn, đặc biệt là bậc THPT. Mặt khác, nhờ có vốn kinh nghiệm học tập được tích lũy sau một thời gian dài nên HS có thể tự học, tự nghiên cứu với sự hướng dẫn của GV. Tự học thể hiện sự đổi mới PPDH ở các trường phổ thông. Gần đây, mặc dù có nhiều ý kiến tranh luận xung quanh vấn đề “đổi mới phương pháp dạy học” nhưng hầu hết đều thống nhất rằng: đã đến lúc cần phải chấm dứt lối dạy “nhồi nhét” trong các nhà trường. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa người học thực chất là phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động của người học trong việc lĩnh hội tri thức khoa học. Chỉ với sự nỗ lực của bản thân thì kiến thức thu được mới bền vững và sinh động. Và đó là những kiến thức cơ bản, nền tản giúp cho HS vững bước trên con đường học tập nâng cao sau này. Tóm lại, tự học là con đường phát triển phù hợp quy luật tiến hóa của nhân loại và là biện pháp sư phạm đúng đắn cần được phát huy ở các trường
  16. phổ thông. Hoạt động tự học của học sinh THPT có vai trò hết sức quan trọng đối với yêu cầu đổi mới GD - ĐT, nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường phổ thông. 1.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến tự học của học sinh Xem xét tự học của học sinh THPT trong hoạt động dạy học, và tự học là một thành phần của học, một yếu tố của dạy học (như đã phân tích ở trên) thì tự học cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc cấu trúc hoạt động tự học như nội dung, người học, người dạy và môi trường. Trong các yếu tố trên thì yếu tố người học và người dạy là hai yếu tố chính. a. Yếu tố người học Người học bao gồm trong nó rất nhiều yếu tố bộ phận như động cơ, mục đích, hứng thú học, tri thức, kĩ năng vốn sống,… • Động cơ, mục đích học Động cơ là cái thôi thúc con người hoạt động, nó không phải là cái trừu tượng mà được cụ thể hoá trong mục đích của hoạt động. Động cơ học qui định đường hướng học, cách thức học. Có rất nhiều động cơ học như học để đạt điểm cao, học để có học bổng, học vì báo đáp công ơn của cha mẹ, học để mở rộng kiến thức, phát triển nhân cách, học để lập nghiệp trong tưong lai,…Tùy vào động cơ học mà học sinh sẽ chọn phương pháp, phương tiện và các điều kiện học tương ứng. Ví dụ, nếu động cơ học để mở rộng hiểu biết, phát triển chính mình thì việc học sẽ được thực hiện với sự tự giác, tích cực độc lập cao, học ở mọi lúc, mọi nơi với mọi đối tượng, kiến thức tiếp thu được đào sâu, được phát triển và ứng dụng phong phú. Khi học sinh có động cơ học tập đúng đắn, các em sẽ chủ động, tích cực trong học tập, nỗ lực ý chí vượt qua khó khăn để theo đuổi việc học và tự học đến cùng đạt được mục đích học đã đề ra.
  17. Động cơ, mục đích học của học sinh liên quan đến việc nhận thức ý nghĩa của việc học, môn học, bài học, liên quan đến phạm vi kiến thức và phương pháp lĩnh hội kiến thức. Do đó, hình thành động cơ học cho HS, GV bằng phương pháp sư phạm của mình làm cho HS nhận thức được ý nghĩa của việc học, môn học, bài học đối với cuộc sống, cá nhân và nghề nghiệp tương lai của HS; làm rõ nội dung kiến thức cần lĩnh hội và phương pháp lĩnh hội, hướng kiểm tra và đánh giá. • Kiến thức, phương pháp học của HS - Tri thức, kĩ năng và phương pháp học đã được hình thành trước đó là những điều kiện bên trong không thể thiếu cho tự học ở HS. Tuy nhiên, tri thức, kĩ năng mà HS lĩnh hội phải chính xác, hệ thống và vững chắc mới trở thành kiến thức nền tản cho tự học. Song kiến thức HS lĩnh hội rất nhiều trong khoảng thời gian ngắn nên đôi khi kiến thức trở nên thiếu tính vững chắc trong vốn hiểu biết của HS. Có những khái niệm cơ bản mà HS lĩnh hội chưa đúng với bản chất nên không trở thành khái niệm công cụ để lĩnh hội khái niệm mới. Cũng có những HS có kiến thức vững vàng, có thể tiếp nhận tri thức mới một cách nhanh chóng, nhưng trong số đó có em thường hay chủ quan, tự cao, tự học vì thế có phần nào hạn chế. - Phương pháp học, phong cách học đã hình thành ở học sinh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tự học và kết quả tự học của HS. Vì tự học là hoàn toàn tự giác, lại bị nhiều hoàn cảnh khách quan chi phối, do vậy dễ tùy tiện, tùy hứng. Và có lẽ từ trước đến nay, HS đã quen với việc học có sự giúp đỡ của GV, các em tiếp nhận nhiệm vụ và kế hoạch học tập một cách thụ động, không tự mình lựa chọn phương pháp, phương tiện, hình thức học tập phù hợp với yêu cầu học tập và điều kiện học tập của bản thân. Nhiều HS còn học theo kiểu đối phó, được lúc nào đỡ lúc ấy. Như vậy, tự học muốn có kết quả thì HS cần có một nền tản học vấn nhất định, phương pháp học tích cực.
  18. b. Nội dung môn học Nói chung chương trình môn học được lựa chọn từ khoa học tương ứng và được sắp xếp theo logic sư phạm của từng cấp học, bậc học. Và những kiến thức đó là đối tượng lĩnh hội của học sinh trong quá trình học tập và tự học. Nội dung môn học chủ yếu được thể hiện trong sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, trong các nguồn thông tin khác. Nội dung môn học được mở đầu ở giáo viên và kết thúc ở học sinh. Nội dung môn học không chỉ là một hệ thống tri thức mà ẩn chứa trong nó là cách thức hành động, cách thức tiếp cận. Nội dung môn học hàm chứa tính mới mẻ, tính tiện ích nên bao giờ nó cũng hấp dẫn, lôi cuốn người học. Tuy nhiên tính mới mẻ, tính tiện ích ẩn chứa bên trong mà người học khó mà phát hiện ra và nhận thức được, thường phải nhờ đến khả năng, phương pháp sư phạm của giáo viên rút tỉa, làm lộ ra và giúp học sinh nhận thức được tính mới mẻ, tính giá trị của tri thức, kĩ năng trong môn học. Nếu nội dung môn học gắn với thực tiễn cuộc sống, với vốn sống của học sinh và đặc biệt được thiết kế dưới dạng tình huống có vấn đề nó sẽ tác động rất lớn đến hứng thú học tập, lòng say mê tìm tòi khám phá từ đó kích thích khả năng tự học ở HS. c. Giáo viên Giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy. Giáo viên can thiệp đến tất cả các yếu tố khác của hoạt động dạy học. Cụ thể: - Đối với nội dung, GV lựa chọn và thiết kế nội dung trở nên hấp dẫn và có ý nghĩa đối với HS, nhờ vậy mà HS hứng thú và tích cực nghiên cứu nội dung môn học. - Đối với HS, GV kích thích hứng thú, hình thành động cơ học đúng đắn, tổ chức môi trường học tập tích cực, giúp đỡ và hợp tác với HS trong quá trình tự học.
  19. - Đối với môi trường, GV gợi ý, tạo điều kiện cho HS huy động, khai thác và sử dụng hiệu quả các yếu tố của môi trường trong quá trình tự học, Tóm lại, GV là yếu tố tác động kép đến khả năng tự học của HS. Để thực hiện được chức năng trên, giáo viên cần có phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề, say mê với môn dạy, có kiến thức chuyên ngành và kiến thức về con người và giáo dục con người, có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực PPDH và lựa chọn, sử dụng hiệu quả các PPDH trong các tình huống dạy học ở trên lớp. Kinh nghiệm tự học của GV cũng ảnh hưởng đến hoạt động tự học của HS. Trong các yếu tố của hoạt động dạy, PPDH của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tự học của học sinh. Tuy nhiên, muốn thực hiện đổi mới PPDH có hiệu quả, nhà quản lý còn phải chú trọng đến các vấn đề khác như phương tiện kỹ thuật, CSVC, môi trường dạy học, chương trình đào tạo…trong đó, việc kiểm tra đánh giá của GV đối với học sinh cũng là một yếu tố tác động rất quan trọng đến tự học của học sinh. d. Môi trường và điều kiện học tập Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Tính cách con người nói chung và người học sinh nói riêng không chỉ do ảnh hưởng của giáo dục ở nhà trường phổ thông mà còn do ảnh hưởng của môi trường xã hội. Giáo dục gia đình là hạt nhân cơ bản hình thành tính cách người học ngay từ thuở ấu thơ. Sự giáo dục trong gia đình, tấm gương học tập của bố mẹ, anh chị, phong trào học tập trong trường, lớp là nhân tố cơ bản định hướng cho sự phấn đấu đi lên trong học tập, giúp các em hình thành ý thức tự học. Bên cạnh yếu tố môi trường tinh thần đã nói ở trên thì điều kiện cơ sở vật chất như phòng học, bàn ghế, thiết bị kĩ thuật dạy học, tài liệu tham khảo,… cũng có ảnh hưởng đến tự học của học sinh. Ví dụ, các em muốn thảo luận nhóm về nhiệm vụ tự học GV giao nhưng không có phòng học dành cho tự học, tài liệu tham khảo thiếu thốn đều làm cho các em mất hứng thú tự học
  20. hoặc tự học kém hiệu quả. Chính phương tiện, thiết bị kĩ thuật dạy học kích thích hứng thú nhận thức, năng lực quan sát, năng lực phân tích tổng hợp của học sinh, giúp người học phát huy khả năng tự học, kích thích học sinh tự tìm tòi, học hỏi. Thư viện trường học, phòng thí nghiệm, sách báo, tài liệu tham khảo, các phương tiện thông tin, truyền thông về văn hóa, khoa học được phổ biến phong phú, đa dạng nếu biết khai thác và sử dụng sẽ đem lại vốn tri thức quý báu, giúp cải thiện phương pháp học tập và tự học cho các em. 1.3. Quản lí hoạt động tự học 1.3.1. Quản lí giáo dục a. Khái niệm Quản lý giáo dục là là việc thực hiện và giám sát những chính sách giáo dục, đào tạo trên cấp độ quốc gia, vùng, địa phương và cơ sở. [33] Quản lí hệ thống GD có thể xác định là tác động của hệ thống có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lí ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những qui luật chung của xã hội cũng như các qui luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lí trẻ. [15] Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích có kế hoạch của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lí giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất. [26] Theo nghĩa rộng, QLGD là hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm đẩy mạnh công tác GD – ĐT thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2