intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học Ngữ pháp ở bậc trung học phổ thông (ban Cơ bản)

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:133

114
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn nắm bắt những nội dung về cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài; tổ chức dạy học Ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp; thực nghiệm luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học Ngữ pháp ở bậc trung học phổ thông (ban Cơ bản).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học Ngữ pháp ở bậc trung học phổ thông (ban Cơ bản)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Thủy Tiên VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP VÀO DẠY HỌC NGỮ PHÁP Ở BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (Ban cơ bản) LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Thủy Tiên VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP VÀO DẠY HỌC NGỮ PHÁP Ở BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (Ban cơ bản) Chuyên ngành : Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Văn học Mã số : 60 14 01 11 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. ĐẶNG NGỌC LỆ Thành phố Hồ Chí Minh – 2013
  3. LỜI CẢM ƠN Để có thể hoàn thành đề tài luận văn một cách hoàn chỉnh, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của quý Thầy Cô, cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập nghiên cứu và thực hiện. Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS Đặng Ngọc Lệ, người đã hết lòng hướng dẫn và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin gửi lời tri ân nhất đối với những điều mà Thầy đã dành cho tôi. Tôi cũng xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, những người đã không ngừng động viên, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn các anh chị và bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài luận văn một cách hoàn chỉnh. Dù đã cố gắng thực hiện để hoàn thành luận văn bằng tất cả tâm huyết và nỗ lực của mình, nhưng luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp xây dựng chân thành của quý Thầy Cô. Tôi xin cảm ơn! TP. Hồ Chí Minh, 30 tháng 9 năm 2013 1
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. TP. Hồ Chí Minh, 30 tháng 9 năm 2013 Tác giả luận văn 2
  5. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1 LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 2 MỤC LỤC .................................................................................................................... 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5 MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6 1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................6 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ...............................................................................................7 3. Mục đích, đối tượng của đề tài ....................................................................................12 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................13 5. Đóng góp của luận văn .................................................................................................14 6. Cấu trúc của luận văn ..................................................................................................14 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ....................... 15 1.1. Cơ sở lí luận ...............................................................................................................15 1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học.............................................................................................. 15 1.1.2. Cơ sở tâm lý - ngôn ngữ ....................................................................................... 15 1.1.3. Cơ sở giáo dục học ............................................................................................... 16 1.1.4. Lý thuyết về giao tiếp và hoạt động giao tiếp ...................................................... 16 1.1.5. Khái niệm phương pháp giao tiếp trong dạy học ................................................. 27 1.2. Cơ sở thực tiễn ...........................................................................................................28 1.2.1. Vị trí, đặc điểm của phân môn ngữ pháp ............................................................. 28 1.2.2. Mục tiêu của việc dạy phân môn ngữ pháp .......................................................... 30 CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC DẠY HỌC NGỮ PHÁP THEO QUAN ĐIỂM GIAO TIẾP ............................................................................................................................ 32 2.1. Dạy học theo quan điểm giao tiếp là gì? ..................................................................32 2.2. Sự thể hiện của quan điểm giao tiếp trong dạy học ngữ pháp ..............................33 2.2.1. Khái quát nội dung chương trình ngữ pháp bậc THPT ........................................ 33 2.2.2. Quan điểm giao tiếp với nội dung dạy học ngữ pháp bậc THPT ......................... 34 2.2.3. Quan điểm giao tiếp với việc lựa chọn sử dụng các phương pháp dạy học ngữ pháp ................................................................................................................................ 40 2.2.4. Quan điểm giao tiếp với việc lựa chọn, sử dụng các hình thức tổ chức dạy học ngữ pháp. ........................................................................................................................ 51 2.2.5. Quan điểm giao tiếp với việc kiểm tra, đánh giá.................................................. 58 2.3. Ưu điểm của việc vận dụng quan điểm giao tiếp ....................................................60 3
  6. 2.4. Thiết kế giờ học Ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp ............................................61 2.4.1. Hướng khai thác các bài học Ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp ....................... 61 2.4.2. Các bước thiết kế giờ học Ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp ........................... 65 2.4.3. Thiết kế giáo án .................................................................................................... 66 CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM ............................................................................... 86 3.1. Mục tiêu thực nghiệm ...............................................................................................86 3.2. Đối tượng thực nghiệm .............................................................................................86 3.3. Phương pháp thực nghiệm .......................................................................................88 3.4. Nội dung thực nghiệm ...............................................................................................88 3.5. Tiến trình thực nghiệm .............................................................................................89 3.5.1. Chuẩn bị thực nghiệm .......................................................................................... 89 3.5.2. Theo dõi tiến trình giờ dạy thực nghiệm .............................................................. 89 3.6. Kết quả thực nghiệm .................................................................................................92 3.6.1. Kết quả thu nhận được từ học sinh ....................................................................... 92 3.6.2. Kết quả thu được từ khảo sát ý kiến giáo viên ................................................... 107 3.7. Đánh giá kết quả thực nghiệm ...............................................................................108 3.7.1. Ưu điểm: ............................................................................................................. 108 3.7.2. Nhược điểm: ....................................................................................................... 109 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 114 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 117 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 121 4
  7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết thường Viết tắt Tiếng Việt TV Phương pháp dạy học PPDH Giáo viên GV Học sinh HS Phương pháp PP Sách giáo viên SGV Sách giáo khoa SGK Thực nghiệm TN Đối chứng ĐC Trung học cơ sở THCS Trung học phổ thông THPT 5
  8. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Cùng với lao động, ngôn ngữ góp phần hình thành và phát triển xã hội loài người. Ngôn ngữ là một sáng tạo kì diệu của loài người, là phương tiện giao tiếp phổ biến nhất và thuận lợi nhất. Mặt khác, ngôn ngữ còn là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành dân tộc, duy trì và phát triển truyền thống văn hoá. Tiếng Việt (TV) là sản phẩm của dân tộc Việt, góp phần duy trì sự thống nhất quốc gia. Trong chương trình phổ thông, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh (HS) những lý thuyết cơ bản về ngôn ngữ học và tiếng Việt, nhằm giúp HS vận dụng tốt những quy tắc trong hoạt động giao tiếp nói và viết, tiếp nhận và tạo lập văn bản. Vì vậy, trong sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn, phần Tiếng Việt đã được chú trọng về tính hành dụng, tức là khả năng ứng dụng Tiếng Việt vào việc đọc văn và vào các hoạt động giao tiếp bằng ngôn bản khác. Riêng phân môn ngữ pháp, trong chương trình Ngữ văn Trung học Phổ thông (THPT), HS được học tiếp nối những kiến thức về ngữ pháp ở lớp dưới nhưng việc trang bị kiến thức mới rất ít, chủ yếu là rèn luyện kĩ năng sử dụng câu trong giao tiếp (tập trung ở chương trình Ngữ văn 11). Nhìn chung, nội dung của các bài học ngữ pháp ở THPT cũng đã được biên soạn theo hướng chú trọng tính thực hành, có sự tích hợp kiến thức với phần Làm văn và Đọc hiểu văn bản. Bên cạnh đó, các bài học được thiết kế theo hướng “mở” (việc lựa chọn ngữ liệu hay những kết luận được rút ra sau khi tìm hiểu ngữ liệu đều không mang tính bắt buộc, áp đặt), giáo viên (GV) có thể có những sáng tạo riêng trong bài dạy sao cho phù hợp với đối tượng HS, để HS chủ động, tích cực cùng GV xây dựng bài học. Tuy nhiên, dù chương trình Ngữ văn THCS đã được triển khai đại trà từ năm 2002, Ngữ văn THPT là từ năm 2006, nhưng thực tế dạy học cho thấy nhiều HS vẫn cảm thấy nặng nề khi học và thiếu hứng thú với những bài về Tiếng Việt. Tình trạng dùng từ tuỳ tiện, viết câu sai, cách diễn đạt xa rời chuẩn mực tiếng Việt vẫn còn nhiều đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực tư duy, đọc hiểu văn bản và viết văn nghị luận của các em. Thực tế này đã đặt ra cho các nhà sư phạm nói chung và những GV dạy Ngữ văn nói riêng nhiều suy nghĩ 6
  9. về hiệu quả của việc dạy tiếng, trong đó có việc dạy học phân môn ngữ pháp. Việc này đòi hỏi GV khi dạy học ngữ pháp phải vận dụng nhiều phương pháp tích cực, đặc biệt chú trọng việc dạy học trong giao tiếp và bằng giao tiếp, nhằm hướng HS đến cái đích cuối cùng của việc học tiếng là để giao tiếp đúng chuẩn mực tiếng Việt. Từ những điều trên, tôi chọn đề tài “Vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học ngữ pháp ở bậc THPT” nhằm góp một phần nào nâng cao hiệu quả việc dạy và học ngữ pháp. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, có lẽ lần đầu tiên người dạy tiếng Việt làm quen với thuật ngữ phương pháp giao tiếp là nhờ giáo trình Phương pháp dạy học tiếng Việt của Lê A và các cộng sự. Dựa vào việc triển khai sách mới ở bậc THPT, tôi chọn mốc 2006 để xem xét một số công trình nghiên cứu lý thuyết giao tiếp vào dạy học ngữ pháp. 2.1. Từ năm 1986 đến trước năm 2006 Từ năm 1986, khi Tiếng Việt được xem là một môn học độc lập trong nhà trường, đến trước năm 2006 chúng ta có nhiều có công trình nghiên cứu về PPDH Tiếng Việt, nhưng chỉ có một số ít bàn đến việc dạy học ngữ pháp, như: Dạy học Ngữ pháp ở tiểu học của tác giả Lê Phương Nga, “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” do nhóm tác giả PGS. TS Lê A, Thành Thị Yên Mĩ, PGS. TS Lê Phương Nga biên soạn chủ yếu dành cho GV bậc Tiểu học, và quyển “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” (Lê A chủ biên). Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã cung cấp cho chúng ta những vấn đề cơ bản của lí luận dạy Tiếng như: đối tượng, nhiệm vụ của PPDH Tiếng Việt, các nguyên tắc dạy học Tiếng Việt, cơ sở lí luận và thực tiễn của việc xây dựng PPDH tiếng Việt, việc sử dụng thiết bị và đồ dùng để dạy học Tiếng Việt, hoạt động ngoại khoá môn Tiếng Việt… Giáo trình Dạy học ngữ pháp ở tiểu học của tác giả Lê Phương Nga đã nhấn mạnh vai trò của việc dạy học ngữ pháp trong nhà trường. Ngữ pháp là một bình diện quan trọng của ngôn ngữ bên cạnh các bình diện khác như ngữ âm, từ vựng, phong cách... Nó có tính khái quát và trừu tượng cao hơn các bình diện khác vì nó bao gồm toàn bộ các quy tắc cấu tạo từ, biến đổi từ, kết hợp từ thành cụm từ, câu và cả các quy tắc liên kết câu để tạo thành đơn vị lớn hơn là đoạn văn và văn bản. “Ngữ pháp có vai trò quan trọng trong việc tổ chức hoạt động tạo lập và lĩnh hội ngôn bản”. Do vậy, mục tiêu của việc dạy học ngữ pháp chủ yếu là thực hành nhằm hướng HS đến việc sử dụng thành thạo, có hiệu quả các kĩ năng 7
  10. nghe, nói, đọc, viết. Điều được chú ý ở giáo trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” là quan điểm dạy học Ngữ pháp theo định hướng giao tiếp: “…việc dạy học tiếng Việt nói chung và dạy học Ngữ pháp nói riêng cần thấm nhuần quan điểm giao tiếp cả trong phương pháp dạy học…”. Đây là một quan điểm đúng đắn. Dạy Ngữ pháp sẽ trở nên phiến diện nếu GV chỉ chú trọng đến việc mô hình hoá các hình thức kết hợp của từ, ngữ…. Mục đích của việc dạy học Ngữ pháp nói riêng và Tiếng Việt nói chung là phải giúp HS có thể giao tiếp trong các tình huống khác nhau. Trong hoạt động giao tiếp, do sự chi phối của các nhân tố giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp cụ thể mà các yếu tố ngôn ngữ luôn cần được sử dụng một cách linh hoạt để phù hợp với hoàn cảnh và đạt được hiệu quả giao tiếp. Trong chương trình dạy lý thuyết ngữ pháp, bên cạnh các bài về khái niệm còn có các bài về quy tắc, ví dụ như quy tắc lựa chọn trật tự từ trong câu, quy tắc sử dụng các kiểu câu trong văn bản… Việc dạy các quy tắc cũng cần theo các bước cụ thể sau: xác định đúng nội dung của các quy tắc và các khái niệm ngữ pháp có liên quan – nêu rõ mục đích và tác dụng của từng quy tắc – chú trọng các thao tác trong quá trình thực hiện quy tắc. Do các quy tắc ngữ pháp vừa liên quan đến khái niệm ngữ pháp, vừa gắn liền với các hoạt động ngôn ngữ trong thực tiễn sử dụng nên việc dạy học quy tắc ngữ pháp chính là việc chuyển từ ngữ pháp lí luận sang ngữ pháp thực hành. Vì vậy, khi dạy quy tắc cần hướng vào các nguyên tắc: gắn lí thuyết với thực hành, hướng vào hoạt động giao tiếp để từ các quy tắc mà hướng dẫn tạo lập các sản phẩm giao tiếp, chuyển đổi chúng cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể. Với kiểu bài thực hành ngữ pháp, tác giả chú trọng việc hướng dẫn HS làm các dạng bài tập với các bước thực hiện cụ thể, đó là các kiểu bài tập nhận diện - phân tích, bài tập chuyển đổi, bài tập tạo lập (sáng tạo), bài tập sửa chữa.. Vai trò của các bài dạy thực hành ngữ pháp là nhằm làm sáng tỏ thêm và củng cố các khái niệm, các quy tắc ngữ pháp; rèn luyện các năng lực phân tích các hiện tượng ngữ pháp một cách khoa học, thực hiện việc lĩnh hội sản phẩm giao tiếp ngôn ngữ một cách chính xác và tinh tế; nâng cao khả năng nói, viết sao cho phù hợp với quy tắc ngữ pháp, thích hợp với hoàn cảnh giao tiếp. Muốn thực hiện được mục đích trên, việc dạy thực hành ngữ pháp ở THPT cần tuân thủ những nguyên tắc của dạy ngữ pháp: gắn lí thuyết với thực hành, tích cực hoá và ý thức hoá vốn kinh nghiệm ngôn ngữ của HS, hướng vào hoạt động giao tiếp, kết hợp giữa sự phát triển tư duy và phát triển ngôn ngữ ở HS… Khi bàn về lỗi viết câu của HS tiểu học, tác giả nêu lên một vấn đề cần lưu ý khi sửa lỗi viết câu cho HS: “Trước đây khi nghiên cứu lỗi viết câu, người ta thường xét những câu 8
  11. sai một cách cô lập nên chỉ chú ý đến các lỗi trong cấu trúc nội bộ của câu. Đồng thời người ta cũng chỉ chú ý đến cấu trúc cú pháp, ít chú ý đến nghĩa khi xem xét câu. Cách làm trên rõ ràng là chưa thoả đáng. Bởi vì câu chỉ có thể thực hiện chức năng của mình trong một đơn vị lớn hơn – văn bản. Cho nên khi bàn về lỗi viết câu, chúng ta cần đặt câu trong văn bản để xem xét và dựa vào yêu cầu về câu trong văn bản làm chuẩn để đối chiếu, xác định một câu như thế nào bị xem là mắc lỗi”. Quan điểm này hoàn toàn thống nhất với nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp của việc dạy câu và quan điểm xem xét câu ở bình diện ngữ nghĩa, ngữ dụng. Trong bài viết Cần đổi mới mục tiêu môn Tiếng Việt, Ngữ học trẻ, 1997, nhìn nhận rằng dạy học Tiếng Việt (TV) trong những năm qua chưa có kết quả như mong muốn là do chương trình thiên về dạy ngôn ngữ học chứ không phải dạy sử dụng tiếng mẹ đẻ, tác giả Nguyễn Đức Sĩ Tiến cho rằng cần phải thay đổi mục tiêu dạy học TV trong nhà trường. Theo đó, người viết đề xuất dạy học TV nên hướng tới bốn mục tiêu chính: trang bị những tri thức về TV, rèn luyện kĩ năng sử dụng TV, rèn luyện và nâng cao năng lực tư duy, hướng tới cái đẹp. Khi bàn về mục tiêu thứ nhất và thứ hai, tác giả cho rằng chúng ta dạy kiến thức không phải để các em trở thành một nhà ngôn ngữ học mà để các em vận dụng thực hành, việc dạy học phải hướng vào mục đích giao tiếp, giúp người học nâng cao năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ. Muốn thế, dạy tiếng phải rèn luyện cho người học các kĩ năng nghe nói, đọc, viết để họ có thể tạo lời hay nhận lời trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Cũng vì vấn đề chính mà tác giả muốn khai thác là đổi mới mục tiêu nên quan điểm giao tiếp chỉ được nhắc đến chứ không được trình bày thấu đáo. Hướng giao tiếp trong dạy học phần TV ở sách Ngữ văn 6 của tác giả Thái Kim Thành đăng trên Ngữ học trẻ, 2003 là bài phân tích nội dung chương trình phần TV lớp 6 dưới góc nhìn của định hướng giao tiếp. Tác giả cho rằng cấu trúc và nội dung SGK Ngữ văn thể hiện rõ định hướng giao tiếp song cũng có những bài học mà hướng này chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Trong quá trình đánh giá người viết khẳng định dạy học theo quan điểm giao tiếp sẽ làm cho HS tích cực hơn đồng thời chỉ ra một quy trình dạy học TV theo hướng giao tiếp, đó là để HS tiếp thu kiến thức theo lối quy nạp rồi làm bài tập từ đó mà rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ. Mục đích của bài nghiên cứu chủ yếu là nhận định về hướng giao tiếp trong sách Ngữ Văn 6 nên các vấn đề về quan điểm giao tiếp chỉ được tác giả đề cập đến chứ chưa thực sự đi sâu làm sáng tỏ. 9
  12. Cũng trên Ngữ học trẻ, 2003, tác giả Ngô Thị Minh có bài Dạy TV theo hướng hoạt động giao tiếp ở bậc tiểu học. Bài viết bàn về ba nội dung chính: khái niệm về vấn đề dạy TV theo hướng hoạt động giao tiếp, cơ sở khoa học và thực tiễn của việc dạy TV hướng vào hoạt động giao tiếp, sự thể hiện việc dạy TV theo hướng hoạt động giao tiếp ở bậc tiểu học hiện nay. Trong nội dung thứ nhất, sau khi nêu khái niệm dạy TV theo hoạt động giao tiếp là dạy để người học sử dụng thành thạo ngôn ngữ, vận dụng tốt các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết vào tham gia giao tiếp với cộng đồng, tác giả đưa ra các nguyên tắc và phương pháp dạy tiếng theo hướng giao tiếp. Đến nội dung thứ hai, người viết phân tích rõ cơ sở của việc dạy tiếng hướng vào hoạt động giao tiếp. Đó là xuất phát từ bản chất của ngôn ngữ là một hệ thống luôn vận động và phát triển trong cơ chế hoạt động hành chức và xuất phát từ mục tiêu của môn TV ở tiểu học. Dù bài viết hướng đến bậc tiểu học nhưng người quan tâm vẫn tìm thấy kiến thức cơ bản về hoạt động giao tiếp trong dạy học TV. Các giáo trình trên đã nghiên cứu việc dạy học ngữ pháp trên cơ sở phân tích chương trình sách giáo khoa (SGK) và các PPDH Tiếng Việt thường được sử dụng trong nhà trường. Từ đó, khái quát thành những cơ sở lí luận về vai trò của việc dạy học ngữ pháp, hình thành cho HS các kỹ năng giao tiếp cơ bản. Đồng thời, GV cũng có thể tìm thấy ở các giáo trình trên những chỉ dẫn cần thiết về các kĩ năng khi dạy lí thuyết và thực hành ngữ pháp. Tuy nhiên, do các giáo trình này được viết khi SGK cũ đang được sử dụng nên hiện nay vẫn còn một số điểm bất cập, hạn chế nhất định cần phải bổ sung kịp thời. Chẳng hạn như hệ thống ngữ liệu không còn phù hợp, một số hình thức tổ chức dạy học tiếng Việt dù đã chú trọng đến vai trò chủ động của HS nhưng chưa thật sự thể hiện rõ vai trò hướng dẫn của GV và sự sáng tạo của HS; hệ thống bài tập còn đơn điệu, thiếu tính liên kết và chưa được khai thác triệt để các dạng bài tập nhằm phát triển tư duy logic, tư duy khoa học cho HS…đặc biệt, chưa chú ý đến quan điểm giao tiếp trong việc dạy học ngữ pháp. 2.2. Từ năm 2006 đến nay Trong tài liệu “Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông”, tác giả Đỗ Ngọc Thống đã giúp GV THPT thấy được những yêu cầu của việc đổi mới chương trình Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn và sự cần thiết của việc đổi mới PPDH Tiếng Việt theo quan điểm “tích cực”. Theo tác giả, mục đích chính của việc dạy tiếng Việt ở THPT là “hành dụng”, “tức là hình thành và rèn luyện cho HS khả năng vận dụng các đơn vị ngôn ngữ trong tiếng Việt một cách tổng hợp và thành thạo trong nói cũng như viết theo một kiểu văn bản nào đó”. Trong sách giáo viên Ngữ văn 10 (Tập 1) – Phần “Những 10
  13. vấn đề chung” , các tác giả đã nêu rõ 3 mục tiêu cơ bản của việc dạy Tiếng Việt cho HS THPT là hình thành một số kiến thức về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng, rèn luyện và nâng cao các kỹ năng sử dụng tiếng Việt, giúp HS có ý thức thận trọng khi sử dụng tiếng Việt, chịu khó tự sửa chữa sai sót để lời nói, câu văn được trong sáng. Về PPDH Tiếng Việt, các tác giả nhấn mạnh phương châm dạy tiếng Việt “bằng thực hành, thông qua thực hành và hướng tới thực hành” . Phương châm này cần áp dụng trong cả giờ dạy lý thuyết cũng như thực hành. Trong bài Dạy học Nghĩa của câu ở trung học phổ thông theo tình huống giao tiếp, Giáo dục, số 175, kì 2 – 10/2007, tác giả Lê Thị Bích Hồng khẳng định sự cần thiết phải sử dụng tình huống giao tiếp trong dạy Tiếng Việt. Tác giả nhấn mạnh “trong dạy học, để giúp HS tích cực chủ động, huy động mọi vốn sống, tri thức, kinh nghiệm của mình vào hoạt động tìm kiếm tri thức mới hay giải quyết các tình huống mới, tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo, chủ động điều chỉnh nhận thức, lời nói và hành vi, GV cần xây dựng các tình huống giao tiếp”. Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra những định nghĩa tương đối đầy đủ về tình huống giao tiếp và xác định các đặc điểm cơ bản cùng những yêu cầu cần thiết của một tình huống giao tiếp trong giờ học tiếng. Từ cơ sở đó, tác giả mô tả khái quát quy trình thực hiện một tình huống giao tiếp trong giờ dạy Tiếng Việt. Hoạt động giao tiếp với dạy học tiếng Việt ở tiểu học của hai tác giả Phan Phương Dung, Đặng Kim Nga là công trình nghiên cứu chuyên sâu về dạy TV theo hướng giao tiếp. Nội dung giáo trình được triển khai theo 3 chương: giao tiếp và hoạt động giao tiếp, từ và câu trong hoạt động giao tiếp, dạy học TV theo quan điểm giao tiếp. Trong chương 3, những vấn đề lí luận, những định hướng dạy học tương đối cụ thể ở tiểu học được trình bày khá cặn kẽ, đem đến cho người quan tâm những tri thức cần thiết về quan điểm giao tiếp trong dạy TV nói chung, dạy TV ở tiểu học nói riêng. Giáo trình xác định rõ việc dạy TV ở tiểu học cần phải theo quan điểm giao tiếp, chỉ rõ mối quan hệ giữa quan điểm giao tiếp với mục tiêu dạy học TV ở tiểu học. Từ những phân tích cặn kẽ, người viết kết luận rằng cả mục tiêu và chương trình học đều hướng đến nhiệm vụ rèn kĩ năng lời nói cho HS và điều này là minh chứng cho định hướng giao tiếp trong môn TV ở tiểu học. Cũng góp tiếng nói về quan điểm giao tiếp trong dạy tiếng trong bài viết Yêu cầu đối với việc thiết kế bài tập TV dưới ánh sáng của lí thuyết hoạt động giao tiếp, tác giả Trịnh Thị Lan khẳng định dạy học TV cần phải hướng vào hoạt động giao tiếp để rèn luyện cho người học những kĩ năng giao tiếp nhất định. Bài viết không lí luận về quan điểm giao tiếp 11
  14. nói chung mà bàn sâu về những yêu cầu khi thiết kế bài tập TV theo quan điểm này. Trong bài viết, tác giả lưu ý việc ra bài tập cần phải tạo được tình huống kích thích nhu cầu giao tiếp và định hướng giao tiếp cho người học. Bài tập cũng phải chỉ rõ cho HS hướng giao tiếp khi áp dụng tri thức TV sẽ thực hành, tức từ bài tập HS sẽ rút ra được hoặc củng cố một tri thức hay một kĩ năng cần thiết cho hoạt động giao tiếp sau này. Cuối cùng, bài tập cần phải có những yêu cầu, nhiệm vụ giao tiếp cụ thể để định hướng cho HS tạo lập những phát ngôn cụ thể. Có thể nói, bài viết đã chỉ ra cho GV một cách làm khoa học để thiết kế những bài tập thực hành trong dạy học tiếng mẹ đẻ. Song, do mục đích nghiên cứu nên quan điểm giao tiếp trong bài viết chỉ dừng lại ở vấn đề bài tập, chưa khai thác ở các khía cạnh khác của hoạt động dạy học. Các công trình tôi đã đề cập trên đây cho thấy quan điểm giao tiếp đã được khai thác nhiều ở mặt lí luận và thực tiễn dạy học Tiếng Việt. Song tôi nhận thấy, hầu hết các công trình đều nghiên cứu lý thuyết giao tiếp trong việc dạy tiếng Việt nói chung, chưa có công trình nào có sự chuyên sâu nghiên cứu, xem xét cụ thể tính ứng dụng của việc vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học phân môn ngữ pháp theo đúng những đặc thù và mục tiêu mà môn học này đề ra. Dẫu các tài liệu nêu trên không trực tiếp đề cập đến vấn đề mà chúng tôi quan tâm nhưng chính các công trình nghiên cứu đó là những gợi ý quý báu về cơ sở lí luận giúp chúng tôi triển khai đề tài Vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy học ngữ pháp bậc THPT (ban Cơ bản). 3. Mục đích, đối tượng của đề tài 3.1. Mục đích của đề tài - Với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học ngữ pháp ở trường phổ thông, khi thực hiện đề tài này, người viết hướng vào giải quyết những vấn đề sau: + Tìm hiểu, làm sáng tỏ quan điểm giao tiếp trong dạy học ngữ pháp; + Hình thành quy trình, phương hướng thiết kế giờ dạy ngữ pháp bậc THPT theo quan điểm giao tiếp; + Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng hiệu quả của dạy ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp; 12
  15. Chọn đề tài này để nghiên cứu, bên cạnh mục đích nâng cao chất lượng học tập của HS, chúng tôi còn hi vọng giúp một phần cho GV ứng dụng được quan điểm giao tiếp trong dạy học ngữ pháp ở THPT nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học Tiếng Việt theo phương pháp tích hợp. 3.2. Đối tượng của đề tài Có nhiều quan điểm chi phối việc dạy Ngữ pháp trong nhà trường song trong luận văn này, người viết chỉ nghiên cứu trong giới hạn: - Vận dụng quan điểm giao tiếp vào dạy những bài ngữ pháp ở chương trình THPT (lớp 10, 11). - Công việc TN cũng được tiến hành trong chương trình lớp 11, đối tượng TN là HS lớp 11C1, 11C2 trường THPT Trí Đức, Tân Phú, TP.Hồ Chí Minh và HS lớp 11.1, 11.2 thuộc hệ thống trường dân lập Quốc tế Việt Úc, quận 10, TP.HCM. 4. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi vận dụng một số phương pháp sau: 4.1. Phương pháp phân tích tổng hợp Phương pháp này được chúng tôi ứng dụng để tổng hợp lý thuyết về quan điểm giao tiếp và phân tích các dữ liệu, từ đó, rút ra kết luận khái quát về việc dạy ngữ pháp theo hướng giao tiếp 4.2. Phương pháp thống kê Chúng tôi sử dụng PP này để thống kê, phân loại các phiếu khảo sát HS, GV và thống kê, phân loại kết quả TN làm cơ sở cho việc đánh giá kết quả sau cùng. 4.3. Phương pháp so sánh - đối chiếu Trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi cũng so sánh – đối chiếu kết quả thu được ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để đánh giá về tính khả thi của các giáo án ngữ pháp được thiết kế theo quan điểm giao tiếp. 4.4. Phương pháp thực nghiệm Để kiểm chứng tính khả thi của đề tài, xem xét những kết quả thu được của dạy học ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp, chúng tôi tiến hành TN sư phạm 8 tiết ở trường THPT. 13
  16. Công việc được bắt đầu từ khâu xác định mục đích TN đến lựa chọn đối tượng TN, phương pháp TN, nội dung TN và đánh giá kết quả TN. 5. Đóng góp của luận văn Thực hiện luận văn này, chúng tôi mong muốn có những đóng góp nhỏ sau: - Tổng hợp và hệ thống hóa những kiến thức lí thuyết về quan điểm giao tiếp trong dạy học ngữ pháp. - Đưa ra quy trình, phương hướng thiết kế giáo án dạy ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp. - Góp thêm tiếng nói để khẳng định một quan điểm tích cực trong dạy học TV: quan điểm giao tiếp. - Đánh thức sự quan tâm của GV đối với quan điểm giao tiếp trong dạy học TV để từ đó họ có sự tìm tòi sáng tạo trong PP, hình thức tổ chức dạy học TV có hiệu quả. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn còn có ba chương: (1) Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài. (2) Tổ chức dạy học ngữ pháp theo quan điểm giao tiếp. (3) Thực nghiệp sư phạm. Ngoài phần nội dung chính, luận văn còn kèm theo các phụ lục: phiếu học tập, phiếu kiểm tra, phiếu khảo sát ý kiến của HS, phiếu dự giờ có nhận xét, đánh giá của giáo viên. 14
  17. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học Thuật ngữ “năng lực giao tiếp” tuy xuất hiện sau thuật ngữ “năng lực ngôn ngữ” nhưng nhờ sự xuất hiện ấy mà “năng lực giao tiếp” đã làm thay đổi quan điểm dạy học Tiếng Việt hiện nay, trở thành mục đích cuối cùng của việc dạy và học Tiếng Việt. Khái niệm “năng lực giao tiếp” được hiểu thông qua sự đối lập với khái niệm “năng lực ngôn ngữ”. Năng lực ngôn ngữ là khả năng của con người tạo ra được những câu đúng trên cơ sở nắm vững những kiến thức ngữ pháp, từ vựng, ngữ âm, tu từ…của ngôn ngữ đó. Còn năng lực giao tiếp đó là việc lựa chọn và hiện thực hóa những chương trình của hành vi lời nói tùy thuộc vào khả năng định hướng trong hoàn cảnh này hoặc khác, khả năng phân loại các tình huống sao cho phù hợp với chủ đề, nhiệm vụ và mục đích giao tiếp ở người học trước khi giao tiếp, trong khi giao tiếp và trong quá trình mô phỏng các tình huống giống và gần giống như giao tiếp thực. Nói cách khác, năng lực giao tiếp chính là khả năng tham gia vào giao tiếp. Giao tiếp với tư cách là một dạng hoạt động đặc biệt của con người nhằm củng cố mối quan hệ và được sử dụng để truyền đạt thông tin giữa người và người. Ở đây, có hai mặt phản ánh qua lại, mặt ngôn ngữ và mặt xã hội vì bất cứ một phát ngôn nào cũng được sản sinh trong một tình huống cụ thể có kèm theo một nền rất rộng các điều kiện tạo ra tình huống ấy. Ngôn ngữ được sử dụng có tính đến tình huống giao tiếp và sự ảnh hưởng tới những đặc điểm tâm lý cá thể trong việc sử dụng từ ngữ của người tham gia giao tiếp, có nghĩa là có tính đến hiệu quả ứng dụng, điều đó loại trừ khả năng tồn tại những phát ngôn riêng biệt được tạo nên ngoài ngữ cảnh giao tiếp. Đơn vị giao tiếp là loại hành động lời nói nhất định hoặc hành vi lời nói khẳng định yêu cầu hỏi han, xin lỗi, cảm ơn… 1.1.2. Cơ sở tâm lý - ngôn ngữ Theo quan điểm tâm lý học hoạt động do nhà tâm lý học người Nga L.S.Vư-gootsxki và trường phái của ông đề xướng thì hoạt động lời nói là một dạng hoạt động đặc biệt của con người, mà hoạt động thì bao gồm nhiều hành động riêng lẻ và mỗi hành động được tạo thành từ nhiều thao tác riêng biệt.Từ đó suy ra đơn vị dạy- học ngôn ngữ phải là hành động lời nói. Dạy hành động lời nói cần phải xem xét trên quan điểm: Dạy ai? Dạy cái gì?, Dạy để làm gì? và Dạy như thế nào?. Đối với việc dạy hoạt động lời nói, sự thống nhất giữa các mặt chức năng và hình thức của nó là đều có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì hình thức ngôn 15
  18. ngữ không thể có được nếu thiếu mặt chức năng. Nếu mục đích của việc dạy- học là hoạt động lời nói thì hình thức và chức năng cần phải được hình thành đồng thời, hơn thế, cơ sở để hình thành hoạt động lời nói phải là chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Phương pháp dạy học Tiếng Việt vận dụng rất nhiều thành tựu của Tâm lý học. Đó là các quy luật tiếp thu tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Tâm lý ngôn ngữ học đem lại cho phương pháp những số liệu về lời nói như một hoạt động, ví dụ như việc xác định tình huống nói năng, các giai đoạn sản sinh lời nói, tính hiệu quả, sự tác động của lời nói trong giao tiếp giữa cá thể với nhiều người. Quan hệ của phương pháp học Tiếng Việt và Tâm lý học, đặc biệt là Tâm lý học lứa tuổi rất chặt chẽ. Không có kiến thức về quá trình tâm lý người nói chung và tâm lý học sinh trung học phổ thông nói riêng thì không thể giảng dạy tốt và phát triển ngôn ngữ cho các em. 1.1.3. Cơ sở giáo dục học Phương pháp dạy học Tiếng Việt là một bộ phận của khoa học giáo dục nên nó phụ thuộc vào những quy luật chung của khoa học này.. Mục đích của phương pháp dạy học Tiếng Việt cũng như các khoa học giáo dục nói chung là tổ chức sự phát triển tâm hồn và thể chất của học sinh, chuẩn bị cho các em đi vào cuộc sống lao động trong xã hội mới. Quan hệ của phương pháp dạy học Tiếng Việt với khoa học giáo dục thể hiện ở chỗ phương pháp được một hệ thống giáo dục tạo ra và làm cơ sở. phương pháp dạy học Tiếng Việt sử dụng các khái niệm, thuật ngữ của Giáo dục học. Nó hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục do Giáo dục học đề ra- phát triển trí tuệ, hình thành thế giới quan khoa học, phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh, giáo dục tư tưởng đạo đức, phát triển óc thẩm mỹ giáo dục tổng hợp và giáo dục lao động. Trong phương pháp dạy học Tiếng Việt có thể tìm thấy các nguyên tắc cơ bản của Lý luận dạy học: nguyên tắc giáo dục và phát triển của dạy học, nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc gắn liền lý thuyết với thực hành, nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tiếp cận cá thể và phân hóa trong dạy học… 1.1.4. Lý thuyết về giao tiếp và hoạt động giao tiếp 1.1.4.1. Giao tiếp và các hình thức của giao tiếp Theo Từ điển Thuật ngữ ngôn ngữ học, giao tiếp là “sự thông báo hay truyền đạt thông báo nhờ một hệ thống mã nào đó”. Theo đó, có thể hiểu giao tiếp là hoạt động giữa 16
  19. hai người hay hơn một người nhằm bày tỏ với nhau một thông tin trí tuệ hoặc thông tin cảm xúc, một ý muốn hành động hay một nhận xét về sự vật, hiện tượng nào đó. “Hoạt động giao tiếp có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức, qua những phương tiện khác nhau, như ánh sáng, màu sắc, âm thanh, cử chỉ, điệu bộ,…” (Sách GV TV 5, tập 1, trang 6). Nhưng giao tiếp ngôn ngữ là hình thức giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của xã hội loài người. Về nguyên tắc, giao tiếp ngôn ngữ mang tính chất xã hội, trong đó người tham gia giao tiếp phải có mối quan hệ nhất định với nhau, đó là quan hệ giao tiếp. Quan hệ giao tiếp được xây dựng trên hệ thống các mối quan hệ xã hội nói chung, tên cấu trúc xã hội và trên quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp hoặc nhóm người trong xã hội. Giao tiếp ngôn ngữ có thể thực hiện bằng lời (giao tiếp miệng) hoặc bằng văn tự (giao tiếp viết).Trong hai dạng trên thì giao tiếp miệng là cơ sở. 1.1.4.2. Chức năng của giao tiếp a) Chức năng thông tin: Thông tin là chức năng thường gặp nhất của giao tiếp, có thể được thực hiện qua nhiều phương tiện. Trong chức năng này, giao tiếp giúp những người tham gia hoạt động trao đổi cho nhau những tin tức dưới dạng nhận thức, những tư tưởng có được từ hiện thực. Các cuốn giáo trình, bài giảng của giáo viên, bài thi của học sinh, hệ thống biển báo,…là những ví dụ về chức năng thông tin của giao tiếp. b) Chức năng tạo lập quan hệ: Nhiều khi trò chuyện với nhau không phải vì muốn thông báo với người khác một nội dung trí tuệ, một hiểu biết, một nhận thức, mà vì muốn thiết lập một mối quan hệ mới hoặc duy trì một mối quan hệ đã được thiết lập từ trước. Thậm chí, vì ta muốn phá vỡ một mối quan hệ đã có nhưng nay không muốn duy trì nữa. Chức năng tạo lập quan hệ bao hàm cả tác dụng phá vỡ quan hệ. Còn trò chuyện được có nghĩa là có thể tiếp tục duy trì quan hệ thân hữu giữa những người tham gia giao tiếp. Nhưng cũng có khi giao tiếp lại góp phần phá vỡ mối quan hệ vốn có giữa họ. Sự phá vỡ này có thể do những người trong cuộc cố tình tạo ra, nhưng cũng có bao gồm mối quan hệ bị phá vỡ một cách vô tình do ta “chậm miệng” hay lỡ lời, người ta vẫn hay nói: sảy chân còn đỡ được chứ sảy miệng thì làm sao mà đỡ nổi! 17
  20. Tạo lập quan hệ là chức năng giao tiếp cộng tác giữa người với người. Có thể nhiều người không biết đến, nhưng ngôn ngữ vẫn luôn đảm nhận chức năng này một cách lặng lẽ, rất cần cho sự tồn tại của xã hội. c) Chức năng tự biểu hiện: Qua giao tiếp, con người tự biểu hiện mình. Một cách có ý thức hoặc không có ý thức, qua lời nói, ta có thể để lộ tình cảm, sở thích, khuynh hướng, trạng thái tâm hồn, nguồn gốc địa phương, trạng thái sức khỏe..của bản thân. d) Chức năng giải trí: Nghỉ ngơi, giải trí là một nhu cầu của con người, giao tiếp cũng nằm trong những mục giải trí dó nhưng dễ thực hiện và đỡ “tốn kém” hơn cả, không yêu cầu cao về hoạt động tổ chức, không cần nhiều thời gian..Nhiều lúc,sau buổi làm việc căng thẳng, ta nói chuyện phiếm với bạn bè, nhưng câu chuyện lúc tán gẫu, những bài thơ vui hay những câu chuyện cười mà ta sưu tầm được,..đều làm cho tinh thần ta thư giãn, thoải mái. e) Chức năng hành động: Hành động là chức năng thông qua giao tiếp mà người ta thúc đẩy nhau hành động. Không phải người nghe mới hành động mà người nói cũng phải hành động dưới sự thúc đẩy của lời nói trong giao tiếp. Sự thúc đẩy này không phải khi nào cũng được thực hiện một cách chủ động từ nhân vật giao tiếp, mà có thể xuất hiện một cách tự nhiên trong tình huống giao tiếp cụ thể. Mặt khác, chức năng hành động của giao tiếp còn thể hiện ở chỗ, qua cuộc giao tiếp, các nhân vật có thể thay đổi về nhận thức, tình cảm, những thay đổi này, ở những mức độ khác nhau, sẽ tác động đến hành động của họ. 1.1.4.3. Các nhân tố giao tiếp Nhân tố giao tiếp là những yếu tố có mặt trong hoạt động giao tiếp và ảnh hưởng đến hoạt động giao tiếp đó. Hiện thực được nói tới, ngôn ngữ được sử dụng, nhân vật giao tiếp, mục đích giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp là những nhân tố giao tiếp thông thường. f) Hiện thực được nói tới Hiện thực được nói tới bao gồm những sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan, những tâm trạng, cảm xúc,…được đưa vào ngôn bản. Đó là những hiện thực được đề cập tới 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2