Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay
lượt xem 11
download
Mục đích của luận văn: Trên cơ sở phân tích thực trạng ý thức pháp luật của học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái nhằm đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng này, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực với chất lượng ngày càng cao của địa phương hiện nay. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị Lê Hoài Nam Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay LUẬN VĂN THẠC SĨ HÀ NỘI - 2008 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị Lê Hoài Nam Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Mã Số: 60 22 80 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hồ Trọng Hoài HÀ NỘI - 2008 2
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm đổi mới hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta và hội nhập với thế giới hiện nay. Vì vậy, Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”[25, tr.57]. Do đó, việc nâng cao ý thức pháp luật cho công dân là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn được các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và các đoàn thể quần chúng đặc biệt quan tâm nhằm góp phần xây dựng một xã hội văn minh, kỷ cương, pháp luật của nhà nước được tăng cường. Trước yêu cầu đó, nhiệm vụ nâng cao ý thức pháp luật cho công dân cần phải được triển khai rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân đặc biệt trong học sinh, sinh viên - nguồn nhân lực quan trọng của xã hội. Bởi sự hiểu biết về hệ thống, các quy phạm pháp luật hiện hành; thái độ tôn trọng đối với pháp luật và ứng xử phù hợp với yêu cầu của pháp luật... là cơ sở cho mỗi học sinh, sinh viên nâng cao, phát triển ý thức pháp luật. Đây cũng là một trong những đòi hỏi bức thiết đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay. Ở các tỉnh miền núi, những đặc thù về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội, truyền thống, phong tục, tập quán... nhiều khi đã trở thành những “trở lực” cho quá trình nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, “tăng cuờng kỷ cương, kỷ luật”. Vì vậy, làm rõ thực trạng và nguyên nhân ý thức pháp luật và chấp hành pháp luật của học sinh 3
- các trường chuyên nghiệp ở các tỉnh miền núi, từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho nguồn nhân lực này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thể chế hoá pháp luật, trau dồi văn hoá pháp lý, “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, thực hiện tốt đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước... của mỗi công dân ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, tôi đã chọn “Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học cho mình. Từ tên đề tài này, hy vọng, qua các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở địa phương, góp phần vào việc nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên trên địa bàn các tỉnh miền núi nói riêng và cả nước nói chung, đáp ứng yêu cầu nâng cao ý thức pháp luật công dân trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những vấn đề về pháp luật, ý thức pháp luật, vai trò của pháp luật, giáo dục pháp luật, biện pháp giáo dục pháp luật trong nhà trường, tình hình chấp hành pháp luật của học sinh, sinh viên... ở nước ta hiện nay đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến các công trình như: “Những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay”, Luận án TS Triết học của Đào Duy Tấn (2000); “Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay”, Luận án PTS Luật học của Đinh Xuân Thảo (1996); Đào Trí Úc với “Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật” (Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX 07-17); PTS.Trần Ngọc Đường - Dương Thanh Mai với “Bàn về giáo dục pháp luật” (1995); “Một số vấn đề về giáo dục pháp luật ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số” của Nguyễn Duy Lãm chủ biên (1996); TS. Nguyễn Đình Đặng Lục với “Giáo dục pháp luật trong nhà trường” (2004); “Tăng cường giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc miền 4
- núi tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay” Luận văn tốt nghiệp cao cấp chính trị của Lò Thị Nga (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001); Vương Thanh Hương – Nguyễn Minh Đức với “Thực trạng phạm tội của học sinh, sinh viên trong mấy năm gần đây và vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà trường”(1995)… ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu, bài báo, bài viết về vấn đề này, nhưng đều nghiên cứu ở tầm vĩ mô. Vì vậy, nghiên cứu về ý thức pháp luật của học sinh các trường chuyên nghiệp ở một tỉnh miền núi thông qua điều tra tại các trường này là đề tài hết sức mới mẻ, chưa từng được quan tâm, tìm hiểu. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn: Trên cơ sở phân tích thực trạng ý thức pháp luật của học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái nhằm đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng này, đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực với chất lượng ngày càng cao của địa phương hiện nay. Nhiệm vụ của luận văn: - Làm rõ bản chất, chức năng của ý thức pháp luật và tầm quan trọng của việc nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay. - Phân tích thực trạng ý thức pháp luật của học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay và nguyên nhân của thực trạng đó. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng ý thức pháp luật của học sinh các trưòng chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái và nguyên nhân của thực trạng đó. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là ý thức pháp luật của học sinh các trường chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh Yên Bái (thông qua khảo sát các 5
- trường: Trung học Nông - Lâm Yên Bái, Trung học Kinh tế Yên Bái, Trung học Y tế Yên Bái, Trung học Văn hóa nghệ thuật Yên Bái, Trường Trung cấp nghề tỉnh Yên Bái). 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu Nguồn tài liệu của luận văn gồm các sách, báo, bài viết trên những Tạp chí chuyên ngành; các luận án, luận văn và các công trình nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài. Phương pháp nghiên cứu: - Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. - Sử dụng các phương pháp: phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, điều tra, biểu đồ... 6. Đóng góp của luận văn Về mặt khoa học: Luận văn góp phần khẳng định sự quan thiết của việc nâng cao ý thức pháp luật của học sinh, sinh viên của các trường chuyên nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay. Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà trường, các cơ quan pháp luật trong quá trình tuyên truyền và giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu của luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Ý thức pháp luật và tầm quan trọng của việc nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay Chương 2: Ý thức pháp luật của học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay - thực trạng và nguyên nhân Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay. 6
- Chương 1 Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG CHUYÊN NGHIỆP Ở TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY 1.1. Ý thức pháp luật - khái niệm, cấu trúc, chức năng và con đường hình thành 1.1.1- Khái niệm ý thức pháp luật Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và nhà nước. Là một trong những biểu hiện của trình độ văn hóa xã hội, ý thức pháp luật tồn tại khách quan cùng với các hình thái ý thức xã hội khác như: tôn giáo, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, khoa học…và bị quy định bởi trình độ kinh tế - xã hội nhất định. Vì vậy, ý thức pháp luật mang tính khách quan, tính xã hội; nó tồn tại phổ biến trong ý thức cá nhân và toàn xã hội. Nó phản ánh đời sống pháp luật của xã hội – một bộ phận của tồn tại xã hội. Như vậy, ý thức pháp luật trước hết là sự phản ánh những điều kiện kinh tế - xã hội ở một giai đoạn nhất định của lịch sử, đồng thời nó cũng phản ánh mức độ tác động của giai cấp thống trị đối với xã hội, nghĩa là phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị. Trong sự phát triển của xã hội có giai cấp, ý thức pháp luật phản ánh tính đa dạng, phức tạp của đời sống pháp luật và mong muốn của giai cấp nắm quyền lực để điều chỉnh hành vi xử sự của con người bằng các quy tắc nhằm tạo lập trật tự xã hội nhất định theo ý chí và lợi ích của giai cấp đó. Vậy ý thức pháp luật là gì? Có nhiều câu trả lời về vấn đề này. Quan niệm thứ nhất khẳng định: “Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật” [25, tr.7]. Quan niệm này mang tính khái quát cao nhưng chưa phản ánh được kết cấu, chức năng, vai trò của ý thức pháp luật và nhất là chưa chỉ ra nguồn gốc cơ bản hình thành ý thức pháp luật. 7
- Quan niệm thứ hai: thường đi vào nhấn mạnh một mặt của ý thức pháp luật. Thí dụ cho: ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm pháp luật và tâm lý pháp luật; là những hiểu biết quan điểm pháp lý, những tình cảm pháp luật cùng với sự tôn trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật [25,tr 7]; hoặc cho rằng: ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng quan điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ thông qua sự hiểu biết của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội [25,tr.8]; hoặc nhấn mạnh ý thức của chủ thể pháp luật: ý thức pháp luật là trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân về pháp luật… ý thức pháp luật còn là thái độ đối với pháp luật, ý thức tôn trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội [25, tr.8]. Quan niệm thứ ba cho rằng: ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng thể những quan điểm, khái niệm, học thuyết pháp lý, tình cảm của con người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp) thể hiện thái độ của họ đối với pháp luật hiện hành, trật tự pháp luật, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật trong tương lai, và hành vi hợp pháp, hành vi không hợp pháp của cá nhân, các cơ quan nhà nước, tổ chức [25, tr.8]. Quan niệm này đã chỉ ra được kết cấu, nội dung, tính chất, của ý thức pháp luật. Vì vậy có thể khẳng định: Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội thông qua những quan điểm, tư tưởng, tình cảm, thái độ của con người đối với pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật, tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người trong xã hội nhằm bảo vệ trật tự xã 8
- hội hiện hành và các lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội theo ý chí của giai cấp cầm quyền. Ý thức pháp luật phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất được thể hiện trong hệ thống pháp luật, song nó có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội và các hình thái ý thức xã hội khác. Ý thức pháp luật của một thời đại bao giờ cũng phản ánh tồn tại xã hội của thời đại đó, do vậy nó chịu sự quy định của điều kiện vật chất xã hội, khi kinh tế - xã hội chuyển biến thì ý thức pháp luật tất yếu biến đổi theo và làm cho pháp luật biến động. Ý thức pháp luật cũng có thể lạc hậu, chậm biến đổi hơn so với tồn tại xã hội, có thể tồn tại cũ mất đi nhưng ý thức pháp luật vẫn có thể được duy trì trong thời gian dài, đặc biệt là tâm lý pháp luật. Tuy nhiên, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng pháp luật có thể vượt trước so với tồn tại xã hội, nó thể hiện tính tiên tiến, mở đường cho sự phát triển pháp luật. Ý thức pháp luật mang tính kế thừa sâu sắc. Nó kế thừa những yếu tố tích cực của ý thức pháp luật thời đại trước đó; cho nên những tư tưởng, quan niệm pháp luật tiến bộ được truyền từ thời đại này qua thời đại khác, được tiếp nhận trao đổi giữa các nước. Ý thức pháp luật có sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Nó có thể phản ánh đúng và cải tạo xã hội. Ý thức pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác, đặc biệt là đối với ý thức đạo đức và ý thức chính trị. Ý thức pháp luật phản ánh mối quan hệ giữa người với người đối với các quy tắc được chấp nhận trong xã hội nhất định. Ý thức pháp luật chịu sự tác động trực tiếp của ý thức chính trị bởi vì bản chất pháp luật là ý chí của giai cấp cầm quyền được thể hiện thành luật lệ. Mỗi chế độ xã hội có giai cấp chỉ có một hệ thống pháp luật duy nhất thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, mặc dù trong xã hội còn có hệ tư tưởng, quan điểm pháp luật của các giai cấp khác, thể hiện ý chí và phản ánh lợi ích riêng của giai cấp đó nhưng đều bị chi phối bởi ý chí của giai cấp cầm quyền. Như vậy trong mối quan hệ với ý thức chính trị, ý thức pháp luật bị 9
- định hướng bởi ý thức chính trị. Điều này khẳng định tính giai cấp của ý thức pháp luật. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng… Nó phản ánh mối quan hệ giữa các cá nhân, từ đó con người điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội. Ý thức chính trị chi phối ý thức pháp luật, ngược lại ý thức pháp luật phản ánh những yêu cầu của ý thức chính trị dưới góc độ pháp luật. Cả ý thức pháp luật và ý thức đạo đức đều hướng vào điều chỉnh hành vi con người nên chúng có sự tương hỗ với nhau. Nhìn chung, ý thức pháp luật, đạo đức, chính trị nằm trong mối quan hệ hữu cơ và đều phản ánh tồn tại xã hội nhất định. Cũng khác với tôn giáo, ý thức pháp luật lại sản phẩm của sự nhận thức lý tính, dù ở trình độ khác nhau nhưng đều có sự sàng lọc của con người về những điều được coi là cần thiết, bắt buộc phải tuân theo trong mọi hoạt động, mọi ứng xử để đảm bảo lợi ích của toàn xã hội, mà trước hết là lợi ích của giai cấp cầm quyền. Ý thức pháp luật khác với ý thức thẩm mỹ ở chỗ, ý thức thẩm mỹ là ý thức về sự thỏa mãn trước cái đẹp. Về cái đẹp có thể có những điểm chung không mang tính bắt buộc đối với tất cả mọi người. Trong xã hội, khó có một tiêu chuẩn chung về cái đẹp cho mọi người và nó không mang tính cưỡng chế như ý thức pháp luật. Vì thế, ý thức thẩm mỹ, cho phép các cá nhân có sự lựa chọn rộng rãi; điều này khác với ý thức pháp luật. Nhà nước và giai cấp cầm quyền luôn thông qua việc đặt ra quy phạm pháp luật làm chuẩn mực xử sự cho hành vi của mỗi người trong xã hội, tức là áp đặt ý thức pháp luật cho xã hội. Việc không thừa nhận ý thức này có nghĩa là chống lại ý chí của nhà nước và sẽ bị cưỡng chế bằng các chế tài của pháp luật. Ngày nay, ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa – ý thức pháp luật kiểu mới mà nước ta đang xây dựng mang tính chính trị sâu sắc, thể hiện những nhu cầu về kinh tế, đạo đức và văn hóa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Điều này khẳng định hơn vai trò của việc xây dựng ý thức pháp luật mới trong điều kiện nước ta hiện nay. 10
- 1.1.2 - Cấu trúc của ý thức pháp luật Ý thức pháp luật là hiện tượng chính trị - pháp lý có cơ cấu phức tạp. Căn cứ vào nội dung và tính chất của sự phản ánh, triết học xem ý thức pháp luật có hai cấp độ: hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Hệ tư tưởng pháp luật bao gồm các quan điểm, tư tưởng phản ánh đời sống pháp luật một cách sâu sắc và được hình thành một cách tự giác. Hệ tư tưởng pháp luật là kết quả của sự phản ánh tri giác, có mục đích, có tổ chức, của hoạt động tư duy, là cơ sở hình thành lý luận, học thuyết về nhà nước và pháp luật của một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng pháp luật của một quốc gia bao giờ cũng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Khi giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ của xã hội, có lợi ích phù hợp với lợi ích đông đảo trong xã hội thì tính khoa học, dân chủ và tính xã hội của hệ tư tưởng pháp luật sẽ thể hiện rõ nét. Ở nước ta hiện nay, sự hình thành ý thức pháp luật là quá trình tự giác dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này quyết định bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của ý thức pháp luật. Vì vậy, muốn nâng cao ý thức pháp luật cần dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò, bản chất của pháp luật, làm cho các quan điểm đó trở thành hệ tư tưởng pháp luật chi phối đời sống pháp luật toàn xã hội ở Việt Nam. Tâm lý pháp luật được hình thành trên cơ sở phản ánh trực tiếp các hiện tượng pháp luật và sự kiện pháp luật đơn lẻ. Nó được hình thành tự phát dưới tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác. Tâm lý pháp luật thể hiện trình độ nhận thức cảm tính, trực giác mang nhiều yếu tố chủ quan. Những hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội thường tác động lên tâm lý từng cá nhân, cả cộng đồng… cho nên tâm lý pháp luật là bộ phận của tâm lý xã hội và chịu sự quy định của các quy luật tâm lý xã hội nói chung. Trong những trạng thái của tâm lý pháp luật thì tình cảm pháp luật là yếu tố năng động. Nếu chủ thể nhận 11
- thức được giá trị của pháp luật và cơ chế điều chỉnh của pháp luật phù hợp với nguyện vọng, lợi ích và nhu cầu của mình thì sẽ có tình cảm pháp luật tích cực, ngược lại sẽ xuất hiện tình cảm pháp luật tiêu cực. Truyền thống, thói quen, niềm tin pháp luật là nhân tố ổn định trong tâm lý pháp luật, nó được hình thành trong thời gian dài giúp con người tự tin trong hoạt động. Tâm lý pháp luật nhìn chung biến đổi chậm chạp, do đó nó bền vững, bảo thủ hơn so với các tư tưởng pháp luật. Tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng có mối quan hệ biện chứng với nhau, tâm lý pháp luật chịu sự chi phối của hệ tư tưởng pháp luật, ngược lại sự phát triển của hệ tư tưởng pháp luật thường được dựa trên những dữ kiện của tâm lý pháp luật. Căn cứ vào trình độ nhận thức có thể chia ý thức pháp luật thành: ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật khoa học. Ý thức pháp luật thông thường là những kinh nghiệm về nhận thức, xử lý các thông tin, các sự kiện pháp lý và những tập quán, thói quen xử sự của chủ thể pháp luật. Ý thức pháp luật thông thường phản ánh nhận thức đời sống pháp luật ở trình độ cảm tính, nó có vai trò quan trọng trong việc hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cá nhân và xã hội. Ý thức pháp luật khoa học thể hiện ở các học thuyết, quan điểm về pháp luật. Nó giữ vai trò hướng dẫn, chỉ đạo trong sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật. Căn cứ vào chủ thể mang ý thức pháp luật, có thể chia ý thức pháp luật thành: ý thức pháp luật nhóm, ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật xã hội… 1.1.3 - Chức năng của ý thức pháp luật Xem xét từ góc độ triết học, ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội có những chức năng cơ bản: chức năng nhận thức, mô hình hóa và điều chỉnh hành vi. Chức năng nhận thức: ý thức pháp luật phản ánh sự phát triển của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Vì vậy, với tư cách là sản phẩm và là biểu hiện khách quan của ý thức pháp luật của xã hội, các học thuyết, quan điểm pháp 12
- luật là sự phản ánh những yêu cầu tất yếu của đời sống pháp luật cụ thể trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi cá nhân khi tiếp thu kiến thức pháp luật của xã hội sẽ nhận thức được về đời sống pháp luật quá khứ và hiện tại. Thế hệ đi sau tiếp thu ý thức pháp luật của thế hệ trước để nhận thức đầy đủ hơn lối sống của xã hội đã qua và kế thừa, vận dụng để xây dựng lối sống theo pháp luật của xã hội mới cao hơn. Mỗi cá nhân tiếp thu và phát triển ý thức pháp luật của loài người là nhận thức về lịch sử xã hội, pháp luật đã qua và hiện tại. Ý thức pháp luật là “lăng kính” phản ánh và đánh giá tồn tại xã hội của đời sống pháp luật. Chức năng nhận thức tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển các chức năng khác của ý thức pháp luật. Chức năng mô hình hoá: ý thức pháp luật là sự phản ánh tồn tại xã hội của đời sống pháp luật. Do đó cần phải xây dựng các chuẩn mực pháp luật là cơ sở cho hành vi xử sự của con người, vì vậy các quy phạm pháp luật chính là sản phẩm của sự mô hình hóa ý thức pháp luật theo yêu cầu của đời sống pháp luật. Nói cách khác, đây chính là chuẩn mực pháp lý của xã hội. Các quy phạm pháp luật mô tả các tình huống điển hình của các quan hệ xã hội giữa người với người, trong đó hành vi của cá nhân được quy định là thế này chứ không phải thế khác, được phép thực hiện hay không thực hiện. Tuy nhiên việc mô hình hóa các quan hệ xã hội thành các quy phạm pháp luật cần theo quan điểm và vì lợi ích của giai cấp cầm quyền (mặc dù có những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh không bộc lộ rõ tính giai cấp). Trong đời sống xã hội, mô hình hóa các quan hệ xã hội thành quy phạm pháp luật trở thành công cụ cho nhà nước quản lý xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Vì vậy, quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự làm chuẩn mực cho hành vi của mọi người, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, mang tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành và bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế của nhà nước. 13
- Chức năng điều chỉnh hành vi: nhà nước xây dựng các quy phạm pháp luật để quy định về việc xử sự của các chủ thể pháp luật, do đó có thể điều chỉnh hành vi của chủ thể pháp luật. Trên cơ sở các chuẩn mực pháp luật, nhà nước có biện pháp xử lý đối với các chủ thể có hành vi sai trái, ngược lại sẽ khuyến khích các chủ thể có hành vi thực hiện đúng chuẩn mực. Do đó, có thể khẳng định rằng nhà nước nào cũng thực hiện điều chỉnh các hành vi của cá nhân, tổ chức thông qua ý thức pháp luật của mình. Vì vậy, trong cuộc sống nếu mỗi cá nhân có sự hiểu biết pháp luật đầy đủ, ý thức pháp luật cao thì họ càng được tự do trong hành động (tự do trong khuôn khổ của pháp luật). Do đó, mỗi cá nhân cần tự nâng cao ý thức pháp luật cá nhân để qua đó tự điều chỉnh hành vi của mình trước khi bị nhà nước điều chỉnh bằng sự cưỡng chế. Để điều chỉnh hành vi của các chủ thể pháp luật, ý thức pháp luật thể hiện tính bắt buộc, cưỡng chế đối với mỗi hành vi. Bởi vì, khi ý thức pháp luật được mô hình hoá thành những quy phạm pháp luật, được nhà nước áp dụng điều chỉnh hành vi con người không phải bằng sự lựa chọn hay thái độ thích hoặc không thích. Điều này thể hiện sự khác biệt giữa ý thức pháp luật và các hình thái ý thức xã hội khác, nhất là đối với ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức cũng là phương tiện điều chỉnh hành vi con người; song ý thức đạo đức cho phép trước khi hành động con người có thể đánh giá về chuẩn mực đạo đức cần thực hiện. Do vậy, nếu không đồng ý, người ta có thể làm trái với những chuẩn mực đó mà không bị cưỡng chế ngay lập tức, cùng lắm lương tâm bị cắn rứt hoặc chịu áp lực của dư luận xã hội. Cho nên, ý thức đạo đức điều chỉnh hành vi con người thông qua dư luận xã hội còn ý thức pháp luật thông qua sự cưỡng chế. Như vậy, chức năng chủ yếu của pháp luật là điều chỉnh hành vi con người (vừa là sự tự điều chỉnh của cá nhân, vừa là sự điều chỉnh của nhà nước). 14
- 1.1.4 - Con đường hình thành ý thức pháp luật Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật hình thành và phát triển trên cơ sở những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Vì vậy khi xã hội có giai cấp và nhà nước thì ý thức pháp luật và đời sống pháp luật cũng ra đời. Như vậy, trình độ kinh tế - xã hội là nhân tố khách quan tác động đến việc hình thành ý thức pháp luật. Thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội như thế nào thì việc hình thành ý thức pháp luật như thế đó (trong xã hội có giai cấp và nhà nước). Trình độ của ý thức pháp luật biểu hiện “tính trội” ở mặt nào trong cấu trúc của nó là hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển của tồn tại xã hội. Ý thức pháp luật biểu hiện ra sâu sắc ở mỗi cá nhân, tập thể, nhóm… phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội (kể cả khi ý thức pháp luật biểu hiện ra tính độc lập tương đối của nó). Sự thay đổi của các quan hệ kinh tế - xã hội là cơ sở nảy sinh ý thức pháp luật mới. Hệ thống chính trị cũng là nhân tố quan trọng tác động đến sự hình thành ý thức pháp luật. Việc tổ chức ban hành pháp luật, thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống ra sao là do sự quyết định và tác động của các bộ phận trong hệ thống chính trị, đặc biệt là vai trò của nhà nước vì nhà nước thể hiện ý chí, lợi ích vai trò của giai cấp cầm quyền. Kết quả thực hiện càng cao sẽ giúp cho việc hình thành ý thức pháp luật trong xã hôi càng tốt. Ngược lại, ý thức pháp luật là cơ sở cho hệ thống chính trị tổ chức ban hành, thực hiện pháp luật và tuân thủ pháp luật. Việc giao lưu và mở rộng quan hệ với nước ngoài cũng là nhân tố tác động đến việc hình thành ý thức pháp luật trong xã hội. Trong quá trình này có sự tác động và thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội, đặc biệt là làm thay đổi trình độ nhận thức của các cá nhân, điều này tất yếu dẫn đến sự hình thành ý thức pháp luật mới. Ngoài ra, môi trường gia đình, môi trường làm việc, nghề nghiệp của mỗi cá nhân, tập thể, nhóm người trong xã hội cũng là nhân tố khách quan cho việc hình thành ý thức pháp luật. Sự hình thành ý thức pháp luật nhanh hay chậm, cao hay thấp phụ thuộc rất sâu sắc vào các yếu tố này. 15
- Do đó, để nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay phải căn cứ vào những cơ sở trên. Các nhân tố chủ quan quy định quá trình hình thành ý thức pháp luật bao gồm: trình độ học vấn, văn hoá, thái độ, tình cảm, ý chí, động cơ, mục đích và vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện của cá nhân... Mỗi nhân tố này quy định việc hình thành ý thức pháp luật cao hay thấp, đặc biệt là biến việc nhận thức nó thành hành vi phù hợp với các yêu cầu và chuẩn mực pháp luật. Ý thức pháp luật được hình thành chịu sự tác động của một loạt những nhân tố kể trên cho thấy việc hình thành nó, đặc biệt là với mục đích nâng cao ý thức pháp luật công dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải tìm tòi những nhóm giải pháp thiết thực nhất. Việc hình thành ý thức pháp luật đối với mỗi cá nhân thường thông qua phương thức trực tiếp (mỗi cá nhân do thực tiễn đời sống xã hội mà phải tự mình tìm hiểu pháp luật, từ đó mà nâng cao ý thức pháp luật cho mình) hoặc gián tiếp (các cá nhân thông qua khâu trung gian như tuyên truyền, giáo dục pháp luât… để lĩnh hội các quy tắc, chuẩn mực pháp luật, từ đó hình thành ý thức pháp luật cho mình). Tóm lại, sự hình thành ý thức pháp luật trên cơ sở chịu sự tác động tích hợp của nhiều yếu tố, đây là căn cứ quan trọng để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho mỗi cá nhân và xã hội. 1.2. Đặc điểm học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái và tầm quan trọng của việc nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay Từ việc chỉ ra bản chất của ý thức pháp luật, các con đường hình thành, đặc biệt là chức năng của nó đối với đời sống xã hội cho chúng ta thấy tính tất yếu, khách quan của việc nâng cao ý thức pháp luật cho công dân nói chung, cho học sinh, sinh viên nói riêng trong công cuộc xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ở nước ta hiện nay. 16
- Đây là cơ sở cho việc chỉ ra vai trò của việc nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyên nghiệp ở nước ta nói chung và một tỉnh miền núi nói riêng. 1.2.1- Đặc điểm học sinh các trường chuyên nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay - Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Yên Bái Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền Tây Bắc và Trung du Bắc Bộ, có vị trí cửa ngõ của vùng Tây Bắc. Yên Bái có diện tích tự nhiên là 6.882,9 km2, nằm trải dọc đôi bờ sông Hồng. Phía đông bắc, Yên Bái giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía đông nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía tây nam giáp tỉnh Sơn La, phía tây bắc giáp tỉnh Lai Châu và Lào Cai. Toàn tỉnh có 9 đơn vị hành chính (1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với tổng số 181 xã, phường, thị trấn. Địa hình Yên Bái có độ dốc lớn, cao dần từ đông sang tây, từ nam lên bắc, độ cao trung bình 600m so với mực nước biển và có thể chia làm hai vùng: vùng thấp ở tả ngạn sông Hồng và lưu vực sông Chảy mang nhiều đặc điểm của vùng trung du; vùng cao thuộc hữu ngạn sông Hồng và cao nguyên nằm giữa sông Hồng và sông Đà có nhiều dãy núi. Yên Bái có khí hậu đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm, mưa nhiều nên độ ẩm cao. Do địa hình và thời tiết đã tạo cho Yên Bái có các loại rừng nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới trên núi cao. Đất rừng màu mỡ, thuận lợi cho phát triển chăn nuôi và trồng rừng sản xuất nguyên liệu giấy. Đất nông nghiệp chiếm gần 10% diện tích tự nhiên, trong đó có cánh đồng Mường Lò rộng 2.300 ha nổi tiếng vùng Tây Bắc. Dưới bàn tay lao động cần cù của người dân Yên Bái đã tạo ra nhiều sản vật có giá trị như: chè, quế, gạo nếp Tú Lệ, cam Lục Yên, nhãn Văn Chấn. Trong lòng đất có nhiều tài nguyên khoáng sản phong phú, trữ lượng lớn với nhiều mỏ kim loại, mỏ nguyên liệu, khoáng sản phi kim; đặc biệt là các mỏ thạch anh, đá fenspat, đá trắng phục vụ chế biến nguyên liệu sản xuất công nghiệp có chất lượng hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Ngoài hai con 17
- sông lớn là sông Hồng và sông Chảy, khoảng 200 ngòi, suối lớn nhỏ cùng hệ thống hồ đầm, Yên Bái còn có hồ Thác Bà - hồ nước được tạo nên bởi bàn tay con người có diện tích mặt nước trên 20.000 ha, trên đó có 1.300 đảo lớn nhỏ. Hồ có sức chứa 3 – 3,9 tỷ m3 nước là điều kiện để phát triển nguồn thuỷ sinh vật và là nguồn năng lượng phục vụ hoạt động của nhà máy thuỷ điện Thác Bà - công trình thuỷ điện đầu tiên ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hồ Thác Bà cùng với những tiểu vùng khí hậu, các lễ hội, di tích danh thắng của Yên Bái đang trở thành điểm đến của du khách gần xa. Giao thông ở Yên Bái khá thuận lợi với sự có mặt của hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thuỷ. Thông thương từ Yên Bái đến các tỉnh lân cận của miền Bắc ngày càng phát triển, nhất là khi hệ thống đường bộ tiếp tục được hoàn thiện, tuyến đường sắt Hà Nội - Yên Bái - Lào Cai nối liền tới nước bạn Trung Quốc được nâng cấp. Bên cạnh đó, hệ thống bưu chính viễn thông được hiện đại hoá, đáp ứng mọi yêu cầu về thông tin liên lạc. Công nghiệp khai khoáng và chế biến đã khai thác được tiềm năng sẵn có, thu hút sự chú ý của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước. Kinh tế lâm nghiệp phát triển mạnh, nông nghiệp có bước đột phá trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Nhiều mô hình kinh tế trang trại thể hiện tính đa dạng trong hoạt động nuôi trồng của người dân và tạo ra một lượng sản phẩm đáng kể đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Kinh tế thương mại có nhiều khởi sắc, chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 76.000 người gồm 30 dân tộc anh em chung sống. Yên Bái tự hào là mảnh đất sinh tụ của người Việt cổ, có nền văn hoá phát triển, thể hiện ở những di vật, di chỉ phát hiện ở hang Hùm (Lục Yên), công cụ bằng đá ở Thẩm Thoóng (Văn Chấn), thạp đồng Đào Thịnh, Hợp Minh (Trấn Yên), trống đồng Minh Xuân (Lục Yên). Cùng với đó là việc phát hiện nhiều di chỉ khảo cổ, các đền tháp, khu di tích lịch sử đã chứng tỏ truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta trên mảnh đất Yên Bái xưa kia gắn liền với quá trình lịch 18
- sử dựng nước và giữ nước của mỗi triều đại, mỗi thời kỳ. Được thành lập năm 1900, tỉnh Yên Bái đã trải qua hơn một thế kỷ đấu tranh xây dựng và trưởng thành. Nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh giành độc lập tự do và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng - bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc; giữ vững biên giới phía bắc và góp phần không nhỏ vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Các dân tộc ở Yên Bái sống xen kẽ, quần tụ ở khắp các địa phương trên địa bàn của tỉnh với những bản sắc văn hoá phong phú, đặc sắc. Tất cả đã hoà quyện để tạo nên vốn văn hoá quý giá trong kho tàng văn hoá dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền thống yêu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vốn văn hoá ấy đang được nhân dân các dân tộc Yên Bái đoàn kết gìn giữ và phát huy. Bằng vốn văn hoá ấy và dựa vào những tiềm năng của địa phương, mỗi người dân Yên Bái đang chung vai gánh sức xây dựng Yên Bái trở thành một tỉnh phát triển trong khu vực miền núi Bắc Bộ. - Vị trí, đặc điểm và mục tiêu của giáo dục chuyên nghiệp trong tỉnh: Xuất phát từ những đặc điểm kinh tế - xã hội – văn hóa kể trên, sự nghiệp phát triển giáo dục – đào tạo của Yên Bái không nằm ngoài mục tiêu chung của giáo dục Việt Nam là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong hệ thống giáo dục của tỉnh, giáo dục chuyên nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau; làm cho thế hệ lao động trong tương lai có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, có ý thức kỷ luật và tác phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo điều kiện cho người lao động sau khi tốt nghiệp có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo ra việc làm, sau đó có 19
- thể tiếp tục học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Không nằm ngoài mục tiêu giáo dục chuyên nghiệp chung của nước ta, giáo dục chuyên nghiệp trong tỉnh Yên Bái với trường dạy nghề nhằm đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho khu công nghiệp phía nam thành phố Yên Bái cũng như các nhà máy, cơ sở sản xuất khác ở các địa phương. Trong đó, các ngành đang cần nguồn nhân lực qua đào tạo như: chế biến nông sản, lâm nghiệp, điện, nước, xây dựng… ngoài ra hệ thống các dịch vụ tại các địa phương cũng đang trong tình trạng thiếu nhân lực đã qua đào tạo đúng chuyên môn, nghiệp vụ. Vì vậy, mục tiêu của các trường chuyên nghiệp trong tỉnh những năm qua vẫn là đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng, kiến thức thực hành cơ bản, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo, biết ứng dụng tri thức được trang bị vào cuộc sống. Vì vây, hiện nay các trường chuyên nghiệp trong tỉnh luôn xác định tập trung đào tạo năng lực thực hành nghề nghiệp, rèn luyện kỹ năng theo yêu cầu từng nghề, coi trọng giáo dục đạo đức, rèn luyện sức khỏe. Do đó, các trường đều đang đổi mới phương pháp giáo dục nghề nghiệp, rèn luyện kỹ năng thực hành với giảng lý thuyết cho học sinh, giúp cho học sinh sau khi ra trường có khả năng hành nghề và tiếp tục phát huy nghề nghiệp theo yêu cầu công việc. Mục tiêu của tỉnh là “khuyến khích phát triển các trường nghề, bán công, tư thục”, đồng thời đến năm 2010 có 25% lao động đã được đào tạo. Chính vì vậy, hiện nay trong tỉnh đã có 4 trường trung học chuyên nghiệp và 1 trường trung cấp nghề, đó là: Trường Trung học Nông - Lâm Yên Bái với tổng số 12 lớp chính quy, gồm 346 học sinh thuộc 4 chuyên ngành (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, quản lý đất đai); Trường Trung học Kinh tế Yên Bái với 7 lớp chính quy, có 300 học sinh; Trường trung cấp nghề tỉnh Yên Bái có 16 lớp nghề dài hạn với 396 học sinh; Trường Trung học Văn hóa nghệ thuật Yên Bái (nay mới nâng lên thành Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật và du lịch) gồm 6 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ giáo dục: Bồ dưỡng phương pháp thực nghiệm Vật lý cho học sinh khi dạy học một số kiến thức chương "chất khí" Vật lý 10, chương trình chuẩn
134 p | 593 | 134
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường trung học cơ sở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
97 p | 794 | 131
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
26 p | 461 | 115
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
170 p | 552 | 105
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trò chơi dân gian
123 p | 704 | 96
-
Luận văn thạc sĩ Giáo dục học: Khảo sát các kỹ thuật dạy môn biên dịch tại khoa tiếng Anh trường Đại học Tây Nguyên
70 p | 850 | 94
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng ở các trường trung học phổ thông huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
157 p | 491 | 90
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên các Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương
145 p | 294 | 67
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường trung học văn hóa nghệ thuật Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay
26 p | 458 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc cho trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh
167 p | 350 | 61
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình
122 p | 303 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phối hợp quản lý giáo dục đạo đức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và nhà trường đối với học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh
72 p | 248 | 56
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trung học phổ thông các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay
13 p | 340 | 55
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh
164 p | 369 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực dạy trẻ làm quen biểu tượng toán học cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non
116 p | 260 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên trong việc tổ chức hoạt động giáo dục tại một số trường mầm non nội thành thành phố Hồ Chí Minh
201 p | 176 | 34
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sử dụng phương pháp kỷ luật tích cực trong giáo dục học sinh trường trung học phổ thông Huyện Thanh Ba - Tỉnh Phú Thọ
107 p | 49 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục trên địa bàn huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương
70 p | 130 | 14
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn