Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học Yersin Đà Lạt
lượt xem 55
download
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học Yersin Đà Lạt xác định thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt, từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động học tập theo học chế tín chỉ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên Trường Đại học Yersin Đà Lạt
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH VIỆN Nguyễn Thanh Sơn THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC YERSIN ĐÀ LẠT CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC MÃ SỐ: 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ HẠNH NGA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với Ban Giám hiệu, phòng Sau Đại học và khoa Tâm lý – Giáo dục trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn thầy, cô giáo đã tận tình giảng dạy, chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình học tập tại trường. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Hạnh Nga, người đã tận tình, chu đáo hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, thầy, cô giáo và sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu cho luận văn. Xin cảm ơn các anh, chị học viên lớp Cao học Quản lý giáo dục Khóa 18 đã chia sẻ tinh thần, tình cảm cho tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn. Tp. Hồ Chí Minh, tháng 07 năm 2010. Tác giả Nguyễn Thanh Sơn
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CBQL, GV Cán bộ quản lý, giảng viên CLB Câu lạc bộ CVHT Cố vấn học tập ĐTB Điểm trung bình ĐTBCBQL, GV Điểm trung bình của cán bộ quản lý, giảng viên ĐTBSV Điểm trung bình của sinh viên GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo GVCN Giảng viên chủ nhiệm HS Học sinh P Mức xác xuất SD Độ lệch tiêu chuẩn SV Sinh viên TNCS HCM Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh TS Tần số
- MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong trường Đại học, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sinh viên chính là nhiệm vụ học tập, bằng các hoạt động học tập, người học tự hình thành và phát triển nhân cách của mình, không ai có thể làm thay được, mặc dù trong quá trình học tập có sự hướng dẫn, giúp đỡ của người dạy. Và trường Đại học có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi về quản lý, hướng dẫn, hỗ trợ, giúp đỡ… để giúp người học có thể hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ học tập. Quy chế Công tác học sinh, sinh viên [7, tr. 2] được ban hành theo Quyết định số 42/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 13 tháng 08 năm 2007 đã xác định công tác quản lý hoạt động học tập của học sinh, sinh viên là một trong những công tác trọng tâm ở trường đại học. Đây là công tác hướng vào thực hiện mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có năng lực cao về chuyên môn, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ, bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quản lý hoạt động học tập của sinh viên không chỉ giới hạn trong quản lý giờ học ở trên lớp mà còn gồm cả quản lý việc sinh viên tự tổ chức quá trình học tập của mình thông qua các hoạt động tự học, tự nghiên cứu, học nhóm, tham quan, thực hành, thực tập, làm bài tập, học ở thư viện... Quản lý hoạt động học tập bao hàm quản lý thời gian học tập, chất lượng học tập, tinh thần, thái độ và phương pháp học tập của sinh viên. Trường Đại học Yersin Đà Lạt được thành lập từ năm 2004, đến năm 2008 nhà trường đã có khóa sinh viên đầu tiên tốt nghiệp. Trong thời gian qua, các hoạt động học tập của sinh viên luôn được Ban Giám hiệu nhà trường ưu tiên thực hiện, Trường đã có nhiều cố gắng để đưa công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên đi vào nề nếp như cố gắng sắp xếp thời khóa biểu học tập, lịch thi, kiểm tra cho phù hợp với điều kiện của nhà trường và thuận lợi cho hoạt động học tập của sinh viên. Tuy nhiên, do mới thành lập nên công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên chưa đạt hiệu quả cao, chưa theo kịp với tốc độ phát triển nhanh của Trường cả về số lượng sinh viên cũng như yêu cầu cải tiến chất lượng đào tạo của Bộ GD&ĐT và của xã hội. Với chủ trương của Bộ GD&ĐT, tất cả các trường đại học phải chuyển đổi sang đào tạo theo học chế tín chỉ vào năm 2010, trường Đại học Yersin Đà Lạt cũng đang trong giai đoạn chuẩn bị
- các điều kiện cho việc thực hiện chuyển đổi đào tạo từ học chế niên chế sang học chế tín chỉ. Điều này đang đặt ra một thách thức rất lớn với các trường đại học nói chung và với trường Đại học Yersin Đà Lạt nói riêng. Trong đó, công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên cũng cần phải đổi mới để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của sinh viên. Để góp phần cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo của trường Đại học Yersin Đà Lạt khi Trường đang từng bước chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ, rất cần có nghiên cứu về thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên và tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động này. Chính vì vậy tác giả đã lựa chọn vấn đề nghiên cứu “Thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Quản lý Giáo dục. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Xác định thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt, từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động học tập theo học chế tín chỉ. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt. 3.2. Khách thể nghiên cứu Quá trình quản lý của Hiệu trưởng trường Đại học Yersin Đà Lạt. 4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt đã chú trọng đến việc tạo điều kiện cho sinh viên hiểu rõ, nắm vững về nội quy, quy chế học tập, mục tiêu, chương trình đào tạo của Trường. Tuy nhiên, công tác quản lý hoạt động học tập vẫn còn hạn chế ở các mặt: – Quản lý việc giáo dục mục đích, động cơ học tập cho sinh viên; – Quản lý kế hoạch, nội dung, phương pháp học tập của sinh viên; – Quản lý cơ sở vật chất, sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ hoạt động học tập của sinh viên. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- 5.1. Xây dựng cơ sở lý luận của công tác quản lý hoạt động học tập. 5.2. Khảo sát thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt. 5.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt theo học chế tín chỉ. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 6.1. Phương pháp luận Tiếp cận quan điểm hệ thống – cấu trúc: Xem xét đối tượng nghiên cứu như một bộ phận của hệ thống toàn vẹn, vận động và phát triển thông qua việc giải quyết mâu thuẫn nội tại. Công tác quản lý hoạt động học tập luôn có mối quan hệ biện chứng với các yếu tố khác trong công tác quản lý của trường Đại học Yersin Đà Lạt. Tiếp cận quan điểm lịch sử – logic: Xem xét đối tượng trong một quá trình phát triển lâu dài của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ đó phát hiện ra những mối liên hệ đặc trưng về quá khứ – hiện tại – tương lai của đối tượng thông qua những phép suy luận biện chứng, logic. Tiếp cận quan điểm thực tiễn: Cơ sở lý luận phải được minh chứng và hoàn chỉnh thông qua các sự kiện và hoạt động thực tiễn, do đó việc khảo sát thực trạng là hết sức cần thiết. Qua khảo sát sẽ phát hiện những mặt mạnh, mặt yếu của công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên và nguyên nhân của nó để từ đó đề ra các biện pháp nhằm cải thiện thực trạng; đáp ứng được yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay. 6.2. Phương pháp nghiên cứu 6.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết Phương pháp phân tích – tổng hợp, phân loại và hệ thống hoá lý thuyết. 6.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát sư phạm: Thu thập thông tin thông qua việc quan sát hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt. - Phương pháp phỏng vấn: Thu thập thông tin thông qua hỏi ý kiến trực tiếp cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên trong Trường. - Điều tra bằng phiếu hỏi: Thu thập thông tin thông qua phiếu khảo sát ý kiến của cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên trong Trường.
- - Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Nhằm thu thập thông tin thông qua việc trao đổi, xin ý kiến trực tiếp của cán bộ quản lý, giảng viên và một số chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục và đào tạo. 6.2.3. Nhóm phương pháp toán thống kê Xử lý kết quả điều tra và số liệu thu được bằng các phương pháp thống kê toán học thông qua phần mềm SPSS for Window. 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 7.1. Về đối tượng khảo sát Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt. 7.2. Về mặt nội dung Đề tài tập trung làm rõ thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt ở các mặt: quản lý hoạt động học tập trên lớp và quản lý hoạt động tự học của sinh viên. Đề tài không đề cập đến mặt quản lý hoạt động học tập trên lớp của giảng viên. 8. Đóng góp của đề tài nghiên cứu 8.1. Đề tài góp phần làm sáng tỏ thực trạng hoạt động học tập và thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt. 8.2. Xây dựng hệ thống các giải pháp giúp công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt có thể đón đầu, phù hợp với quản lý hoạt động học tập theo học chế tín chỉ.
- CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Ở nước ngoài Các nhà giáo dục trên thế giới đã đưa ra nhiều quan điểm về hoạt động học tập của học sinh, sinh viên dựa trên những cơ sở thuyết tâm lý, thuyết giáo dục khác nhau. Phần lớn những nghiên cứu đều nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động học tập đối với sự phát triển tư duy cũng như hình thành thói quen học tập và nghiên cứu suốt đời cho người học. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: muốn nâng cao năng lực và hiệu quả học tập thì người giáo viên phải biết tổ chức hoạt động nhận thức, cũng như hướng dẫn tự học cho học sinh. Ở thế kỷ thứ XVII, J.A.Komenski (1592 – 1670) [17] là người đầu tiên đưa ra kiến nghị đổi mới một cách sâu sắc quá trình dạy học nói chung và hình thức tổ chức dạy học nói riêng. Hình thức tổ chức dạy học trên lớp do J.A.Komenski đề ra là một sáng kiến vĩ đại, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Ngày nay, tư tưởng của ông về chế độ dạy học theo lớp với hình thức tổ chức dạy học trên lớp nói riêng vẫn còn có ý nghĩa tích cực đối với lý luận dạy học hiện đại. Tư tưởng của J.A.Komenski đã được tiếp nối và phát triển bởi nhiều nhà sư phạm lỗi lạc khác như: M.N.Xcatkin, N.A.Danilốp, B.P.Êxipốp, Ia.Lecne, J.J.Rousseau, John Deway… Theo J.J.Rousseau (1712 – 1778) [55], nhà sư phạm người Pháp, cần phải chuẩn bị người thiếu niên cho đời sống xã hội, sự chuẩn bị này cần được thực hiện ở đời sống xã hội trên cơ sở chú ý đầy đủ đến “sự tự do” của đứa trẻ. John Dewey (1859 – 1925) [17], nhà sư phạm người Mỹ nổi tiếng đầu thế kỷ XX đã đưa ra một phương hướng canh tân giáo dục, ông yêu cầu bổ sung vào vốn tri thức của học sinh những tri thức ngoài sách giáo khoa và lời giảng của giảng viên, đề cao hoạt động đa dạng của học sinh, đặc biệt là hoạt động thực tiễn. Ông viết: “Học sinh là mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi phương tiện giáo dục, nói không phải là dạy, nói ít hơn, chú ý nhiều đến việc tổ chức hoạt động của học sinh. Vào thập niên 30 của thế kỷ XX, nhà giáo dục nổi tiếng Nhật Bản Tsunesaburo Makiguchi (1871 – 1944) [53, tr. 152] đã nhấn mạnh: “Giáo viên không bao giờ học thay cho học viên mà học viên phải tự mình học lấy. Nói khác đi, dù giáo viên có làm gì đi nữa thì mọi tri thức truyền thụ vẫn không có giá trị nếu họ không làm cho học sinh tự mình kiểm nghiệm và thực nghiệm những tri thức đó”.
- Trong tác phẩm “Tự học như thế nào”, nhà bác học, nhà văn hóa Nga N.A.Rubakin (1862 – 1946) [44, tr. 10] đã chỉ ra phương pháp tự học để nâng cao kiến thức, mở rộng tầm nhìn. N.A.Rubakin đặc biệt chú trọng đến việc đọc sách. Ông khẳng định: hãy mạnh dạn tự mình đặt câu hỏi rồi tự mình tìm lấy câu trả lời – đó chính là phương pháp tự học. Năm 1996, hội đồng quốc tế Jacques Delors về giáo dục cho thế kỷ XXI đã gửi UNESCO bản báo cáo “Học tập – Một kho báu tiềm ẩn” [44, tr. 10], báo cáo đã phân tích nhiều vấn đề của giáo dục trong thế kỷ XXI, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của người học, cách học cần phải được dạy cho thế hệ trẻ. Trong cuốn sách Cách mạng học tập (1999), Cordon Dryden và Jeannette Vos [44, tr. 12] đã đề ra công thức MASTER để hướng dẫn người học phát huy năng lực học tập của bản thân (M: Mind set for success, A: Acquire knowledge, S: Search out the meaning, T: Trigger the memory, E: Exhibit, R: Reflect how to learn). Hoạt động học tập của học sinh, sinh viên cũng đã được nhiều nhà tâm lý học trên thế giới nghiên cứu để đưa ra những khái niệm và cơ chế của hoạt động học tập. Có thể kể ra những nhà tâm lý học tiêu biểu nghiên cứu về lĩnh vực này như: Pavlov, Watson, Thorndike, Skiner, J. Piaget, Ghestalt, Benjamin Bloom, X. L. Vưgốtxki, A.N. Léonchiev… Hầu hết các nghiên cứu gần đây của các nhà giáo dục đều cho rằng: giáo dục ở thế kỷ XXI đã có những thay đổi lớn nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo những con người có năng lực tự quyết định. Trong tương lai gần, mỗi người học sẽ phải có đủ các phẩm chất: tự học (self learning), tự tổ chức (self organizing), tự quyết định (self defining) và tự phát triển (self developing) [11, tr. 87]. 1.1.2. Ở Việt Nam Ở Việt Nam, nhiều nhà giáo dục đã tiến hành nghiên cứu hoạt động học tập của học sinh, sinh viên, trong đó, tập trung vào việc nghiên cứu phương pháp học tập hiệu quả, vị trí, tầm quan trọng và cách thức tiến hành tự học đạt kết quả… Chủ tịch Hồ Chí Minh [1, tr. 90 – 91] – tấm gương sáng ngời về tự học – đã khuyên chúng ta “Phải biết tự động học tập”, “Lấy tự học làm cốt”, “Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu, hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ”. Tóm lại, Bác đề ra 5 yêu cầu của quá trình tự học: Một, Trong việc tự học, điều quan trọng hàng đầu là xác định rõ mục đích học tập và xây dựng động cơ học tập đúng đắn. Tức là phải hiểu “Học để làm gì? – Học để sửa chữa tư tưởng – Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng – Học để tin tưởng – Học để hành”. Hai, Phải tự mình lao động để tạo điều kiện cho việc tự học suốt đời. Ba, Muốn tự học thành công,
- phải có kế hoạch sắp xếp thời gian học tập, phải bền bỉ, kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng, không lùi bước trước mọi trở ngại. Bốn, Phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình thức để tự học. Năm, Học đến đâu, ra sức luyện tập, thực hành đến đó. Năm 1998, Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên) [51, tr. 101 – 103] đã tập trung luận bàn về tự học trong cuốn sách “Quá trình Dạy – Tự học”, đưa ra những trở lực cho việc học, kinh nghiệm khắc phục và phương châm đảm bảo thắng lợi của tự học. Tác giả cho rằng mục tiêu đào tạo của các trường hiện nay cần chú trọng rèn luyện cho người học “năm mọi” trong học tập (học mọi nơi, học mọi lúc, học mọi người, học bằng mọi cách và học qua mọi nội dung) và bảy loại tư duy cần rèn luyện (tư duy logic, tư duy hình tượng, tư duy biện chứng, tư duy quản lý, tư duy kinh tế, tư duy kỹ thuật và tư duy thuật toán). Đồng thời tác giả đưa ra một số xu thế mới về phát triển việc học trong mối quan hệ biện chứng với dạy. Bên cạnh đó, tác giả còn nêu lên vai trò và trách nhiệm của gia đình trong việc dạy tự học cho học sinh. Hoàng Anh và Đỗ Thị Châu [1] cũng đã khái quát chung về hoạt động học tập – tự học của sinh viên trong cuốn sách “Tự học của sinh viên”, tác giả đưa ra bản chất và đặc điểm của hoạt động học tập có mục đích, cấu trúc của hoạt động học tập, động cơ học tập và các yếu tố tâm lý ảnh hưởng tới hoạt động học tập – tự học của sinh viên. Tư tưởng tự học, tự đào tạo cũng được Đảng ta xem như một chiến lược thúc đẩy giáo dục phát triển. Điều này đã được khẳng định nhất quán ở nhiều văn bản khác nhau: Nghị quyết Trung ương 2 Khóa VIII của Đảng [62] đã chỉ rõ “… Từng bước … bảo đảm điều kiện và định hướng tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học. Phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên. Nâng cao năng lực tự học và thực hành cho học sinh”. Chỉ thị 40 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 15 tháng 06 năm 2007 [11] đã khẳng định “Phải đổi mới mạnh mẽ và cơ bản phương pháp giáo dục nhằm khắc phục kiểu truyền thụ một chiều, nặng lý thuyết, ít khuyến khích tư duy sáng tạo, bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho người học”. Định hướng về vấn đề tự học còn được quy định trong Luật giáo dục 2005 [15]: “Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”. Bên cạnh vấn đề tự học còn có nhiều tác giả nói về dạy cách học và hướng dẫn phương pháp học tập hiệu quả như: Cuốn sách “Học và dạy cách học” do Nguyễn Cảnh Toàn [50] chủ biên;
- cuốn sách “Phương pháp học tập hiệu quả” của Đỗ Linh và Lê Văn [34]; cuốn sách “Học tập cũng cần chiến lược” của Joe Landsberger [28]; cuốn sách “Phương pháp học tập siêu tốc” của Bobbi Deporter & Mike Hernacki [13]… Nhìn chung, các tác phẩm này đều đưa ra những cách thức, phương pháp giúp người học đạt được hiệu quả cao khi tiến hành hoạt động học tập. Vấn đề học tập, tự học của học sinh, sinh viên cũng đã được một số tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sĩ: – Về hoạt động học tập của sinh viên trong các trường Đại học, cao đẳng có các đề tài như: “Công tác quản lý hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh” của Đinh Ái Linh [35]; “Thực trạng quản lý học tập đối với sinh viên ngành Tiểu học ở trường Cao đẳng sư phạm Vĩnh Long” của Trà Thị Quỳnh Mai [39]; “Một số biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực tự học cho sinh viên trường Cao đẳng sư phạm mẫu giáo Trung ương 3” của Phạm Thị Thu Thủy [47]… – Về hoạt động học tập của học viên trong các trường quân sự có các đề tài như: “Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học viên trường Sĩ quan Lục quân 2” của Trần Bá Khiêm [30]; “Các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp của học sinh trường Trung học Cảnh sát Nhân dân I” của Nguyễn Phấn Lý… – Về hoạt động học tập của học sinh Trung học phổ thông có các đề tài như: “Thực trạng quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao năng lực tự học cho học sinh Trung học cơ sở ở huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” của Đặng Ngọc Thái [44]; “Nghiên cứu sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc quản lý hoạt động học tập của học sinh các trường Trung học phổ thông tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” của Nguyễn Văn Trung [54]; “Một số biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng học tập cho học sinh trường THPT huyện Châu Thành A, tỉnh Cần Thơ” của Trần Thị Tư [55]… Điểm qua các công trình nghiên cứu trên đây về hoạt động học tập của sinh viên, chúng ta thấy rằng hoạt động học tập của sinh viên đã có những cơ sở lý luận rất vững chắc. Tuy nhiên, những công trình đi sâu nghiên cứu về quản lý hoạt động học tập của sinh viên trong trường Đại học còn ít được chú trọng và chưa có nhiều. Trong đó, công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt chưa có tác giả nào nghiên cứu, do đó, qua đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu đánh giá đúng thực trạng quản lý hoạt động học tập, từ đó, đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Yersin Đà Lạt khi chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ. 1.2. Các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
- 1.2.1. Khái niệm quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường 1.2.1.1. Quản lý Khái niệm “quản lý” là một khái niệm rất chung, tổng quát. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý. Dưới đây là một số quan niệm chủ yếu. Theo Đại Bách khoa toàn thư Liên xô [29, tr. 7], 1997, quản lý là chức năng của những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội, sinh vật, kỹ thuật), nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện chương trình, mục đích hoạt động. C.Mác [31, tr.3] đã khẳng định: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất... Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. Theo F.W. Taylor [24, tr. 12], người đưa ra học thuyết quản lý theo khoa học, thì “Quản lý là biết chính xác điều muốn người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”. H. Koontz [24, tr. 12] thì khẳng định: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức). Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc [55, tr. 13] khái niệm quản lý theo quan điểm hoạt động của một tổ chức: “Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức, làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục tiêu của tổ chức”. Bùi Minh Hiền [24, tr. 12] định nghĩa: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra”. Trần Kiểm [29, tr. 8] cho rằng: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu, nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”. Từ những khái niệm trên có thể thấy rằng thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến và được nhiều tác giả đề cập đến. Trong giới hạn của đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hiểu khái niệm quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế… bằng một hệ
- thống các luật lệ, chính sách, nguyên tắc, phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng. Quản lý là một hoạt động khó khăn, phức tạp nhưng có ý nghĩa rất quan trọng của xã hội loài người. Nhờ có quản lý mà có thể tạo ra sự thống nhất ý chí trong tổ chức (các thành viên của tổ chức, giữa những người bị quản lý với nhau và giữa những người bị quản lý với người quản lý). Từ đó, mới có thể đạt được mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất. Quản lý còn có tác dụng định hướng sự phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục tiêu và hướng mọi nỗ lực của các cá nhân, của tổ chức vào mục tiêu chung đó. Tổ chức, điều hòa, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các cá nhân trong tổ chức, giảm độ bất định nhằm đạt mục tiêu quản lý đã xác định. Tạo ra động lực cho hoạt động bằng cách kích thích, đánh giá, khen thưởng, trách phạt, tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cá nhân và tổ chức, đảm bảo phát triển ổn định, bền vững và có hiệu quả. Chủ Đối Khách thể tượng thể Mục tiêu quản quản quản lý quản lý lý lý Sơ đồ 1: Sơ đồ diễn tả khái niệm quản lý [29, tr. 38] 1.2.1.2. Quản lý giáo dục Cũng giống như khái niệm “quản lý” đã trình bày trên đây, khái niệm “quản lý giáo dục” cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Theo Phạm Minh Hạc [35, tr. 18]: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học… Có tổ chức được hoạt động dạy học thì mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước”. Theo Trần Kiểm [29, tr. 36], khái niệm “quản lý giáo dục” có nhiều cấp độ. Ít nhất có hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô. Cấp quản lý vĩ mô tương ứng với việc quản lý một đối tượng có quy mô lớn nhất, bao quát toàn bộ hệ thống. Nhưng, trong hệ thống này lại có nhiều hệ thống con, tương ứng với hệ thống con này có hoạt động quản lý vi mô. Sự thực, việc phân chia quản lý vĩ mô và quản lý vi mô chỉ là tương đối… Điều quan trọng là khi xem xét vấn đề quản lý phải xác
- định chủ thể quản lý đang ở cấp độ nào. Từ đó mới thấy được mối tương quan trên dưới, vĩ mô và vi mô. Theo F.G. Panatrin [35, tr. 17] thì “Quản lý giáo dục là tác động một cách có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự phát triển toàn diện, hài hòa ở thế hệ trẻ”. Nguyễn Ngọc Quang [35, tr. 18] cho rằng “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật với chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”. Qua những khái niệm trên đây, có thể hiểu rằng quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát,… một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Quản lý giáo dục trong xã hội ta hiện nay là hướng tới việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Ở cấp độ nhân cách, quản lý giáo dục là quản lý sự hình thành và phát triển nhân cách cho người học. Tóm lại, quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt được kết quả mong muốn (mục tiêu) một cách có hiệu quả nhất. 1.2.1.3. Quản lý trường học Theo Phạm Minh Hạc [44, tr. 40] “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh”. Theo Trần Kiểm [29, tr. 38]: “Thuật ngữ “quản lý trường học / nhà trường” có thể xem là đồng nghĩa với quản lý giáo dục thuộc tầm vi mô. Đây là những tác động quản lý diễn ra trong phạm vi nhà trường”. Nhà trường là đơn vị cơ sở trực tiếp giáo dục – đào tạo, là cơ quan chuyên môn của ngành giáo dục – đào tạo, hoạt động của nhà trường rất đa dạng, phong phú và phức tạp, nên việc quản lý, lãnh đạo chặt chẽ, khoa học sẽ bảo đảm đoàn kết, thống nhất được mọi lực lượng, tạo nên sức mạnh đồng bộ nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục đích giáo dục.
- Vậy, quản lý trường học là quản lý hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh, hoạt động phục vụ việc dạy và việc học của cán bộ, nhân viên trong trường. Trong khuôn khổ của đề tài này, chúng tôi tập trung làm rõ các mặt công tác quản lý của trường Đại học. Trường đại học có mục tiêu là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời đại ngày nay, trường đại học đang ngày càng phát triển nhanh và mạnh cho phù hợp với yêu cầu của thời đại và thực tiễn phát triển của đất nước (số lượng giảng viên, sinh viên ngày càng đông, cơ sở vật chất ngày càng nhiều, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục – đào tạo ngày càng phong phú, đa dạng...), do đó, yêu cầu quản lý, lãnh đạo nhà trường ngày càng cao và chặt chẽ nhằm làm tăng sức mạnh của các tổ chức, cá nhân trong nhà trường. Hiệu trưởng quản lý, lãnh đạo nhà trường theo nguyên tắc tập trung trên cơ sở phát huy rộng rãi sự tham gia dân chủ của cán bộ, giảng viên, nhân viên và sinh viên toàn trường, thực hiện sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, cụ thể cho từng cá nhân, đơn vị trong trường. Giúp việc cho Hiệu trưởng có các phòng, khoa cùng thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của nhà trường: – Phòng Đào tạo có chức năng, nhiệm vụ sắp xếp lịch học tập (thời khóa biểu), tổ chức giảng dạy và thi cử cho sinh viên, quản lý điểm của sinh viên, tổ chức cho sinh viên thi tốt nghiệp, bảo vệ luận văn tốt nghiệp và cấp bằng tốt nghiệp cho sinh viên. – Phòng Công tác Sinh viên có chức năng tiếp nhận thí sinh trúng tuyển nhập học, theo dõi, đánh giá ý thức học tập, rèn luyện của sinh viên; phân loại, xếp loại sinh viên cuối mỗi học kỳ hoặc năm học, khóa học; tổ chức thi đua, khen thưởng cho tập thể và cá nhân đạt thành tích cao trong học tập và rèn luyện; xử lý kỷ luật đối với sinh viên vi phạm quy chế, nội quy; tổ chức tư vấn học tập, nghề nghiệp, việc làm cho sinh viên; phối hợp với gia đình sinh viên để quản lý hoạt động học tập, rèn luyện của sinh viên. – Phòng Quản trị Vật tư có nhiệm vụ mua sắm, bảo quản và bảo trì toàn bộ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học tập, rèn luyện của sinh viên. – Các Khoa có nhiệm vụ tổ chức hoạt động giảng dạy của giảng viên, phổ biến kế hoạch học tập cho sinh viên, phân công giảng viên chủ nhiệm lớp thường xuyên theo dõi, đánh giá về ý thức, kết quả học tập của sinh viên.
- Trong quá trình quản lý, Hiệu trưởng phải phối hợp với các tổ chức quần chúng, các lực lượng giáo dục, vận dụng các phương pháp thuyết phục, giáo dục, hành chính, kích thích vật chất và tinh thần… để phát huy sức mạnh tổng hợp, đồng bộ của nhà trường, bảo đảm thực hiện kế hoạch giáo dục – đào tạo có chất lượng và có hiệu quả. Thực hiện tốt qui trình quản lý kế hoạch, bao gồm: Xây dựng kế hoạch rõ ràng, cụ thể; tổ chức thực hiện kế hoạch khoa học, sáng tạo; chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch sát sao; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch thường xuyên, kịp thời. 1.2.2. Khái niệm về hoạt động Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học [35, tr. 20] thì: “Hoạt động là tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ, nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã hội”. Theo Phạm Minh Hạc [22, tr. 49] “Hoạt động là quá trình tác động qua lại giữa con người với thế giới xung quanh để tạo ra sản phẩm về phía thế giới và sản phẩm về phía con người. Trong quá trình tác động qua lại đó, có hai chiều tác động diễn ra đồng thời, thống nhất và bổ sung cho nhau”. Như vậy, có thể hiểu hoạt động là sự tương tác tích cực giữa chủ thể và đối tượng nhằm biến đổi đối tượng theo mục đích mà chủ thể tự giác đặt ra để thỏa mãn nhu cầu của bản thân. Hoạt động sinh ra từ nhu cầu nhưng lại được điều chỉnh bởi mục tiêu mà chủ thể nhận thức được. Nhu cầu với tư cách là động cơ, là nhân tố khởi phát của hoạt động nhưng lại chịu sự chi phối của mục tiêu mà chủ thể nhận thức được. Hoạt động có một số đặc điểm sau: – Hoạt động bao giờ cũng là hoạt động có đối tượng: Đối tượng của hoạt động là cái con người làm ra, cần chiếm lĩnh. Trong hoạt động học tập, sinh viên cần chiếm lĩnh các tri thức khoa học, biến thành vốn sống, vốn hiểu biết và phát triển nhân cách của bản thân. Vì vậy, tri thức là đối tượng của hoạt động học tập. – Hoạt động bao giờ cũng có tính chủ thể: Chủ thể của hoạt động chính là người thực hiện hoạt động. Chủ thể có khi là một người, có khi là một số người. Ví dụ: giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy học, học sinh là chủ thể của hoạt động học tập. Tính chất có chủ thể hoạt động trước hết biểu hiện trong tính tích cực của chủ thể. Trong quá trình vươn tới đối tượng hoạt động, con người buộc phải huy động toàn bộ sức mạnh cơ bắp hoặc sức mạnh tinh thần, trí tuệ của mình,
- buộc phải huy động cao độ để chiếm lĩnh nó. Tính chủ thể trước hết bao hàm tính tích cực, tính tích cực phát triển tới đỉnh cao thành tính chủ động, say mê. – Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: Trong hoạt động lao động, người ta dùng công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động. Công cụ lao động giữ vai trò trung gian giữa chủ thể và đối tượng lao động, tạo ra tính chất gián tiếp trong hoạt động lao động. – Hoạt động bao giờ cũng mang tính mục đích: Trong mọi hành động của con người, tính mục đích nổi lên rất rõ rệt. Hoạt động của con người khác xa với hành vi của động vật ở chỗ nó luôn có ý thức và có mục đích. Mục đích của hoạt động thường tạo ra sản phẩm có liên quan trực tiếp hay gián tiếp với việc thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. 1.2.3. Khái niệm về hoạt động học tập – tự học của sinh viên Phạm Văn Đồng [1, tr. 102] cho rằng “Ở đại học chủ yếu là học phương pháp. Nếu anh tự vũ trang được một phương pháp vững vàng thì anh dùng nó suốt đời, vì anh phải học mãi mãi”. Theo Nguyễn Cảnh Toàn [50, tr. 71] thì “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội tại, trong đó, chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng cách thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong con người mình…”. Theo Phan Trọng Ngọ [40] thì “Học là quá trình tương tác giữa cá thể với môi trường, kết quả là dẫn đến sự biến đổi bền vững về nhận thức, thái độ hay hành vi của cá thể đó. Học tập là việc học có chủ ý, có mục đích định trước, được tiến hành bởi một hoạt động đặc thù – hoạt động học, nhằm thỏa mãn nhu cầu học của cá nhân”. Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức [25] thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở Đại học. Đó là một hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính bản thân người học tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã quy định”. Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị [1, tr. 104] định nghĩa “Hoạt động học tập ở đại học là một loại hoạt động tâm lý được tổ chức một cách độc đáo của sinh viên nhằm mục đích có ý thức là chuẩn bị trở thành người chuyên gia phát triển toàn diện, sáng tạo và có trình độ nghiệp vụ cao. Hồ Ngọc Đại [1, tr. 102] cho rằng “Học đại học khác với học phổ thông là sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu dưới sự tổ chức, điều khiển của giảng viên để tìm ra chân lý”. Qua những khái niệm trên đây, có thể hiểu rằng hoạt động học tập của sinh viên là hoạt động có mục đích, có kế hoạch nhằm chiếm lĩnh văn hóa nhân loại, chuyển thành tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ của bản thân để chuẩn bị các điều kiện trở thành các chuyên gia – những người chủ
- tương lai của đất nước, đáp ứng được các yêu cầu của nền sản xuất công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hoạt động học tập bao giờ cũng nhằm thỏa mãn một nhu cầu học nhất định, được kích thích bởi động cơ học và được thực hiện bởi một hoạt động chuyên biệt – hoạt động học với nội dung, phương pháp, phương tiện học tập. Và “tự học” là bộ phận quan trọng nhất trong hoạt động học tập của sinh viên, đó chính là sự tự ý thức về động cơ, mục đích, biện pháp học tập, sinh viên phải giải quyết các nhiệm vụ học tập do cán bộ giảng dạy và do chính người học đề ra. Tự học là “tự động học tập”, thể hiện tính tự lực, tự giác, tích cực cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng. Vì vậy, tự học mang đậm sắc thái cá nhân, biểu hiện ở tự xác định mục tiêu chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kỹ năng, hoàn thành các nhiệm vụ tự học cụ thể đặt ra trong ra trong từng giờ học, buổi học; tự xác định nội dung, nhiệm vụ, lựa chọn phương pháp tự học, sử dụng phương tiện tự học hợp lý, phù hợp với bản thân; tự kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh việc học của bản thân. Trong hoạt động học tập ở bậc đại học, sinh viên không thể chỉ có năng lực nhận thức thông thường mà cần phải tiến hành hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cở sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo phát triển mức độ cao. Dưới vai trò chủ đạo của giảng viên, sinh viên không nắm máy móc những chân lý có sẵn mà họ có khả năng tiếp nhận những chân lý đó với óc phê phán, có thể khẳng định, phủ định, hoài nghi khoa học, lật ngược vấn đề, đào sâu, mở rộng… Hơn nữa, trong quá trình học đại học, sinh viên còn tham gia tìm kiếm chân lý mới, đó là hoạt động nghiên cứu khoa học được tiến hành ở các mức độ thấp đến cao tùy theo chương trình các bộ môn. 1.2.4. Khái niệm quản lý hoạt động học tập của sinh viên Từ những khái niệm về “quản lý”, khái niệm “hoạt động học tập của sinh viên” như đã phân tích trên đây, có thể hiểu rằng: Quản lý hoạt động học tập của sinh viên là quá trình tác động có mục đích của chủ thể quản lý (cán bộ quản lý, giảng viên mà đứng đầu là Hiệu trưởng) lên đối tượng quản lý (người học) bằng các hoạt động cụ thể như: Thay đổi nhận thức về việc học, dạy cách học, xây dựng tập thể lớp học, tổ chức và quản lí hoạt động học, tạo điều kiện cho việc học, phối hợp quản lí hoạt động học… Nhằm đào tạo sinh viên thành những con người phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có thể khẳng định rằng, mọi hoạt động trong trường đại học đều hướng đến mục đích là tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi nhất giúp cho sinh viên học tập đạt kết quả tốt nhất. Hoạt động học tập của sinh viên trong trường đại học có những đặc điểm sau:
- Trước hết, hoạt động học tập của sinh viên vừa là lĩnh hội những tri thức, khái niệm mới, vừa tìm tòi, phát hiện những cái mới khách quan. Khi tiến hành hoạt động học tập ở đại học, sinh viên không thể chỉ nhận thức thông thường mà phải tiến hành hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu trên cơ sở khả năng, tư duy độc lập, sáng tạo ở mức độ cao để chuẩn bị cho một ngành nghề chuyên môn nhất định. Vì vậy, hoạt động học tập của sinh viên còn gọi là hoạt động học tập nghề nghiệp. Vốn học vấn tiếp thu được trong thời kỳ này có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì nó là công cụ để sinh viên tham gia vào lĩnh vực nghề nghiệp sau này và là nền tảng cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu. Do đó, công tác quản lý hoạt động học tập phải làm thay đổi nhận thức của sinh viên về việc học ngay từ đầu khóa học, tăng cường các hoạt động giáo dục mục đích, động cơ học tập cho sinh viên, giúp sinh viên nhận thức rõ trách nhiệm và nghĩa vụ đối với việc học. Nhà trường phải tổ chức, quản lý hoạt động học của sinh viên theo lối khoa học và linh hoạt nhất, phối hợp với các tổ chức, cá nhân, gia đình sinh viên, giúp cho sinh viên từng bước lĩnh hội tri thức, kỹ năng vững chắc về nghề nghiệp để trở thành những công dân có ích cho xã hội. Trong đó, Hiệu trưởng là người chỉ đạo toàn diện mọi mặt hoạt động của trường đại học, bảo đảm thực hiện kế hoạch giáo dục - đào tạo có chất lượng và có hiệu quả. Thứ hai, hoạt động học tập của sinh viên là hoạt động mang tính tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức – học tập của mình nhằm thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức của bản thân, qua đó người học thể hiện mình, biến đổi mình, tự làm phong phú những giá trị của mình. Tính tự giác nhận thức thể hiện ở chỗ người học ý thức đầy đủ mục đích, nhiệm vụ học tập, qua đó, họ nỗ lực nắm vững tri thức trong việc lĩnh hội tri thức. Tính tích cực nhận thức là thái độ cải tạo của chủ thể đối tượng với khách thể thông qua huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập. Tính tích cực nhận thức vừa là mục đích, phương tiện, kết quả của hoạt động, vừa là phẩm chất hoạt động của cá nhân. Tùy theo sự huy động những chức năng tâm lý nào và mức độ sự huy động đó mà có thể diễn ra tính tích cực tái hiện, tính tích cực tìm tòi, tính tích cực sáng tạo. Tính chủ động nhận thức là sự sẵn sàng tâm lý hoàn thành những nhiệm vụ nhận thức – học tập, nó vừa là năng lực, vừa là phẩm chất tự tổ chức hoạt động học tập cho phép người học tự giải quyết vấn đề, tự kiểm tra, tự đánh giá hoạt động học tập của mình. Qua đó, cho phép người học học tập sự sẵn sàng tâm lý nhằm hoàn thành những nhiệm vụ nhận thức – học tập. Thực tế đã chứng minh những sinh viên có kết quả học tập tốt, có kiến thức chuyên môn vững vàng thường là những sinh viên rất chủ động, tích cực, tự giác trong hoạt động học tập của mình. Họ tích cực sử dụng thời gian rảnh rỗi để tìm tòi, nghiên cứu, đào sâu kiến thức chuyên môn, học
- thêm những tri thức cần thiết cho tương lai hoặc họ tham gia vào các hoạt động rèn luyện nhân cách của bản thân. Còn những sinh viên có kết quả học tập thấp thường bị động, thiếu tính tự giác, tích cực trong hoạt động học tập, họ thường sử dụng thời gian rảnh rỗi để vui chơi, tụ tập bạn bè, tham gia vào các hoạt động không bổ ích. Từ đó, công tác quản lý hoạt động học tập của trường đại học cần phải tập trung trang bị cho sinh viên động cơ học tập đúng đắn, cung cấp cho sinh viên những kỹ năng, phương pháp tự học ngay từ đầu khóa học như: kỹ năng xác định nội dung tự học hợp lý, khoa học; kỹ năng xây dựng kế hoạch học tập phù hợp với bản thân… Chính những điều này giúp cho sinh viên tự học đạt hiệu quả cao. Để việc tự học có hướng dẫn đạt hiệu quả cao thì đối với nhà quản lý giáo dục phải tuân thủ nghiêm ngặt những điều sau đây: Một là, phải tuyển sinh cho được những người học được chương trình đào tạo. Hai là, phải lo tạo động lực cho người học, giúp người học có sức chiến thắng các khó khăn, nhất là ở giai đoạn ban đầu. Ba là, không được làm gì để cho tư tưởng ỷ lại phát sinh ở họ, đặc biệt thi cử phải nghiêm túc để chặn đứng ở họ hi vọng được chiếu cố, được châm chước. Bốn là, tạo được những điều kiện tối thiểu (nhất là tài liệu giáo khoa) cho người học. Thứ ba, học ở bậc đại học, vấn đề căn bản, quan trọng nhất là phải tìm được phương pháp học cho phù hợp với bản thân từng sinh viên chứ không phải nhồi nhét kiến thức. Phương pháp như chiếc la bàn chỉ hướng cho người đi biển hay ở trong rừng rậm. Phương pháp là những nguyên tắc, cách thức để nắm bắt một vấn đề nào đó, hoàn thành một công việc nào đó, trong một thời gian xác định, một không gian cụ thể với những giải pháp có tính kinh tế. Sinh viên nào có được phương pháp học tập tốt sẽ đạt được kết quả tốt hơn trong học tập, tiết kiệm được thời gian, công sức. Điều này yêu cầu các trường đại học phải tổ chức hướng dẫn phương pháp học tập ở bậc đại học cho sinh viên như: cách đọc sách, tài liệu tham khảo; cách nghe giảng và ghi chép bài giảng; cách ghi nhớ thông tin; cách tập trung cao độ cho học tập; cách thức tiến hành một hoạt động học tập… Thứ tư, ngày nay, trong thời đại của công nghệ thông tin và nền kinh tế tri thức, hoạt động học tập của sinh viên còn có những đặc điểm sau: – Do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và sự bùng nổ thông tin nên nội dung dạy học ở các trường có xu hướng mở rộng các môn học mang tính liên ngành, đòi hỏi phải tăng cường hoạt động học tập để đáp ứng yêu cầu về tri thức. – Khối lượng thông tin tăng nhanh và vô cùng phong phú, điều đó đòi hỏi nhà trường phải thay đổi cách dạy và học, việc dạy không chỉ nhằm truyền thụ kiến thức mà phải dạy cho sinh viên
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ giáo dục: Bồ dưỡng phương pháp thực nghiệm Vật lý cho học sinh khi dạy học một số kiến thức chương "chất khí" Vật lý 10, chương trình chuẩn
134 p | 593 | 134
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường trung học cơ sở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
97 p | 794 | 131
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
26 p | 461 | 115
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
170 p | 552 | 105
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trò chơi dân gian
123 p | 702 | 96
-
Luận văn thạc sĩ Giáo dục học: Khảo sát các kỹ thuật dạy môn biên dịch tại khoa tiếng Anh trường Đại học Tây Nguyên
70 p | 850 | 94
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng ở các trường trung học phổ thông huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
157 p | 491 | 90
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên các Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương
145 p | 294 | 67
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường trung học văn hóa nghệ thuật Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay
26 p | 453 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc cho trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh
167 p | 350 | 61
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình
122 p | 303 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phối hợp quản lý giáo dục đạo đức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và nhà trường đối với học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh
72 p | 248 | 56
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trung học phổ thông các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay
13 p | 338 | 55
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh
164 p | 368 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực dạy trẻ làm quen biểu tượng toán học cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non
116 p | 260 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên trong việc tổ chức hoạt động giáo dục tại một số trường mầm non nội thành thành phố Hồ Chí Minh
201 p | 175 | 34
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sử dụng phương pháp kỷ luật tích cực trong giáo dục học sinh trường trung học phổ thông Huyện Thanh Ba - Tỉnh Phú Thọ
107 p | 47 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục trên địa bàn huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương
70 p | 129 | 14
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn