intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Tổ chức dạy học theo dự án một số kiến thức thuộc phần “Từ trường và cảm ứng điện từ” – Học phần Điện và từ đại cương cho sinh viên ngành Kỹ thuật Trường Đại học Giao thông

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:163

108
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Tổ chức dạy học theo dự án một số kiến thức thuộc phần “Từ trường và cảm ứng điện từ” – Học phần Điện và từ đại cương cho sinh viên ngành Kỹ thuật Trường Đại học Giao thông nghiên cứu việc tổ chức dạy học dự án một số nội dung kiến thức thuộc phần “Từ trường và cảm ứng điện từ” - Học phần Điện và từ đại cương nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của người học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Tổ chức dạy học theo dự án một số kiến thức thuộc phần “Từ trường và cảm ứng điện từ” – Học phần Điện và từ đại cương cho sinh viên ngành Kỹ thuật Trường Đại học Giao thông

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH _______________ Nguyễn Thanh Nga TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO DỰ ÁN MỘT SỐ KIẾN THỨC THUỘC PHẦN “TỪ TRƯỜNG VÀ CẢM ỨNG ĐIỆN TỪ” – HỌC PHẦN ĐIỆN VÀ TỪ ĐẠI CƯƠNG CHO SINH VIÊN NGÀNH KỸ THUẬT TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH _______________ Nguyễn Thanh Nga TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO DỰ ÁN MỘT SỐ KIẾN THỨC THUỘC PHẦN “TỪ TRƯỜNG VÀ CẢM ỨNG ĐIỆN TỪ” – HỌC PHẦN ĐIỆN VÀ TỪ ĐẠI CƯƠNG CHO SINH VIÊN NGÀNH KỸ THUẬT TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ HƯƠNG TRÀ Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
  3. LỜI CẢM ƠN Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đỗ Hương Trà, người đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tác giả luận văn xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Ban Chủ nhiệm khoa Vật lý Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Giám đốc trường Đại học giao thông vận tải – cơ sở 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, thầy cô và các học viên cao học cùng lớp đã động viên, giúp đỡ tác giả trong thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 08 năm 2009 Tác giả
  4. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong thời đại ngày nay, thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật hiện đại, những thành tựu của nó gần như được áp dụng ngay lập tức vào tất cả các lĩnh vực, là động lực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt của đời sống xã hội. Để đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của xã hội, đòi hỏi con người không ngừng học hỏi, nâng cao tri thức và kỹ năng của mình. Sứ mệnh đó đã đặt lên vai ngành giáo dục một trọng trách lớn lao: đào tạo con người đáp ứng yêu cầu xã hội ngày càng phát triển. Giáo dục hiện đại đang đứng trước yêu cầu và thách thức lớn lao của xã hội hiện đại. Trong trường đại học, việc học tập của sinh viên không thể là thụ động tiếp thu bài giảng của giảng viên mà phải là sự tham gia tích cực vào các hoạt động học tập, độc lập sáng tạo, tích cực tham gia các hoạt động tập thể để có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất và xã hội sau này. Việc dạy của giảng viên không chỉ là cung cấp kiến thức, mà phải tạo cho sinh viên có cơ hội tham gia khám phá thế giới thực, phân tích và giải quyết vấn đề. Kết quả cần rèn luyện cho sinh viên là tính năng động cá nhân, tư duy sáng tạo, năng lực thực hành giỏi, khả năng hợp tác, khả năng giải quyết các vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Thời gian qua, giáo dục nước ta đã và đang thực hiện những thay đổi trong toàn bộ quá trình dạy học: mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức thực hiện, đánh giá. Việc đổi mới phương pháp nhằm phát triển con người toàn diện hơn, đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hoà nhập vào sự tiến bộ chung của khu vực và trên thế giới. Điều đó đã được khẳng định trong luật giáo dục, điều 28.2 Luật giáo dục ghi rõ: “…Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”[9]; đối với giáo dục đại
  5. học, điều 40.2 ghi rõ: “...Phương pháp đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học phải coi trọng việc bồi dưỡng ý thức tự giác trong học tập, năng lực tự học, tự nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tạo điều kiện cho người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”[9]. Một lần nữa, nghị quyết TW2 khoá VIII khẳng định: “...Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào trong quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất là sinh viên đại học”[5]. Nhiệm vụ của hệ thống giáo dục đại học là đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, có đạo đức trong sáng, năng động, nhạy bén, có khả năng tiếp thu nhanh chóng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại. Đó là lực lượng lao động nòng cốt đưa đất nước phát triển kịp với xu thế phát triển của thời đại. Để đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước, giáo dục đại học tất yếu phải luôn đổi mới cả về nội dung lẫn phương pháp, rèn luyện cho sinh viên kỹ năng giải quyết các vấn đề thực tiễn một cách linh hoạt .Đổi mới phải được xem là mệnh lệnh của cuộc sống nếu không muốn đất nước bị tụt hậu. Tuy nhiên, nhìn chung giáo dục đại học của nước ta vẫn chậm đổi mới so với xu hướng đổi mới chung của giáo dục, nhất là đối với các môn học đại cương ở các trường Đại học kỹ thuật. Cụ thể: - Về nội dung giáo trình giảng dạy: vẫn là các giáo trình cũ được chỉnh sửa đôi chút, các kiến thức rất cũ, việc cập nhật các kiến thức mới còn hạn chế, các kiến thức mà sinh viên tiếp thu được rất khó liên hệ với thực tế. - Về phương pháp dạy học: vẫn là cách dạy học truyền thống - thầy đọc , giảng giải; trò ghi chép cẩn thận, học thuộc. Sinh viên rất ít có thời gian tự nghiên cứu, tự học, thực hiện các nhiệm vụ học tập phức hợp gắn liền với thực tiễn. - Về hình thức kiểm tra, đánh giá: điểm thi kết thúc học phần chiếm đến 80% tổng số điểm của học phần, còn 20% là điểm chuyên cần và làm thí nghiệm. Như vậy, không có điểm đánh giá quá trình thực hiện nhiệm vụ học tập của sinh viên,
  6. cũng như điểm kỹ năng giải quyết các vấn đề thực tiễn liên quan đến nội dung học tập. Từ thực tiễn dạy học Vật lý ở trường Đại học GTVT, chúng tôi nhận thấy khi giảng dạy các học phần đại cương nói chung, Vật lý đại cương nói riêng, các giảng viên hầu như chỉ tập trung giảng giải, trình bày, thông báo các kiến thức để sinh viên vận dụng giải các bài tập thuần tuý lý thuyết mà ít liên hệ đến các ứng dụng thực tế, có chăng chỉ là giới thiệu mang tính đại khái, chung chung để cho sinh viên biết…Hầu như không có giảng viên nào giao cho sinh viên các nhiệm vụ học tập phức hợp, vận dụng nội dung kiến thức bài học và kiến thức liên môn để giải quyết vấn đề trong thực tế, qua đó sinh viên phải tự nghiên cứu, lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, cộng tác với bạn bè và thầy cô để có thể giải quyết được vấn đề đặt ra, từ đó sinh viên tự trang bị cho mình kỹ năng vận dụng kiến thức (được học, tự nghiên cứu) để giải quyết linh hoạt các vấn đề thực tiễn, tạo sự say mê, hứng thú ở chính người học. Trong học phần Điện và Từ đại cương dành cho sinh viên các trường Đại học kỹ thuật, một số kiến thức phần Từ trường và Cảm ứng điện từ có rất nhiều ứng dụng hay và lý thú. Người học sẽ học tập tích cực hơn nếu các kiến thức được vận dụng vào giải quyết những vấn đề cụ thể, thực tế, điều đó làm cho các kiến thức trở nên có nghĩa đối với người học, khơi dậy lòng say mê, hứng thú ở họ. Với mục đích trang bị cho sinh viên kiến thức vững chắc, rèn luyện kỹ năng giải quyết các vấn đề thực tế đặt ra, khơi dậy tính tích cực, tự chủ của sinh viên thì việc tổ chức dạy học dự án sẽ đem lại hiệu quả cao. Dạy học dự án (DHDA) là một hình thức dạy học quan trọng để thực hiện quan điểm dạy học định hướng vào người học, quan điểm dạy học định hướng hoạt động và quan điểm dạy học tích hợp. DHDA góp phần gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội, tham gia tích cực vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần trách nhiệm và khả năng cộng tác làm việc của người học.
  7. Ở Việt Nam, các đề án môn học, đề án tốt nghiệp từ lâu cũng đã được sử dụng trong đào tạo đại học, các hình thức này gần gũi với dạy học theo dự án. Tuy vậy trong lĩnh vực dạy học, DHDA này chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thích đáng, nên việc sử dụng chưa đạt hiệu quả cao. Một vài năm gần đây, tuy đã có một số nghiên cứu vận dụng dạy học dự án vào dạy học một số kiến thức vật lí nhưng tập trung chủ yếu vào dạy học với đối tượng học sinh phổ thông. Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: Tổ chức dạy học dự án một số kiến thức thuộc phần “Từ trường và Cảm ứng điện từ” - học phần Điện và Từ đại cương cho sinh viên ngành kỹ thuật trường Đại học Giao thông. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu việc tổ chức dạy học dự án một số nội dung kiến thức thuộc phần “Từ trường và Cảm ứng điện từ”- học phần Điện và Từ đại cương nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của người học, hướng tới phát triển kỹ năng tư duy bậc cao, rèn luyện cho sinh viên khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Hoạt động dạy học của giảng viên và sinh viên trường Đại học GTVT trong tiến trình dạy học một số kiến thức phần “Từ trường và Cảm ứng điện từ”- học phần Điện và Từ đại cương theo mô hình dạy học dự án. 4. Tổng quan lịch sử vấn đề nghiên cứu Phương pháp dạy học PBL (Project – Based Learning) là mô hình dạy học mới xuất hiện cách đây khoảng 25 năm trên nước Mỹ nhằm thay thế cho lối học truyền thống lúc bấy giờ. Với lớp học truyền thống một bài học diễn ra chỉ trong thời gian ngắn (chỉ 1 tiết hay 2 tiết học), tách biệt với bên ngoài và người thầy là trung tâm của quá trình dạy học. Còn với phương pháp PBL thì tạo ra một lớp học tích cực hơn, phát huy tính chủ động của người học trong quá trình học tập, bài học được thay thế bằng những dự án có thời gian kéo dài, tích hợp được nhiều môn học, ngành học có liên quan. Trong đó, người học là trung tâm của quá trình dạy học.
  8. Nội dung của bài học dưới dạng một dự án, người học phải tự thực hiện dưới sự hướng dẫn của giáo viên, phải liên hệ với thực tiễn cuộc sống xung quanh các em. * Mục tiêu của dạy học dự án Dạy học dự án hướng tới phát triển các kỹ năng tư duy bậc cao (phân tích, tổng hợp, đánh giá) cho người học. * Các đặc điểm của dạy học dự án: - Chủ đề của dự án gắn với thực tiễn, kết quả dự án có ý nghĩa thực tiễn-xã hội. - Chủ đề và nội dung của dự án phù hợp với hứng thú của người học. - Người học tham gia tích cực và tự lực vào tất cả các giai đoạn của quá trình dạy học: đề xuất vấn đề,lập kế hoạch giải quyết vấn đề, giải quyết vấn đề và trình bày kết quả thực hiện. - Kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, huy động nhiều giác quan. - Đó là những sản phẩm hành động có thể công bố, giới thiệu được. - Nội dung dự án có sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc các môn học khác nhau. - Các dự án học tập thường được thực hiện theo nhóm. Trong những năm gần đây, chương trình dạy học cho tương lai do Intel tổ chức cũng đã nhấn mạnh vai trò của dạy học dự án, đã thu hút được đông đảo các quốc gia trên thế giới tham gia, trong đó có Việt nam, bước đầu đã thu được thành công. Ở Việt nam đã có nhiều đề tài nghiên cứu lý luận và tổ chức dạy học dự án, có thể kể một số công trình như: “Dạy học theo dự án-một phương pháp có chức năng kép trong đào tạo giáo viên” của hai tác giả Nguyễn Văn Cường và Nguyễn Thị Diệu Thảo (tạp chí GD; 2004/ số 80.15-17), tác giả tiếp cận dạy học dự án từ góc độ lý luận. “Dạy học dự án và tiến trình thực hiện” của tác giả Đỗ Hương Trà (tạp chí GD; 2007/ số 157.12-14, 23).Tác giả đã đưa ra tiến trình thực hiện dạy học dự án, thông qua đó để vận dụng vào tổ chức dạy học dự án một cách hiệu quả.
  9. “Đặc điểm cấu trúc của dạy học dự án và kết quả việc vận dụng vào dạy học môn kỹ thuật số” của tác giả Lê Văn Hồng ( tạp chí GD; 2006/ số 133.31-32,17), tác giả đã nghiên cứu lý luận của dạy học dự án và vận dụng vào dạy môn kỹ thuật số bước đầu đã thu được thành công. “Project-Based Learning (PBL) và việc ứng dụng vào dạy học môn Vật lý ở trường phổ thông Việt Nam trong tương lai” của tác giả Hồ Thanh Liêm, luận văn tốt nghiệp đại học tháng 6/2005 Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, trong đó đã tổ chức soạn thảo dạy học dự án chương “Dòng điện trong các môi trường” thuộc chương trình Vật lý lớp 11 nhưng chưa tiến hành thực nghiệm sư phạm. “Tổ chức dạy học các kiến thức phần Những định luật cơ bản của dòng điện không đổi cho học sinh lớp 11 THPT theo quan điểm của dạy học dự án” của tác giả Nguyễn Văn Nghĩa, luận văn tốt nghiệp ĐH tháng 6/2006 ĐHSP Hà Nội, tác giả đã tổ chức được một số nội dung kiến thức đó là dự án lắp mạch điện cho phòng học và dự án tìm hiểu cấu tạo của pin điện hoá nhưng chưa tiến hành thực nghiệm với học sinh. Một số đề tài luận văn nghiên cứu việc tổ chức dạy học dự án các kiến thức liên quan đến phần Điện và Từ như: “Tổ chức dạy học dự án một số nội dung kiến thức chương Cảm ứng điện từ sách giáo khoa Vật lí lớp 11 THPT nhằm phát triển hoạt động nhận thức tích cực, tự chủ của học sinh trong học tập” của tác giả Đào Thị Thu Thuỷ, luận văn thạc sỹ, 2005. Tác giả đã tiến hành nghiên cứu cơ sở lý luận của dạy học dự án và tổ chức thực nghiệm cho học sinh trường THPT NK Trần Phú, Hải Phòng, qua đó gây được hứng thú học tập cho học sinh. Trong nghiên cứu “Tổ chức hoạt động dạy học chương Chuyển động của hạt mang điện trong điện trường và từ trường - học phần điện và từ đại cương, nhằm phát huy tính tích cực, tự chủ của người học” của tác giả Phùng Việt Hải (luận văn thạc sỹ, 2007), tác giả đã tiến hành thiết kế các hoạt động dạy học dựa trên cơ sở lí luận của dạy học dự án và đã thu được những kết quả khả quan trong việc phát huy tính tích cực, tự chủ và sáng tạo của người học.
  10. Trong những năm gần đây, các giảng viên ở các trường Đại học sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, Đại học sư phạm Hà Nội đã giảng cho sinh viên về mô hình dạy học dự án và tổ chức thực hiện dạy học dự án cho đối tượng sinh viên, thu hút được sự tham gia tích cực, khơi dậy lòng say mê, hứng thú của người học. Ngày 26/03/2005, Sở GD-ĐT TPHCM đã tổ chức hội thảo về mô hình dạy học dự án tại trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai - nơi mô hình dạy học này được triển khai mạnh mẽ nhất. Bên cạnh đó còn có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác và một số học viên cao học đã vận dụng quan điểm của dạy học dự án vào tổ chức dạy học ở một số trường tại Thành Phố Hồ Chí Minh và Hà Nội…bước đầu đã thu được nhiều thành công trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự chủ của người học, lôi cuốn người học vào thực hiện dự án học tập một cách tự giác. 5. Giả thuyết khoa học Dựa trên cơ sở lí luận của dạy học dự án cũng như dựa trên việc phân tích các nội dung kiến thức cần dạy thì có thể tổ chức dạy học dự án một số kiến thức phần Từ trường và Cảm ứng điện từ- học phần Điện và Từ đại cương cho sinh viên ngành kỹ thuật nhằm phát huy tính tính cực, tự chủ và kích thích hứng thú cho người học. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu bản chất của hoạt động dạy học nói chung, bản chất của hoạt động dạy học Vật lý nói riêng. - Nghiên cứu cơ sở lý luận của dạy học dự án, quá trình thiết kế dự án, quá trình hướng dẫn người học lập dự án vào việc tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát triển các hoạt động nhận thức tích cực, tự chủ của sinh viên. - Điều tra ban đầu để phân tích những thuận lợi, khó khăn của giảng viên và sinh viên trường Đại học GTVT khi dạy học các kiến thức phần Từ trường và Cảm ứng điện từ- học phần Điện và Từ đại cương.
  11. - Nghiên cứu nội dung kiến thức phần Từ trường và Cảm ứng điện từ- giáo trình Vật lý đại cương và các tài liệu khoa học liên quan. - Vận dụng dạy học dự án vào việc soạn thảo tiến trình dạy học một số kiến thức phần Từ trường và Cảm ứng điện từ- học phần Điện và Từ đại cương, phát huy tính tích cực, tự chủ của sinh viên trong quá trình học tập. - Tiến hành thực nghiệm sư phạm theo tiến trình đã soạn thảo để đánh giá hiệu quả của nó đối với việc phát huy tính tích cực, tự chủ của người học. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1.Nghiên cứu lý luận - Nghiên cứu các tài liệu về tâm lí học, lý luận dạy học đại học, lý luận dạy học hiện đại, lý luận dạy học Vật lý, các văn kiện đại hội Đảng về đổi mới giáo dục, các bài báo, tạp chí có liên quan... - Nghiên cứu giáo trình Vật lý đại cương, học phần “Điện và Từ đại cương”, trọng tâm là các kiến thức phần Từ trường và Cảm ứng điện từ và các tài liệu khoa học liên quan. - Nghiên cứu việc ứng dụng các kiến thức Từ trường và Cảm ứng điện từ vào trong thực tế. - Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến việc tích hợp công nghệ, sử dụng các phần mềm tin học hỗ trợ, nhằm phát huy tối đa hiệu quả của dạy học. 7.2. Điều tra Dự giờ, quan sát, điều tra thực trạng dạy học kiến thức phần Từ trường và Cảm ứng điện từ đại cương của giảng viên và sinh viên trường Đại học GTVT. 7.3. Nghiên cứu thực nghiệm Tiến hành thực nghiệm sư phạm trên đối tượng là sinh viên trường Đại học GTVT. Sau đó dùng thống kê toán học để trình bày kết quả thực nghiệm sư phạm và kiểm định giả thuyết thống kê.Từ đó khẳng định hiệu quả của tiến trình dạy học đã soạn thảo đối với việc phát huy tính tích cực, tự lực của người học.
  12. 8. Những đóng góp mới của luận văn - Cụ thể hoá cơ sở thực tiễn của việc vận dụng dạy học dự án trong tổ chức dạy học các nội dung kiến thức Vật lý. - Soạn thảo được tiến trình dạy học dự án một số kiến thức trong phần “Từ trường và Cảm ứng điện từ”- học phần Điện và Từ đại cương. - Cung cấp số liệu và thông tin khoa học làm phong phú thêm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. - Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lý ở đại học theo tinh thần của dạy học hiện đại.
  13. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA DẠY HỌC DỰ ÁN 1.1. Bản chất của hoạt động dạy học 1.1.1. Bản chất của hoạt động học 1.1.1.1. Khái niệm hoạt động học Khi nói đến hoạt động học cần làm rõ khái niệm học và khái niệm hoạt động học. - Trong cuộc sống đời thường con người luôn luôn có quá trình tiếp thu, tích luỹ những kinh nghiệm sống, trên cơ sở đó tạo nên những tri thức tiền khoa học, làm cơ sở tiếp thu những khái niệm khoa học ở trong nhà trường. Đó chính là việc học, là cách học theo phương pháp của cuộc sống thường ngày, giống như con người khi sinh ra đến khi chết lúc nào cũng phải học ăn học nói học gói học mở, đi một ngày đàng học một sàng khôn… - Trên thực tế, chỉ có phương thức đặc thù ( phương thức nhà trường) mới có khả năng tổ chức để cá nhân tiến hành hoạt động đặc biệt đó là hoạt động học, qua đó hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học, năng lực mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn; và trong tâm lý học sư phạm, hoạt động học là khái niệm chính được dùng để chỉ hoạt động học diễn theo phương thức đặc thù, nhằm chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. 1.1.1.2. Bản chất của hoạt động học Hoạt động học tập là hoạt động chuyên hướng vào sự tái tạo lại tri thức ở người học. Sự tái tạo ở đây hiểu theo nghĩa là phát hiện lại. Sự thuận lợi cho người học ở đây đó là con đường để phát hiện lại đã được các nhà khoa học tìm hiểu trước, giờ người học chỉ việc tái tạo lại. Và để tái tạo lại, người học không có cách gì khác đó là phải huy động nội lực của bản thân (động cơ, ý chí, …), càng phát huy nội lực của bản thân cao bao nhiêu thì việc tái tạo lại kiến thức càng diễn ra tốt bấy nhiêu. Do đó hoạt động học làm thay đổi chính người học. Ai học thì người đó phát triển, không ai học thay thế được, người học cần phải có trách nhiệm với chính bản thân mình, vì mình trong quá trình học. Hoạt động học có thể cũng có thể làm thay
  14. đổi khách thể nhưng như thế không phải là mục đích tự thân của hoạt động học mà chính là phương tiện để đạt được mục đích làm thay đổi chính chủ thể của hoạt động. Hoạt động học là hoạt động tiếp thu những tri thức lý luận, khoa học. Nghĩa là việc học không chỉ dừng lại ở việc nắm bắt những khái niệm đời thường mà học phải tiến đến những tri thức khoa học, những tri thức có tính chọn lựa cao, đã được khái quát hoá, hệ thống hoá. Hoạt động học tập không chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân hoạt động học. Hoạt động học muốn đạt kết quả cao, người học phải biết cách học, phương pháp học, nghĩa là phải có những tri thức về chính bản thân hoạt động học. Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh, sinh viên. Do đó nó giữ vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển tâm lý của người học trong lứa tuổi này. 1.1.1.3. Đối tượng của hoạt động học Chủ thể của hoạt động học là người học thì đối tượng của hoạt động học hướng tới đó là tri thức. Nhưng tri thức mà người học phải học được lựa chọn từ những khoa học khác nhau, theo những nguyên tắc nhất định, làm thành những môn học tương ứng và được cụ thể ở những đơn vị cấu thành như: khái niệm, kĩ năng, thái độ… Đối tượng của hoạt động học có liên quan chặt chẽ với đối tượng của khoa học. Tuy vậy, có sự khác nhau về nguyên tắc giữa hoạt động học và hoạt động nghiên cứu khoa học. Hoạt động học là hoạt động tái tạo lại những tri thức đã có từ trước ở người học, còn hoạt động nghiên cứu khoa học đó là phát hiện những chân lý khoa học mà loài người chưa biết đến. Có thể nói: đối tượng của hoạt động học là cái mới với cá nhân người học nhưng không mới đối với nhân loại. 1.1.1.4. Phương tiện học tập Hoạt động bao giờ cũng hướng tới một đối tượng cụ thể, và chủ thể phải có những phương tiện, những điều kiện cụ thể để chiếm lĩnh đối tượng. Trong hoạt
  15. động học tập, ngoài những phương tiện như: giấy, bút, sách, giáo trình, máy tính… nó còn mang tính chất đặc thù của hoạt động học tập đó là mọi yếu tố của nó đều được hình thành trong quá trình học tập. Phương tiện học tập không có sẵn trong tâm lý chủ thể mà hình thành chính trong quá trình chủ thể tham gia hoạt động học tập. Phương tiện chủ yếu của hoạt động học tập đó là các hành động học tập: so sánh, phân loại, phân tích, khái quát hoá. Tâm lý học đã khẳng định so sánh, phân loại là những hành động học tập, là phương tiện đắc lực cho việc hình thành những khái niệm kinh nghiệm, còn phân tích, khái quát hoá là phương tiện để hình thành nên những khái niệm khoa học. Cần nhấn mạnh rằng trong hoạt động học, phương tiện chủ yếu là tư duy. Trong giáo dục, tất cả các hình thức tư duy đều quan trọng và cần thiết. 1.1.1.5. Điều kiện học tập Hoạt động học muốn được diễn ra phải có điều kiện của nó. Điều kiện đầu tiên đó là có sự tham gia của các yếu tố bên ngoài (ngoại lực) như: có sự hướng dẫn của thầy, sách, vở, bút, máy tính, giáo trình… Điều kiện thứ hai đó là có sự vận động của chính bản thân người học hay còn gọi là yếu tố nội lực. Đó là những tri thức mà người học học được, trình độ trí tuệ hiện có của người học, động cơ, ý chí, hứng thú của người học… Khi có đầy đủ những điều kiện đó, người học dù trong hoàn cảnh có thầy với trò, hay không có sự có mặt của thầy thậm chí khi ra trường, hoạt động học vẫn diễn ra. Từ đó có thể hiểu học là quá trình tương tác các yếu tố ngoại lực và yếu tố nội lực thông qua hoạt động dạy và học. Trong đó, yếu tố nội lực ở đây đóng vai trò quan trọng trong hoạt động học của người học. 1.1.1.6. Sự hình thành hoạt động học tập i) Động cơ học tập Các yếu tố của hoạt động học được hình thành trong chính hoạt động học. Nói đến hình thành hoạt động học, trước hết phải nói đến sự hình thành động cơ học tập.
  16. - Hoạt động học với chủ thể là người học, còn đối tượng của nó là những tri thức khoa học, với mục tiêu cuối cùng là hình thành nhân cách cho người học. Chủ thể khi tiến hành hoạt động học, chiếm lĩnh tri thức thì chính tri thức đó trở thành cái tinh thần, thôi thúc người học. Vì vậy có thể hiểu động cơ học tập là sức mạnh tinh thần điều khiển, điều chỉnh hoạt động học nhằm chiếm lĩnh tri thức khoa học, để thoả mãn nhu cầu nào đó của người học. - Động cơ của hoạt động học tập ở học sinh, sinh viên được hiện thân ở những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà giáo dục ở nhà trường mang lại cho họ. Trong thực tiễn giáo dục, động cơ học tập được chia thành hai loại: động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan hệ xã hội. + Động cơ hoàn thiện tri thức là lòng ham mê, khát khao mở rộng tri thức, say mê với những môn học... Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ này nó không chứa những mâu thuẫn bên trong và nó đòi hỏi phải có những nỗ lực ý chí để đạt được nguyện vọng chứ không phải hướng vào đấu tranh với chính bản thân mình. + Động cơ quan hệ xã hội đó là sự thưởng phạt hoặc đe doạ, những áp lực gia đình, nhà trường, công việc, sự hiếu danh hoặc mong đợi sự hạnh phúc. Ở mức độ nào đó động cơ này mang tính cưỡng bách, và có lúc xuất hiện như một vật cản cần vượt qua để đạt được mục đích của mình. Xét về mặt lý luận, mỗi hoạt động được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định. Hoạt động học hướng đến là những tri thức khoa học, thì chính nó (tức là đối tượng của hoạt động học) trở thành động cơ của hoạt động ấy. Động cơ hoàn thiện tri thức là động cơ chính của hoạt động học tập. Nhưng trên thực tế còn có động cơ quan hệ xã hội. Nó “bám vào”, “hiện thân” trên động cơ hoàn thiện tri thức, trở thành một bộ phận của động cơ hoàn thiện tri thức. Khi động cơ hoàn thiện tri thức được đáp ứng thì đồng nghĩa với nó là động cơ quan hệ xã hội cũng được thoả mãn. Cả hai loại động cơ này đều xuất hiện trong quá trình học tập và trong từng hoàn cảnh cụ thể, tuỳ theo điều kiện nào đó mà động cơ này hay động cơ kia chiếm vị trí quan trọng hơn, nổỉ lên và chiêm ưu thế trong thứ bậc động cơ. Sự phân chia động cơ
  17. như vậy chỉ có tính chất tương đối. ii) Mục đích học tập. Theo tâm lý học hoạt động, mục đích được hiểu là cái mà hành động đang diễn ra hướng tới. Hoạt động học được thúc đẩy bởi động cơ và nó được tiến hành dưới các hành động học. Vì vậy, mục đích của hoạt động học là các khái niệm, các giá trị, các chuẩn mực...mà hành động học đang diễn ra hướng đến nhằm đạt được nó. Quá trình hình thành mục đích bắt đầu từ việc hình thành trong chủ thể dưới các dạng là các biểu tượng, sau đó được tổ chức để hiện thực hoá biểu tượng trên thực tế, và khi thực tế có hoàn thành được thì mục đích được hoàn thành. Mục đích của hoạt động học cũng được hình thành như vậy, chỉ có điều nó có tính đặc thù riêng đó là việc hình thành mục đích học tập hướng đến là để thay đổi chính chủ thể ở đây là người học. Mục đích này chỉ có thể được bắt đầu hình thành khi chủ thể bắt đầu bắt tay vào thực hiện hành động học tập của mình. Trên con đường chiếm lĩnh đối tượng nó luôn diễn ra quá trình chuyển hoá giữa mục đích và phương tiện học tập. Mục đích bộ phận được thực hiện đầy đủ thì nó lại trở thành công cụ để chiếm lĩnh các mục đích tiếp theo. iii) Sự hình thành các hành động học tập Học là một quá trình, do đó khi nói đến hoạt động học là phải nói đến sự hình thành các hành động học tập. Hành động học ở đây được hiểu là hành động trí óc nhằm chiếm lĩnh tri thức. Hành động học có rất nhiều các hành động khác nhau, và bản chất nhất, cơ bản nhất có các hành động chính sau: - Hành động phân tích: tìm ra nguồn gốc nội tại, cấu trúc lôgíc của đối tượng. - Hành động mô hình hoá: giúp con người diễn đạt các khái niệm một cách trực quan, nó bao gồm mô hình gần giống với vật thật, mô hình tượng trưng, mô hình mã hoá, nó được dùng nhiều trong sinh học… - Hành động cụ thể hoá: nhằm vận dụng giúp người học hiểu được rõ nhất bản chất của vấn đề, giải quyết những vấn đề trong mối liên hệ cụ thể từng lĩnh vực.
  18. 1.1.1.7. Đặc điểm chung của hoạt động học tập của sinh viên - Hoạt động học tập của sinh viên có tính chất độc đáo về mục đích và kết quả hoạt động. Đó là, khác với lao động, học tập không làm thay đổi đối tượng mà thay đổi chính bản thân mình. Sinh viên học tập để tiếp thu các tri thức khoa học, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách người chuyên gia tương lai. - Hoạt động học tập được diễn ra trong điều kiện có kế hoạch vì nó phụ thuộc vào nội dung, chương trình, mục tiêu, phương thức và thời hạn đào tạo. - Phương tiện hoạt động học tập là thư viện, sách vở, máy tính… - Tâm lý diễn ra trong hoạt động học tập của sinh viên với nhịp độ căng thẳng, mạnh mẽ về trí tuệ. - Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập cao. Cốt lõi của hoạt động học tập của sinh viên là sự tự ý thức về động cơ mục đích, biện pháp học tập. 1.1.1.8. Tính tích cực trong hoạt động học của sinh viên Việc tạo ra tính tích cực học tập của sinh viên là nhiệm vụ chủ yếu của người thầy giáo trong nhà trường đại học. Một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng mạnh tới tính tích cực hoạt động tập của sinh viên là do sự vận dụng một cách thích hợp phương pháp giảng dạy của thầy. Theo Thái Duy Tiên thì "Tính tích cực học tập của sinh viên là tập hợp các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người sinh viên từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức, để nâng cao hiệu quả học tập"[24]. Tính tích cực học tập của sinh viên được thể hiện qua một số đặc điểm cơ bản sau: - Trong giờ học sinh viên có chú ý tới bài giảng hay không. - Mức độ tự giác tham gia vào xây dựng bài học, trao đổi thảo luận, ghi chép. - Thực hiện tốt các nhiệm vụ học tập được giao. - Hiểu bài và có thể trình bày lại theo cách hiểu của mình. - Có hứng thú học tập. - Biết vận dụng những tri thức được học vào thực tiễn. - Có sáng tạo trong quá trình học tập.
  19. 1.1.2. Bản chất của hoạt động dạy Trong phạm vi nhà trường, hoạt động dạy là hoạt động của người thầy - định hướng, tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức, học tập của người học, giúp người học tìm tòi, khám phá tri thức tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách ở bản thân. Theo giáo sư Phạm Hữu Tòng “… bản chất của hoạt động dạy học là dạy hành động – hành động chiếm lĩnh tri thức và hành động vận dụng tri thức, và do đó trong dạy học, giáo viên cần tổ chức các tình huống học tập đòi hỏi sự thích ứng của người học để qua đó người học chiếm lĩnh được tri thức, đồng thời phát triển trí tuệ và nhân cách toàn diện của mình”[34]. 1.1.3. Sự tương tác trong hệ dạy - học Trong sự tương tác của hệ dạy học, mỗi hành động của người học diễn ra theo các pha: “Định hướng- chấp hành- kiểm tra”. Trong đó, sự định hướng có vai trò quan trọng đối với chất lượng và hiệu quả của hành động. Người thầy có vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ cho sự hình thành cơ sở định hướng khái quát hành động của người học Có thể mô tả sự tương tác trong hệ dạy học bằng sơ đồ hình 1.1: Định hướng NGƯỜI DẠY NGƯỜI HỌC Liên hệ ngược Liên Cung Tổ hệ Thích cấp tư chức ngược ứng liệu tạo tình huống TƯ LIỆU HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC (MÔI TRƯỜNG) Hình 1.1. Sơ đồ mô tả sự tương tác trong hệ dạy-học
  20. Trong sự vận hành của hệ tương tác dạy học, hành động của người thầy với tư liệu hoạt động dạy học là khâu tổ chức, cung cấp tư liệu, tạo tình huống có vấn đề cho hoạt động của người học. Hành động dạy của người thầy có tác dụng trực tiếp tới người học, đó là sự định hướng đối với hành động của người học, sự tương tác, trao đổi, tranh luận giữa người học với nhau và qua đó cung cấp những thông tin liên hệ ngược từ phía người học cho giáo viên. Còn hành động học của người học đối với tư liệu hoạt động dạy học là sự thích ứng của người học với tình huống học tập thích đáng nhằm chiếm lĩnh tri thức. Sự tương tác của người học với tư liệu còn đem lại cho giáo viên những thông tin liên hệ ngược cần thiết cho sự chỉ đạo của giáo viên đối với người học. 1.1.4. Bản chất của hoạt động dạy học ở đại học Bản chất của hoạt động dạy học ở đại học là quá trình nhận thức độc đáo có tính chất nghiên cứu của sinh viên được tiến hành dưới vai trò tổ chức và điều khiển của giáo viên nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học ở đại học. Tính chất nghiên cứu của sinh viên trong quá trình học tập ở đại học được thể hiện ở những điểm sau: - Trong quá trình học tập ở đại học, sinh viên phải tự mình chiếm lĩnh hệ thống các tri thức, kỹ năng, phải nắm vững cơ sở của nghề nghiệp tương lai ở trình độ đại học và có tiềm năng vươn lên thích ứng với những yêu cầu trước mắt và lâu dài do thực tiễn xã hội đặt ra. - Khi tiến hành hoạt động học tập, sinh viên không chỉ có năng lực nhận thức thông thường mà cần tiến hành các hoạt động nhận thức mang tính nghiên cứu trên cơ sở khả năng tư duy độc lập, sáng tạo phát triển ở mức độ cao. Điều đó có nghĩa là dưới vai trò hướng dẫn của người thầy, sinh viên không tiếp thu một cách máy móc những chân lý có sẵn mà họ có khả năng tiếp nhận chân lý đó với óc phê phán, có thể khẳng định, phủ định, hoài nghi khoa học, lật ngược vấn đề, đào sâu vấn đề… - Trong quá trình học tập ở đại học, sinh viên đã bắt đầu tham gia vào hoạt động tìm kiếm chân lý mới. Đó là hoạt động tập dượt nghiên cứu khoa học được
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2