intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng trường trung học cơ sở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:121

92
lượt xem
20
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng trường trung học cơ sở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xác định thực trạng việc kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng trường THCS quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý của hiệu trưởng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng trường trung học cơ sở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Lê Hương LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Lê Hương Chuyên ngành : Quản lý giáo dục Mã số : 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
  3. LỜI CẢM ƠN Chúng tôi xin chân thành cảm ơn: - Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, phòng Sau Đại học và các phòng chức năng liên quan; các thầy cô khoa Tâm lý Giáo dục của trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi học tập và nghiên cứu; - Ban lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo Cần Thơ, Phòng Giáo dục và Đào tạo quận Ninh Kiều, quý thầy cô Ban giám hiệu, tập thể giáo viên, học sinh, quý vị phụ huynh học sinh các trường THCS Đoàn Thị Điểm, THCS Tân An, THCS Lương Thế Vinh, THCS Thới Bình, THCS Trần Ngọc Quế, và THCS An Hòa 1 đã tạo điều kiện, hỗ trợ và cung cấp các thông tin, tài liệu nghiên cứu luận văn cho chúng tôi; - Bạn bè, gia đình và những người đã giúp đỡ tác giả thực hiện luận văn; - Đặc biệt, xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Cô, TS Nguyễn Thị Bích Hồng, đã dành nhiều thời gian, công sức tận tình hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn này. Tác giả, Nguyễn Lê Hương
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX khẳng định mục tiêu tổng quát chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001- 2010 là “đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2010 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa ”. Để đạt được mục tiêu đó thì vai trò của giáo dục và khoa học công nghệ là quyết định và nhu cầu phát triển giáo dục là rất bức thiết. Mới đây, phó thủ tướng, bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Nguyễn Thiện Nhân cũng đã triển khai các giải pháp mang tính đột phá giai đoạn 2007 – 2010, trong đó nhấn mạnh đến việc chăm lo đầu tư phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục và đào tạo, phân cấp và quản lý theo tiêu chí chất lượng. Như vậy công tác quản lý đóng một vai trò không nhỏ trong việc thực hiện mục tiêu chiến lược là phát triển giáo dục ở nước ta. Quản lý là một công tác không thể thiếu trong bất kỳ lĩnh vực nào vì chính nó quyết định sự thành công và việc đạt được mục tiêu của một tổ chức. Quản lý là một chu trình bao gồm các bước căn bản là: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá và điều chỉnh. Kiểm tra là một mắt xích trong chu trình đó. Quản lý mà buông lỏng kiểm tra sẽ ảnh hưởng tiêu cực cho hoạt động chung của toàn đơn vị, đồng thời cũng thể hiện sự yếu kém về năng lực của nhà quản lý. Trong quản lý giáo dục, việc quản lý hoạt động dạy của thầy và học của trò là một trong những nội dung thiết yếu. Thông qua kiểm tra hoạt động sư phạm sẽ giúp hiệu trưởng có được những thông tin quan trọng về năng lực sư phạm, trình độ chuyên môn, tư cách đạo đức của giáo viên cùng chất lượng học tập, tình hình học sinh của đơn vị mà mình đang quản lý, từ đó người hiệu trưởng sẽ có kế hoạch điều chỉnh kịp thời và hợp lý nhằm đưa đơn vị mình đi vào hoạt động một cách ổn định và phát triển hơn. Trong giai đoạn hiện nay của đất nước, ngành giáo dục đang thực hiện việc đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy - học theo hướng tích cực “lấy người học làm trung tâm” và đổi mới sách giáo khoa - giáo trình. Đồng thời các nhà
  5. quản lý giáo dục đang tập trung nâng cao năng lực quản lý mà trong đó chú trọng đến công tác kiểm tra hoạt động dạy học nhằm nắm được thực trạng chất lượng học sinh hiện nay trong nhà trường, tìm nguyên nhân để khắc phục “căn bệnh thành tích”, xóa bỏ hiện tượng ngồi nhầm lớp của học sinh. Đồng thời qua đó các nhà quản lý cũng đánh giá được năng lực sư phạm của đội ngũ giáo viên để có biện pháp nâng cao tay nghề, chuẩn hóa cho đội ngũ này và từng bước đưa đơn vị mình đạt được các mục tiêu đã đề ra. Hiện nay, công tác kiểm tra hoạt động dạy học ở các cấp học của Cần Thơ nói chung và quận Ninh Kiều nói riêng, đang được các cấp lãnh đạo quan tâm chỉ đạo thực hiện theo tinh thần đổi mới. Việc đổi mới cơ chế và phương thức quản lý giáo dục theo hướng phân cấp hợp lý là nhằm phát huy được tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các trường. Thông qua công tác kiểm tra đánh giá bằng các biện pháp quản lý chặt chẽ sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục, đạt được các mục tiêu mà ngành đã đề ra. Trong các báo cáo tổng kết hàng năm về công tác thanh - kiểm tra, Phòng GD&ĐT quận Ninh Kiều đã chỉ ra những hạn chế như vẫn có nơi chưa thực sự thấy rõ tầm quan trọng của công tác kiểm tra nội bộ trường học nên còn buông lơi việc kiểm tra, hoặc kiểm tra đánh giá chung chung, chiếu lệ... Có những nơi còn chạy theo thành tích đã làm thay đổi kết quả, che đậy những yếu kém, tô hồng thành tích. Điều đó đã cho thấy chất lượng thực chất của việc dạy và học ở một số trường chưa được khả quan. Bên cạnh đó hoạt động này vẫn chưa được thống nhất đồng đều theo một tiêu chí chung cho tất cả các trường nên chưa có sự “đều tay” khi đánh giá chất lượng giáo dục ở mỗi trường. Chính vì vậy cần có nhận thức đúng đắn về vị trí và tầm quan trọng của việc kiểm tra đánh giá hoạt động dạy học, có những giải pháp khắc phục các nhược điểm nhằm làm cho công tác này được thuận lợi, có tác dụng thiết thực và đạt hiệu quả hơn. Việc kiểm tra hoạt động dạy học là một vấn đề được nhiều người quan tâm vì đây là một trong những công tác chính trong hoạt động của nhà trường. Đã có nhiều
  6. đề tài nghiên cứu về công tác này ở các cấp học, các địa phương, nhưng đối với quận Ninh Kiều thì vấn đề này còn hoàn toàn mới mẻ. Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Thực trạng kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng trường THCS quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ” với hy vọng đóng góp cho việc đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục của địa phương. 2. Mục đích nghiên cứu Xác định thực trạng việc kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng trường THCS quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý của hiệu trưởng. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Công tác quản lý của hiệu trưởng trường trung học cơ sở quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Công tác kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng trường trung học cơ sở quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ. 4. Giả thuyết khoa học Theo nhìn nhận của tác giả, việc kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng trường trung học cơ sở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ nhìn chung đang có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế như việc lập kế hoạch kiểm tra còn chung chung, chưa cụ thể và kiểm tra còn nặng tính hình thức, thiếu hiệu quả. Nguyên nhân của các hạn chế này có thể là do các nhà quản lý trường học còn quản lý theo “kinh nghiệm”, chưa nhận thức đúng rằng kiểm tra là một chức năng chính của quản lý chứ không phải là biện pháp hỗ trợ cho quản lý. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Phân tích cơ sở lý luận về công tác kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng các trường trung học cơ sở .
  7. 5.2. Khảo sát thực trạng việc kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng trường trung học cơ sở quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, từ đó làm rõ nguyên nhân của thực trạng này. 5.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra hoạt động dạy học ở các trường THCS quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp luận - Dựa trên quan điểm lịch sử để tìm hiểu sự phát triển và quy luật của vấn đề. - Dựa trên quan điểm hệ thống cấu trúc để làm rõ cơ sở lý luận của đề tài. - Dựa trên quan điểm thực tiễn để làm rõ thực trạng mà đề tài đề cập đến. 6.2. Phương pháp nghiên cứu 6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết (phân tích và tổng hợp lý thuyết): tham khảo các tài liệu, văn bản của Nhà Nước, của ngành; các quy chế, điều lệ có liên quan làm cơ sở lý luận cho đề tài. 6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Quan sát sư phạm: dự giờ, dự họp tổ chuyên môn, đánh giá thi đua,... - Điều tra giáo dục: trưng cầu ý kiến, điều tra bằng phiếu (bảng hỏi dành cho hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn, giáo viên, học sinh). - Phỏng vấn, trò chuyện để khảo sát nguyên nhân, tham khảo giải pháp. 6.2.3. Phương pháp thống kê: xử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu kết quả điều tra. 7. Giới hạn của đề tài Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu công tác kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của hiệu trưởng ở 6/10 trường THCS, cụ thể là các trường: Đoàn Thị Điểm, Lương Thế Vinh, Tân An, Trần Ngọc Quế, Thới Bình, và An Hòa 1; không nghiên cứu các hoạt động khác ở những trường này.
  8. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC KIỂM TRA HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TRÊN LỚP CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG THCS 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Sơ lược tình hình nghiên cứu liên quan đến việc kiểm tra trong quản lý và hoạt động dạy học trên thế giới 1.1.1.1. Trong hoạt động quản lý Hoạt động quản lý là một hoạt động lâu đời nhưng lý thuyết về khoa học quản lý lại mới xuất hiện trong xã hội hiện đại. Cho đến cuối thế kỷ 19, các nghiên cứu và lý thuyết về khoa học quản lý còn rất mờ nhạt, chưa có một công trình tổng hợp nào về nguyên tắc và kỹ thuật quản lý một cách đầy đủ. Trong giai đoạn này, nhiều nhà nghiên cứu đã đã khái quát được các chức năng quản lý mà kiểm tra là một trong những chức năng đó: - F.W.Taylor là một trong những người đầu tiên đã đặt nền tảng cho các lý thuyết quản lý hành chính, như: sự phân biệt rõ quyền hành và trách nhiệm, phân biệt giữa hoạch định và hoạt động cụ thể, tổ chức các bộ phận chức năng, sử dụng tiêu chuẩn để kiểm tra. Năm 1911, với tác phẩm “Các nguyên tắc quản lý một cách khoa học”, ông đã đưa ra “hệ thống giám sát theo chức năng” để áp dụng vào quá trình điều hành của nhà quản trị trong sản xuất. Quan điểm của ông chỉ xem kiểm tra như một biện pháp của quyền lực để giúp cho các quản đốc “điều hành tiến độ sản xuất, theo dõi thời gian và thao tác, duy trì kỷ luật” [12, tr.44] - Bằng các nghiên cứu thực tiễn và lý luận, Henrry Fayol đã đưa ra các nguyên tắc quản lý, qua đó ông nhấn mạnh rằng để thành công các nhà quản lý cần hiểu rõ các chức năng quản lý cơ bản như hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra. Tuy nhiên ông không bàn sâu vào các chức năng này (trong đó có việc kiểm tra) mà chỉ tập trung cho việc áp dụng các nguyên tắc quản lý nhất định. Kiểm tra trong hoạt động quản lý đã được nhiều tác giả sau này nghiên cứu chuyên sâu hơn, đầy đủ các vấn đề hơn. Trong các công trình nghiên cứu về lý
  9. thuyết khoa học quản lý, các tác giả đều đã có hẳn những chương mục rõ ràng bàn về mọi khía cạnh của vấn đề kiểm tra trong quản lý hoặc có những nghiên cứu riêng về kiểm tra trong quản lý, như Robert J. Mockler với tác phẩm “Diễn trình kiểm tra quản trị” (The Management Control Process). Trong đó tác giả đã đưa ra khái niệm: “Kiểm tra là một nỗ lực có hệ thống phản hồi thông tin, nhằm so sánh những thành tựu thực hiện với định mức đã đề ra và để bảo đảm rằng những nguồn lực đã và đang được sử dụng có hiệu quả nhất, để đạt mục tiêu của đơn vị” [12, tr.287]. Các tác giả Harold Koontz, Cyril O’Donnell, Heinz Weihrich trong tác phẩm “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” đã đưa ra những vấn đề sau: - Mục đích kiểm tra nhằm “đo lường và chấn chỉnh sự hoạt động các bộ phận cấp dưới để tin chắc rằng các mục tiêu và các kế hoạch để đạt mục tiêu này đã và đang được hoàn thành”. [24, tr. 541] - Quá trình kiểm tra cơ bản: xây dựng các tiêu chuẩn, đo lường việc thực hiện, điều chỉnh sai lệch. - Phân cấp trong kiểm tra: việc kiểm tra còn thay đổi theo từng cấp bậc của các nhà quản lý và họ phải có trách nhiệm đối với việc thực thi các kế hoạch. Công việc kiểm tra cần phải được thiết kế theo các kế hoạch, các chức vụ, theo cá nhân các nhà quản lý và theo cá tính của họ - Nguyên tắc: khi kiểm tra cần vạch rõ những chỗ khác biệt tại các điểm thiết yếu; kiểm tra cần phải khách quan, linh hoạt phù hợp với bầu không khí của tổ chức, phải tiết kiệm và phải dẫn đến tác động điều chỉnh. - Văn hóa kiểm tra: phương Đông chú trọng đến hình thức tự kiểm tra, mang tính giúp đỡ nhau sửa chữa khuyết điểm, hoàn thành công việc tập thể trong khi phương Tây và Bắc Mỹ lại chú trọng đến việc bộ phận này kiểm tra bộ phận khác nhằm đảm bảo công việc đạt được mục tiêu của tổ chức và đánh giá cá nhân. Trong hoạt động chính trị, nhiều nhà lãnh đạo cũng đã xem công tác kiểm tra như một công cụ để đảm bảo cho việc “giữ gìn kỷ cương, phát huy sức mạnh của nhà nước, chỉnh đốn lại công việc” (V.I.Lênin). Trong bài báo cáo tổng kết của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản (B) toàn Liên Xô tại Đại hội Đảng lần XVII,
  10. năm 1934, Xtalin đã nhắc đến tầm quan trọng của công tác kiểm tra: “Tổ chức tốt công tác kiểm tra việc chấp hành, đó là một ngọn đèn pha cho phép bất kỳ lúc nào soi sáng được tình hình hoạt động của bộ máy (...) Ta có thể nói chắc rằng chín phần mười những khuyết điểm và thiếu sót của chúng ta đều là do thiếu tổ chức đúng đắn công tác kiểm tra việc chấp hành mà ra ”. Như vậy, các lý thuyết về vấn đề kiểm tra trong quản lý ngay từ đầu đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu, từ đơn giản chỉ ra đó là một chức năng trong quản lý đến chuyên môn hóa thành một lý thuyết chung về kiểm tra. Các lý thuyết đó theo những quan điểm khác nhau nhưng tựu chung lại vẫn thống nhất rằng kiểm tra là chức năng không thể thiếu của nhà quản lý mà nhờ có nó có thể đạt được hiệu quả cao trong điều hành công việc chung. Tất cả các lý thuyết này đều được các nhà quản lý lựa chọn để áp dụng vào công tác chuyên môn riêng của mình. 1.1.1.2. Trong hoạt động giáo dục Những lý thuyết nền tảng về khoa học quản lý đã giúp cho các nhà giáo dục học xây dựng nên lý thuyết khoa học về quản lý giáo dục, đồng thời tạo tiền đề thuận lợi cho việc nghiên cứu hoạt động kiểm tra trong nhà trường. Trong các công trình nghiên cứu đó, các tác giả cũng đều khẳng định kiểm tra là một chức năng cơ bản của công tác quản lý nhà trường. Có nhiều quan điểm khác nhau về kiểm tra hoạt động dạy học như: - Kiểm tra để đánh giá theo mục tiêu dạy học, theo tiêu chí hay hướng vào mục đích yêu cầu của chương trình giảng dạy là phổ biến và giữ vai trò chủ đạo so với cách sử dụng chuẩn trung bình của nhóm để kiểm tra. Việc kiểm tra hoạt động dạy học từng bước được cụ thể hóa theo các cấp: chung, bộ phận, cụ thể. Ngay từ thế kỷ 19, nhiều nhà giáo dục học cũng đã đưa ra các hình thức kiểm tra trong dạy học, như O.W.Caldwell và S.A.Courtis đã có kế hoạch áp dụng hình thức kiểm tra theo tinh thần đảm bảo tính khách quan và độ tin cậy như các bài trắc nghiệm (test) hiện nay từ năm 1845; hay Truman Lee lại quan tâm đến các bộ thang đo (scale book) mà một hiệu trưởng người Anh, Fischer, tạo ra vào năm 1864 để đánh giá thành tích và chất lượng dạy học trong các môn chính tả, số học, tập đọc và ngữ
  11. pháp. Nhà giáo dục học Hoa Kỳ, Ralph Tyler, vào những năm 20 – 30 của thế kỷ trước đã chú ý nhấn mạnh hơn tầm quan trọng, cách tiến hành việc đánh giá giáo dục và đưa ra định nghĩa về đánh giá giáo dục: “Quá trình đánh giá chủ yếu là quá trình xác định mức độ thực hiện được của các mục tiêu trong các chương trình giáo dục.” [31, tr.11-12] Việc đánh giá học sinh cũng là quá trình xác định mức độ thay đổi hành vi của học sinh vì mục tiêu giáo dục là nhằm tạo ra các thay đổi trong hành vi của học sinh. - Kiểm tra để đo lường hiệu quả dạy học. Nhà bác học Hoa Kỳ Rice đã đưa ra một luận điểm quan trọng mà ngày nay vẫn còn có giá trị thực tiễn là cần phải “đo tính hiệu quả dạy học” [34, tr.29-30]. Kiểm tra phải hướng đến hiệu quả đào tạo, chất lượng giáo dục. Makarenco, nhà giáo dục học Xô Viết cho rằng tính hiệu quả của quá trình giáo dục phụ thuộc vào sự kiểm tra việc tiến hành công tác đã có hiệu quả đến đâu. Sự kiểm tra cần thiết cho việc tìm hiểu hiệu quả quá trình giáo dục, chất lượng hoạt động của các giáo viên và trình độ của học sinh. Hiệu quả kiểm tra phụ thuộc vào việc tổ chức rõ ràng, lập kế hoạch, phân công đúng đắn trách nhiệm, sự thay thế lẫn nhau và lựa chọn thời gian thích hợp dành cho việc kiểm tra. [28, tr.9]. - Kiểm tra dạy học là để điều chỉnh và cần tiến hành theo quy trình. Tác giả Robert F.Mager người Pháp đã nhận định việc kiểm tra đánh giá là việc nhìn nhận tình hình học sinh và giáo viên để có kế hoạch cho công việc tiếp theo và giúp cho học sinh tiến bộ. Tác giả M.I.Kondakov trong bài “Cơ sở khoa học của quản lý giáo dục” đã cho rằng kiểm tra trong giáo dục không phải là sự soát xét mà là sự kiểm tra nghiên cứu, sự phân tích công tác sâu sắc. Điều đó cho thấy chính nhờ kiểm tra người lãnh đạo đi sâu vào bản chất của quá trình sư phạm, hiểu rõ mọi kế hoạch, cách tổ chức, thực hiện kế hoạch đó đã đạt được hiệu quả như thế nào, những bất cập, thiếu sót nào cần điều chỉnh... Cũng từ những yêu cầu của công tác quản lý trường học nói chung và việc thực hiện các chức năng kiểm tra nói riêng, M.I.Kondakov đã nêu ra phong cách và phương pháp công tác của người lãnh đạo nhà trường, đồng thời nêu lên những phẩm chất và năng lực cần thiết để tiến hành
  12. kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp một cách hiệu quả. Tác giả N.A.Subin khi bàn về công tác kiểm tra nội bộ trường học, đã chú ý đến việc phân cấp quản lý trong kiểm tra và vai trò của lực lượng kiểm tra trong các bước tiến hành kiểm tra. Sự phân cấp đó định ra chế độ làm việc hợp lý cùng năng lực, phẩm chất của những người kiểm tra để từ đó có sự giao nhiệm vụ và nhận trách nhiệm của lực lượng kiểm tra. [19, tr. 200-203]. - Gần đây, Jacques Delors, Chủ tịch ủy ban quốc tế về giáo dục thế kỷ đã cho rằng thanh tra trong giáo dục không chỉ để kiểm tra hoạt động giảng dạy của giáo viên, mà còn để “duy trì các cuộc đối thoại của giáo viên về phát triển tri thức, phương pháp và các nguồn thông tin.” [35, tr. 57-58] Từ đó ông nhấn mạnh cần xác định và khen thưởng những giáo viên tốt; đánh giá cụ thể, có hệ thống và thường xuyên những gì mà học sinh đã học được và quan tâm đến kết quả học tập của học sinh cũng như vai trò của giáo viên trong việc giúp học sinh đạt được những kết quả đó. - Năm 1977, E. Beeby cho rằng việc kiểm tra đánh giá giáo dục là sự thu thập và lý giải có hệ thống có chứng cứ, như một phần của quá trình dẫn tới sự nhận xét về giá trị theo quan điểm hành động. Hiện nay, các nhà khoa học giáo dục đã và đang đưa ra những công trình nghiên cứu có nhấn mạnh vai trò, khả năng thực hiện việc tự kiểm tra của nhà trường, GV và HS trong hoạt động dạy học. Đồng thời các nước cũng đều quan tâm đến việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trên lĩnh vực kiểm tra đánh giá giáo dục và triệt để áp dụng các biện pháp giáo dục và xã hội để đảm bảo sự khách quan, công bằng cùng hiệu quả của việc kiểm tra đánh giá. 1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến kiểm tra hoạt động dạy học trong nước Công tác kiểm tra trong nhà trường được xem như là một trong những vấn đề trọng tâm của hoạt động giáo dục. Nghiên cứu và phát triển những lý thuyết về quản lý đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục của nước ta thực hiện.
  13. - Tác giả Đinh Sĩ Đại đã đưa ra khái niệm kiểm tra trong quản lý trường học: “Kiểm tra là một biện pháp quan trọng trong hoạt động quản lý trường học của hiệu trưởng và kiểm tra, đó là một chức năng của lao động trong mọi hệ thống, kể cả hệ thống trường học”. [19, tr. 200-225] Ngoài khái niệm, tác giả còn bàn đến đối tượng của kiểm tra, nội dung kiểm tra, lực lượng kiểm tra, phương pháp kiểm tra... Việc phân cấp kiểm tra các hoạt động giáo dục đảm bảo quản lý trường học một cách tối ưu vì đây là phương pháp quản lý khoa học, nó quy định rõ nề nếp quản lý, báo cáo của các bộ phận trong trường học, đảm bảo độ tin cậy cao làm cơ sở cho việc điều chỉnh hoặc ra quyết định trong quản lý trường học. - Trong đề tài khoa học cấp nhà nước: “Cơ sở lý luận của việc đánh giá trong quá trình dạy học ở trường phổ thông” của Lê Đức Phúc (12/1995), đã khái quát những lý luận chung nhất, nhấn mạnh một số quan điểm, nội dung về vấn đề tổ chức kiểm tra để đánh giá chất lượng học tập của học sinh. - Trong tài liệu: “Hiệu trưởng quản lý hoạt động dạy học và giáo dục trên lớp” của Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Yến, (2005) có đề cập việc thực hiện một quy trình kiểm tra hoạt động dạy học của hiệu trưởng dựa trên cơ sở các chức năng QL. - Nhiều tác giả khác cũng đưa ra các nhận định về thực trạng quản lý việc kiểm tra đánh giá trong giáo dục hiện nay và các nguyên tắc cơ bản của kiểm tra đánh giá là phải đảm bảo tính chính xác, tính hiệu quả, tính kịp thời, tính thường xuyên, tính thuyết phục, tính khách quan. Đồng thời các tác giả cũng bàn luận về các phương pháp kiểm tra, các ưu điểm, nhược điểm của các hình thức kiểm tra cùng các nhận định và giải pháp... như: “Việc dự giờ của người quản lý trường học” của Đào Vĩnh (1981); “Đánh giá chất lượng giáo dục cần thống nhất về phương pháp” của Lê Văn Giạng; “Đánh giá giờ dạy của giáo viên” của Quốc Chấn (1981); “Vận dụng tư tưởng của Bác Hồ trong kiểm tra trường học” (tạp chí Nghiên cứu giáo dục1990); “Về công tác kiểm tra việc dạy-học” của Lê Ngọc Thanh (1983); “Kiểm định chất lượng giáo dục phổ thông” của Ngọc Hà; cùng nhiều bài báo, bài viết trên các báo, tạp chí chuyên ngành, mạng Internet ...
  14. - Vấn đề thanh kiểm tra trong quản lý giáo dục còn có cơ sở pháp lý là những điều lệ, qui chế, quy định của Bộ GD&ĐT nước ta, trong đó có quy định về mục đích yêu cầu, nội dung, tiến trình thanh tra, kiểm tra, đánh giá và xếp loại nhà trường, giáo viên và học sinh. Đảng và Nhà nước thể hiện rõ trong đường lối, quan điểm về giáo dục và đào tạo là thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo sự phân công của chính phủ để làm tốt các nhiệm vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển giáo dục; xây dựng cơ chế chính sách và cơ chế quản lý nội dung, chất lượng đào tạo; tổ chức thanh tra và kiểm tra. Công tác thanh tra, kiểm tra để đảm bảo chất lượng giáo dục là vấn đề rất được xem trọng. Trong luật giáo dục (số 38/2005 QH 11 ngày 14/6/2005 ) ở mục 4 về thanh tra giáo dục từ điều 111 -113 qui định rõ về nội dung, nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm, tổ chức hoạt động của thanh tra giáo dục. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu giáo dục của chúng ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục, nhưng đối với việc kiểm tra hoạt động dạy học thì mới chỉ dừng lại ở các chuyên đề rời rạc, bàn bạc về các khía cạnh của vấn đề mà chưa có một công trình nào chuyên sâu về vấn đề này. 1.2. Một số khái niệm cơ bản 1.2.1. Hoạt động dạy học và quá trình dạy học 1.2.1.1. Hoạt động dạy học a) Hoạt động: Cuộc đời con người là một chuỗi các hoạt động. “Hoạt động được biểu hiện là một tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng nhằm đạt mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả của hoạt động là sự cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể.” [37, tr.78] Qua đó có thể thấy, hoạt động bao gồm hai thành tố là chủ thể và đối tượng tác động nhau nhằm đạt được kết quả nhất định. b) Dạy học: cũng là một dạng hoạt động luôn gắn liền với lịch sử của loài người, được hiểu đơn giản là quá trình truyền thụ những khái niệm, hay là “một quá trình biến năng lực của loài người thành năng lực của thế hệ trẻ.”[37, tr. 73] c) Hoạt động dạy học: bao gồm hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò mà trong đó thầy là chủ thể tác động lên trò là đối tượng nhằm đạt được kết
  15. quả là nhân cách của trò. Hoạt động dạy là hoạt động truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm lịch sử của thế hệ trước cho thế hệ sau. Đi kèm với hoạt động dạy là hoạt động học mà thế hệ sau tiếp thu những kinh nghiệm của hoạt động dạy, truyền thụ và biến chúng thành năng lực, phẩm chất, nhân cách của riêng mình. Hai hoạt động này gắn bó mật thiết, biện chứng với nhau. Hoạt động dạy học có thể diễn ra ở bất cứ đâu, trong bất cứ thời gian nào, bởi bất cứ ai, cho bất cứ người nào. Nhưng trong nhà trường, hoạt động dạy học, được truyền thụ theo “phương thức nhà trường”, là “một hoạt động có mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện xác định” [30, tr. 28]; mang tính khoa học và tính hệ thống do các nhà sư phạm chuyên nghiệp đảm trách. Trong hoạt động dạy học, người giáo viên tổ chức, điều khiển các hoạt động của học sinh nhằm giúp cho các em lĩnh hội tri thức, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo, thái độ và hành vi. Tóm lại, hoạt động dạy học là hoạt động đặc thù của con người mà trong đó người dạy đóng vai trò là chủ thể tổ chức, điều khiển hoạt động của đối tượng là người học nhằm giúp họ lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lý và hình thành nhân cách. 1.2.1.2. Quá trình dạy học - “Quá trình dạy học là hệ thống những hành động liên tiếp và thâm nhập vào nhau của thầy và trò dưới sự hướng dẫn của thầy, nhằm làm cho trò phát triển được nhân cách và qua đó mà đạt được mục đích dạy học” [16, tr.11] - Theo thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Yến thì quá trình dạy học là sự tương tác thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau và có tính chất cộng tác của hoạt động dạy và hoạt động học trong một hệ thống toàn vẹn mà trong đó dạy giữ vai trò chủ đạo. [21] - Bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức và quá trình xã hội. Quá trình dạy học còn gọi là quá trình sư phạm. [26, tr. 46 - 47] Đây là một hệ thống bao gồm nhiều thành tố mà chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng qua lại với nhau, quyết định chất lượng của nhau. Các thành tố đó bao gồm: mục đích, nội dung dạy học, phương pháp dạy học, phương tiện, điều kiện dạy học,
  16. thầy và trò, kết quả dạy học. Toàn bộ quá trình dạy học không vận hành một cách độc lập, riêng lẻ mà hoạt động trong sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế, chính trị, xã hội như trong sơ đồ 1.1[37, tr. 69]: Môi trường KT-XH M Chú thích: Tr M: Mục đích dạy học Th N: Nội dung dạy học Môi Môi PP: Phương pháp dạy học trường KT ĐG trường PT: Phương tiện dạy học KT-XH KT-XH KT ĐG: Kiểm tra - đánh N PP giá kết quả dạy học Th: Thầy Tr: Trò PT KT-XH: Kinh tế - Xã hội Môi trường KT-XH Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ của các thành tố trong quá trình dạy học Qua sơ đồ trên có thể thấy mục đích dạy học quyết định nội dung dạy học cũng như chi phối thầy-trò để lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy học phù hợp và dựa trên mục đích ấy để đưa ra các tiêu chí đánh giá kết quả dạy học. Ngược lại, các thành tố đó cũng tác động điều chỉnh trở lại mục đích dạy học thông qua kết quả kiểm tra đánh giá. Tuy nhiên, chính môi trường bên ngoài đòi hỏi mục đích, nội dung, phương pháp dạy học … phải đáp ứng các yêu cầu của xã hội, phù hợp với nền kinh tế hiện hữu. Do đó, quá trình dạy học không thể độc lập riêng rẽ với nền kinh tế - xã hội. Tóm lại, quá trình dạy học là một hệ thống đan xen, tương tác nhau giữa hoạt động dạy và hoạt động học trong một khoảng không gian nhất định, nhằm thực hiện nhiệm vụ dạy học. Các thành tố của quá trình dạy học có tác động qua lại lẫn nhau, điều chỉnh nhau, bổ sung cho nhau trong một hệ thống nhất định, chặt chẽ dưới sự ảnh hưởng của môi trường kinh tế - xã hội; mà nếu thiếu đi một trong các thành tố đó thì quá trình dạy học sẽ bị phá vỡ.
  17. 1.2.2. Quản lý hoạt động dạy học trên lớp 1.2.2.1. Hoạt động dạy học trên lớp Có ba hình thức dạy học trong nhà trường hiện nay, gồm: hoạt động dạy học trên lớp, hoạt động ngoài giờ lên lớp và hoạt động lao động, hướng nghiệp và dạy nghề: a) Hoạt động dạy học trên lớp là hình thức tổ chức chủ yếu của quá trình dạy học trong nhà trường và là hoạt động đặc thù của nhà trường phổ thông, được qui định bởi đặc thù lao động sư phạm của người giáo viên. Đây là hoạt động chủ yếu của thầy và trò trong một năm học, làm nền tảng quan trọng để đạt được mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường, đồng thời quyết định kết quả đào tạo của nhà trường. b) Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là những hoạt động được tổ chức ngoài giờ học của các môn học ở trên lớp. “Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là sự tiếp nối hoạt động dạy – học trên lớp, là con đường gắn lí thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức với hành động của học sinh” [3, tr.99] Đây là sự phối hợp giữa nhà trường với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường trong việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa nhằm phát triển năng lực toàn diện của học sinh và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu; các hoạt động giáo dục môi trường; các hoạt động lao động công ích; các hoạt động xã hội; các hoạt động từ thiện phù hợp với đặc điểm sinh lí lứa tuổi học sinh.” [4] c) Hoạt động giáo dục lao động, hướng nghiệp và dạy nghề trong trường phổ thông chính là hoạt động nhằm giúp cho học sinh có những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp, giúp học sinh củng cố, mở rộng kiến thức và thực hành những điều đã học được theo nguyên lý giáo dục “Học đi đôi với hành”, đồng thời tăng cường thể lực, có ý thức và tinh thần sẵn sàng lao động, có óc thẩm mỹ về lao động. Giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ có mục đích giáo dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích có khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội.
  18. Trong ba hình thức hoạt động trên thì hoạt động dạy học trên lớp là hoạt động đặc thù và giữ vị trí trung tâm trong các hoạt động giáo dục của nhà trường phổ thông. Do đó, nhà quản lý trường học phải nhận thức đúng vị trí quan trọng và tính đặc thù của hoạt động này để có những biện pháp quản lý khoa học và sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. 1.2.2.2. Quản lý hoạt động dạy học trên lớp a) Quản lý Có rất nhiều định nghĩa về quản lý: - Thuật ngữ “quản lý” (tiếng Việt gốc Hán) thể hiện đầy đủ bản chất của hoạt động này trong thực tiễn. Nó gồm hai quá trình tích hợp vào nhau. Quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định; quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ vào thế phát triển. [26, tr. 3] - Quản lý là một hoạt động mang tính hướng đích. Theo TS. Hoàng Tâm Sơn thì hoạt động quản lý là một quá trình mà chủ thể quản lý tiến hành tổ hợp các chức năng quản lý để đưa hệ khách thể quản lý tiến đến mục tiêu. - Quản lý còn được hiểu là sự kết hợp giữa tri thức với lao động. Vận hành sự kết hợp này cần có một cơ chế quản lý phù hợp. Cơ chế đúng, hợp lý thì xã hội phát triển, ngược lại thì xã hội phát triển chậm hoặc rối ren. [41, tr. 39] Như vậy có thể thấy quản lý được xem xét dưới hai góc độ là hoạt động và chính trị xã hội. Nhìn chung, quản lý có tác dụng định hướng sự phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục tiêu và hướng mọi nỗ lực của các cá nhân, của cả tổ chức vào mục tiêu chung đó. Việc tổ chức điều hòa, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các cá nhân trong tổ chức, tạo động lực, thuận lợi cho sự phát triển cá nhân và tổ chức là nhằm đảm bảo đạt được mục tiêu một cách hiệu quả. b) Quản lý giáo dục Quản lý giáo dục là một quá trình mà trong đó có sự tham gia của hai thành tố: - Chủ thể quản lý: + Cá nhân: hiệu trưởng, Giám đốc sở GD&ĐT...; + Một tổ chức, một tập thể: Bộ GD&ĐT, Phòng GD&ĐT...;
  19. - Đối tượng quản lý: + Tư tưởng: quan điểm, đường lối, chính sách, chế độ, nội dung, phương pháp, tổ chức...; + Con người: cán bộ giáo dục, giáo viên, học sinh, nhân viên...; + Quá trình dạy học diễn ra trong không gian và thời gian xác định; + Vật chất: cơ sở, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho việc dạy và học... Quản lý giáo dục là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý giáo dục đến khách thể quản lý giáo dục nhằm thực hiện các mục tiêu dự kiến. Quản lý giáo dục (nói riêng là quản lý trường học là quản lý tập thể giáo viên và học sinh để chính họ lại quản lý (đối với giáo viên) và tự quản lý (đối với học sinh) quá trình dạy học. c) Chức năng quản lý Đây là một dạng hoạt động quản lý, sinh ra một cách khách quan từ hoạt động của khách thể quản lý. Chính thông qua chức năng quản lý, chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định. Quản lý bao gồm bốn chức năng cơ bản là hoạch định, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Hoạch định Kiểm tra Thông tin Tổ chức Chỉ đạo Sơ đồ1.2. Bốn chức năng quản lý Theo sơ đồ 1.2 ta thấy đây là một chu trình tuần hoàn khép kín. Chức năng hoạch định giữ vai trò chủ đạo vì nó xác định mục tiêu và định hướng cho nhiệm vụ quản lý. Từ đó nó sẽ quyết định việc tổ chức như: soạn thảo ra quyết định, lựa chọn, sắp xếp, sử dụng, bồi dưỡng nhân sự, chuẩn bị ngân sách kinh phí để chỉ đạo thực
  20. hiện quyết định; cuối cùng là kiểm tra đánh giá. Kết quả có thể tương ứng hoặc không tương ứng với dự kiến – mục tiêu. Trên cơ sở phân tích các kết quả và thông tin thu thập được về đối tượng quản lý, người quản lý lại vạch ra tất cả các giai đoạn của quá trình quản lý này. Chức năng kiểm tra là giai đoạn cuối của một chu trình quản lý, giữ vai trò nghịch của quá trình đó, giúp chủ thể thu nhận những thông tin một cách đúng đắn. d) Quản lý hoạt động dạy học trên lớp Trong nhà trường, hoạt động dạy học trên lớp là hoạt động trung tâm có đặc thù riêng. Đó là mối quan hệ điều khiển: thầy, bằng hoạt động dạy, tổ chức và điều khiển hoạt động học của trò. Chính đặc thù này cũng quy định tính đặc thù của công tác quản lý nhà trường nói chung và quản lý hoạt động dạy học nói riêng. Do đó, quản lý hoạt động dạy học trên lớp trong nhà trường chủ yếu tập trung vào hoạt động giảng dạy của thầy và thông qua đó để quản lý hoạt động của trò. Công tác quản lý hoạt động dạy học trên lớp có mục tiêu là quản lý chất lượng đào tạo, là nền tảng để người hiệu trưởng xác định các mục tiêu khác trong hệ thống quản lý nhà trường. Như vậy, quản lý hoạt động dạy học trên lớp là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý (hiệu trưởng) vào quá trình dạy học (được thực hiện bởi tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng xã hội) nhằm góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường. 1.2.3. Quản lý hoạt động dạy học trên lớp ở trường THCS - Theo Từ điển giáo dục học: “Trường THCS là cơ sở giáo dục phổ thông tiếp nối bậc tiểu học và mở đầu bậc trung học, với bốn năm từ lớp 6 đến lớp 9 thuộc cấp THCS. Trường THCS được tổ chức và hoạt động theo qui định của Luật giáo dục và Điều lệ nhà trường.” [38, tr. 445] * Điều lệ trường THCS, THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học quy định [4]: - Giáo viên của trường THCS là những người làm công tác giảng dạy, giáo dục trong nhà trường; có trình độ chuẩn được đào tạo là tốt nghiệp cao đẳng sư
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2