Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan giúp học sinh tự kiểm tra - đánh giá kết quả học tập trên máy tính phần "Nhiệt học" thuộc chương trình Vật lý 10 Cơ bản
lượt xem 23
download
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan giúp học sinh tự kiểm tra - đánh giá kết quả học tập trên máy tính phần "Nhiệt học" thuộc chương trình Vật lý 10 Cơ bản nghiên cứu xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho phần “Nhiệt học” thuộc chương trình Vật lý 10 ban Cơ bản, sử dụng bằng phần mềm tin học để nâng cao chất lượng giảng dạy Vật lý.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan giúp học sinh tự kiểm tra - đánh giá kết quả học tập trên máy tính phần "Nhiệt học" thuộc chương trình Vật lý 10 Cơ bản
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Trần Thị Thu Vân Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS.LÊ THỊ THANH THẢO
- Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn TS. LÊ THỊ THANH THẢO đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ phương pháp cùng các thầy cô giáo trong khoa Vật lý, trường Đại học Sư Phạm- TPHCM đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường THPT Lê Quý Đôn cùng các thầy cô giáo và các đồng nghiệp trong tổ Vật lý đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất trong quá trình tôi thực hiện đề tài. Tác giả Trần Thị Thu Vân
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài, thực trạng Theo nghị quyết của hội nghị BCHTW Đảng lần 2 và luật giáo dục năm 2005 đã xác định việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng “khuyến khích tự học”. Tự kiểm tra - đánh giá của học sinh thực chất là một hình thức tự học. Tự học là quá trình tạo ra tri thức bền vững cho mỗi con người trên con đường học vấn thường xuyên của cả cuộc đời. Nó thật sự trở thành “chìa khóa vàng của giáo dục”. Do đó nếu phát huy khả năng tự kiểm tra, đánh giá là một biện pháp quan trọng góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động người học. Dạy học theo khuynh hướng tự học là một mục tiêu quan trọng của giáo dục thế kỷ XXI. Tự kiểm tra giúp học sinh chủ động tự đánh giá kết quả trong suốt quá trình học tập, từ đó có cơ sở để chủ động tự điều chỉnh kiến thức, hành vi, thái độ, phương pháp học tập, nhờ đó mà kết quả học không ngừng tiến bộ. Tuy nhiên trong thực tiễn giáo dục phổ thông Việt Nam nhiều năm qua hình thức tự kiểm tra- đánh giá chưa được khai thác và quan tâm đúng mức. Từ lâu trong thực tế ở các trường phổ thông chủ yếu chỉ sử dụng hình thức kiểm tra tự luận, một hình thức kiểm tra có nhiều hạn chế như : không bao quát được các mục tiêu giáo dục, tốn nhiều thời gian làm bài và chấm bài, không khách quan…. Hơn nữa thông tin phản hồi đến từng cá nhân học sinh rất hạn chế nên kết quả kiểm tra không đủ cơ sở để học sinh tự điều chỉnh việc học của mình. Hơn nữa, bắt đầu năm học 2006-2007 BGD-ĐT triển khai thi tốt nghiệp phổ thông và thi tuyển đại học, cao đẳng theo phương pháp trắc nghiệm khách quan cho 4 môn: Vật lý, Hóa học, Sinh vật, Ngoại ngữ. Trong tương lai rất gần, kỳ thi đại học sẽ không còn và thay thế vào đó là kỳ thi tốt nghiệp với nhiều môn sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan. Muốn đạt được kết quả tốt, học sinh không những phải đạt được những mục tiêu giáo dục trong quá trình học tập mà còn phải được làm quen , được rèn luyện những kỹ năng làm bài thi trắc nghiệm khách quan. Hiện nay chương trình hỗ trợ tự ôn tập bằng trắc nghiệm khách quan rất nhiều , nhưng chủ yếu tập trung nhiều vào chương trình lớp 12 để phục vụ cho mục đích thi tốt nghiệp, đại học. Xây dựng ngân hàng câu hỏi phục vụ mục đích tự kiểm tra – đánh giá bao quát tất cả các mục tiêu môn học, triển khai hình thức tự kiểm tra – đánh giá ngay từ lớp 10 không những giúp học sinh tăng cường khả năng tự học, tự điều chỉnh để có hệ thống kiến thức, kỹ năng vững chắc mà còn tạo điều kiện để học sinh được chủ động làm quen với hình thức trắc nghiệm khách quan. Trong thời đại ngày nay công nghệ thông tin và truyền thông được áp dụng ngày càng rộng rãi. Hầu hết các ngành nghề đều cần có sự hỗ trợ của các phần mềm ứng dụng nhằm hòan thành công việc nhanh chóng, hiệu quả, nâng cao hiệu suất làm việc thì giáo dục cũng không là ngoại lệ. Ứng dụng
- công nghệ thông tin và truyền thông trong giáo dục nói chung, trong tự kiểm tra- đánh giá nói riêng giúp người học chủ động và được tiếp cận bình đẳng với các dịch vụ giáo dục tiên tiến. Chính vì những lý do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài “Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan và sử dụng trên máy tính giúp học sinh tự kiểm tra - đánh giá kết quả học tập phần “Nhiệt Học” thuộc chương trình Vật lý 10 ban Cơ bản”. Chúng tôi mong muốn với đề tài này học sinh sẽ có cơ hội để tự kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh kiến thức, hành vi, thái độ và phương pháp học tập của bản thân để có hệ thống kiến thức, kỹ năng vững chắc làm nền tảng cho sự tiến bộ không ngừng trong quá trình học tập. Chúng tôi cũng mong muốn kết quả đề tài nghiên cứu sẽ góp phần nhỏ bé vào công cuộc đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho phần “Nhiệt học” thuộc chương trình Vật lý 10 ban Cơ bản, sử dụng bằng phần mềm tin học để nâng cao chất lượng giảng dạy , giúp học sinh tự kiểm tra – đánh giá quá trình học tập trên máy tính khi học phần “Nhiệt học” ( Vật lý 10), tài liệu tham khảo cho giáo viên trong việc ra đề kiểm tra trắc nghiệm 3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để đạt được mục tiêu đề ra, đề tài có những nhiệm vụ cơ bản sau: Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc tự kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh. Nghiên cứu cơ sở lý luận của hình thức kiểm tra trắc nghiệm khách quan, xây dựng qui trình soạn thảo một hệ thống câu hỏi trắc ngiệm khách quan. Nghiên cứu chương trình, nội dung Vật lý 10, xác định những mục tiêu cụ thể mà việc dạy và học cần phải đạt tới. Trên cơ sở hệ thống mục tiêu tiến hành biên soạn câu hỏi phần “ Nhiệt học” nhằm giúp học sinh tự kiểm tra- đánh giá và tự điều chỉnh kiến thức, kỹ năng, cách học… Biên soạn nội dung thông tin phản hồi cho từng câu hỏi nhằm hỗ trợ học sinh trong việc tự điều chỉnh kiến thức, kỹ năng, cách học … Thiết kế phần mềm vận hành ngân hàng câu hỏi tự kiểm tra- đánh giá để tự điều chỉnh Thực nghiệm sư phạm ở trường phổ thông nhằm xác định mức độ phù hợp của ngân hàng câu hỏi so với mục tiêu đề ra và độ chính xác của ngân hàng câu hỏi, hiệu quả của phần mềm hổ trợ. Kết quả thực nghiệm là cơ sở để điều chỉnh ngân hàng câu hỏi, phần mềm hỗ trợ sao cho phù hợp và hiệu quả hơn. Đề xuất ý kiến 4. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu lý luận Phương pháp điều tra
- Thống kê giáo dục 5. Đối tượng - Phạm vi nghiên cứu của đề tài Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong phần “ Nhiệt học” thuộc chương trình Vật lý 10 ban Cơ bản và tiến hành thực nghiệm chủ yếu ở một số trường THPT tại TpHCM 6. Giả thuyết khoa học Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan được biên soạn bao quát tất cả những mục tiêu mà chương trình học phân ban hiện nay đề ra sẽ là cơ sở giúp học sinh chủ động, tích cực trong việc tự kiểm tra – đánh giá kết quả học tập trong suốt quá trình học tập làm cơ sở cho việc tự điều chỉnh kiến thức, hành vi (kỹ năng), thái độ, phương pháp học tập vì thế kết quả học tập sẽ tốt hơn. Tự kiểm tra- đánh giá trên máy tính (trực tuyến hay không trực tuyến) sẽ tạo cơ hội để tất cả học sinh có cơ hội tiếp cận và sử dụng một cách thuận lợi mọi lúc mọi nơi . 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Ý nghĩa về mặt khoa học: đề tài nghiên cứu tổng thuật để bổ sung những hiểu biết khoa học về tự kiểm tra-đánh giá. Ý nghĩa về thực tiễn : - Là tài liệu tham khảo cho giáo viên . - Giúp học sinh chủ động, hứng thú trong việc tự kiểm tra – đánh giá kết quả học tập, nâng cao khả năng tự học . - Giúp học sinh làm quen với hình thức kiểm tra trắc nghiệm khách quan. - Giúp học sinh có sơ sở để tự điều chỉnh kiến thức, hành vi, thái độ, kỹ năng, phương pháp học tập trong suốt quá trình học. - Là cở sở để tiến hành việc xây dựng ngân hàng câu hỏi tự kiểm tra-đánh giá trực tuyến cho chương trình Vật lý THPT .
- Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan về các hình thức kiểm tra- đánh giá 1.1.1. Thế nào là kiểm tra-đánh giá Kiểm tra là một hoạt động nhằm thu thập và cung cấp những dữ kiện, những thông tin làm cơ sở cho việc đánh giá. Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả công việc, dựa vào sự phân tích những thông tin thu được từ kiểm tra, sau đó đối chiếu với những mục tiêu đã đề ra từ trước. Từ đó đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc. Như vậy, kiểm tra chính là hoạt động cần phải có trước khi đánh giá và đánh giá là hoạt động tất yếu diễn ra sau khi kiểm tra. Hơn nữa, đánh giá không chỉ đơn thuần là sự ghi nhận thực trạng mà còn là đề xuất những quyết định làm thay đổi thực trạng.Vì thế, kiểm tra và đánh giá luôn đi liền với nhau, không thể tách rời nhau và là một khâu quan trọng trong quá trình của một công việc nào đó. Trong quá trình dạy - học, kiểm tra-đánh giá là một hoạt động thường xuyên, là một bộ phận hợp thành không thể thiếu của quá trình dạy - học. Nó là khâu cuối cùng của một quá trình dạy - học đồng thời là cơ sở cho bước khởi đầu một quá trình dạy – học mới. Có nhiều cách định nghĩa về đánh giá nhưng đều có quan điểm là: đánh giá trong giáo dục là quá trình thu thập và lý giải kịp thời, có hệ thống về hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục căn cứ vào mục tiêu dạy học, mục tiêu giáo dục, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp giáo dục tiếp theo. Trong giáo dục, tùy thuộc vào cấp độ đánh giá, đối tượng và mục đích đánh giá mà quá trình đánh giá sẽ được thực hiện bởi một hệ thống các phương pháp và hình thức nhất định. Ở đây, chúng tôi chỉ quan tâm đến việc đánh giá thành quả dạy – học. Khi phân tích quá trình đánh giá người ta thấy có 4 khâu hợp thành một qui trình: Đo – Lượng giá – Đánh giá – Ra quyết định. Đo là quá trình xác định các số cho các cá nhân hay cho các đặc điểm của cá nhân theo những nguyên tắc đã định rõ. Đo yêu cầu sử dụng các số chứ không yêu cầu đưa ra những ý kiến đánh giá về con số có được từ cả quá trình đó. Trong giáo dục, kết quả bài kiểm tra của học sinh được thể hiện bằng một số đo dựa theo những quy tắc nhất định. Đó có thể là một điểm số, một thứ bậc, một loại hạng. Lượng giá là việc dựa vào các số đo, người ta đưa ra những thông tin ước lượng trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của người học. Người ta phân biệt hai cách lượng giá: lượng giá theo chuẩn là so sánh trình độ của học sinh với trình độ trung bình chung của tập hợp ( tập thể lớp chẳng hạn); còn lượng giá theo tiêu chí là so sánh trình độ của học sinh với những tiêu chí đã đề ra ban đầu.
- Đánh giá là bước quyết định trong toàn bộ quá trình đánh giá. Đó không chỉ là việc đưa ra những nhận xét, phán đoán về trình độ của người học trước vấn đề cần kiểm tra mà còn đề ra những biện pháp để bổ khuyết sai sót hoặc phát huy kết quả. Ra quyết định là khâu cuối cùng của quá trình đánh giá. Dựa vào những nhận xét, nhận định trong khâu đánh giá mà giáo viên đưa ra những biện pháp cụ thể giúp học sinh khắc phục thiếu sót hoặc phát huy mặt mạnh; đồng thời xem xét điểu chỉnh lại cách dạy học cho phù hợp. Các kiểu quá trình đánh giá thường dùng trong nhà trường: a. Đánh giá chuẩn được thiết kế để xác định điểm xuất phát của người học, trước khi học một chủ đề nào đó, giúp cho giáo viên định hướng dạy học. b. Đánh giá từng phần được thực hiện trong quá trình dạy học một nội dung nào đó, giúp cho giáo viên và học sinh nắm được thông tin ngược về quá trình học tập, làm căn cứ cho việc điều chỉnh kịp thời hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò để có thể thực hiện mục tiêu đã đặt ra. c. Đánh giá tổng kết được thực hiện sau quá trình dạy học ( tức là sau khi kết thúc môn học, khóa học,…), hướng vào thành phẩm cuối cùng nhằm hiểu được mức độ thực hiện mục tiêu và đánh giá tổng quát kết quả học tập của học sinh. 1.1.2. Chức năng của kiểm tra-đánh giá trong quá trình dạy và học Trong quá trình dạy – học, tùy vào từng đối tượng, việc kiểm tra- đánh giá có các chứng năng khác nhau: a. Đối với học sinh Về mặt tri thức và kỹ năng, việc kiểm tra- đánh giá giúp cho học sinh thấy mình đã lĩnh hội những điều vừa học đến mức nào, còn những lỗ hổng nào cần phải bổ khuyết. Từ đó, học sinh tự điều chỉnh quá trình học tập của mình và thúc đẩy quá trình học tập phát triển không ngừng. Về mặt giáo dục, nếu việc kiểm tra- đánh giá được tổ chức nghiêm túc sẽ giúp học sinh nâng cao tinh thần trách nhiệm trong học tập, nâng cao ý thức tự giác, khắc phục tính chủ quan tự mãn và đặc biệt là phát triển năng lực tự đánh giá, một năng lực quan trọng đối với việc học tập. Tuy nhiên trong quá trình kiểm tra- đánh giá học sinh phụ thuộc vào chủ thể là giáo viên về hình thức, nội dung kiểm tra cũng như thời gian làm bài. b. Đối với giáo viên Việc kiểm tra-đánh giá giúp cho giáo viên nắm được trình độ học tập, mức độ lĩnh hội tri thức của học sinh, có được những thông tin ngược cần thiết để điều chỉnh phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, cách thức tổ chức quá trình dạy học sao cho mục tiêu dạy học đạt được hiệu quả. Trên cơ sở đó giáo viên tự điều chỉnh, tự hoàn thiện hoạt động dạy, đáp ứng các yêu cầu về mục tiêu dạy học đã đề ra. c. Đối với cán bộ quản lý giáo dục
- Việc kiểm tra- đánh giá cung cấp những thông tin cơ bản về thực trạng dạy học của nhà trường để có thể chỉ đạo, uốn nắn kịp thời, khuyến khích và hỗ trợ những sáng kiến nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo. Đồng thời, kiểm tra- đánh giá cũng là cơ sở để xây dựng chiến lược giáo dục về mục tiêu và nội dung đào tạo, về đội ngũ giáo viên và về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học… 1.1.3. Những yêu cầu cơ bản đối với việc kiểm tra-đánh giá thành quả dạy–học Những yêu cầu sư phạm sau đây thường được tính tới trong việc kiểm tra- đánh giá kết quả học tập của học sinh: Đảm bảo tính khách quan Nội dung kiểm tra- đánh giá phải bám sát với yêu cầu, mức độ của chương trình, phù hợp với điều kiện dạy học và đối tượng học sinh, tránh những nhận định chủ quan, áp đặt, thiếu căn cứ. Phải đảm bảo sự vô tư của người đánh giá, đảm bảo tính trung thực của người được đánh giá, tránh tình cảm cá nhân, thiên vị, chống quay cóp, gian lận trong khi kiểm tra. Đảm bảo tính toàn diện Một bài kiểm tra- đánh giá có thể nhằm vào một mục tiêu trọng tâm nào đó nhưng toàn bộ hệ thống đánh giá phải đạt yêu cầu toàn diện, không chỉ về mặt kiến thức mà cả về kỹ năng, thái độ, tư duy. Đảm bảo tính hệ thống Việc kiểm tra- đánh giá phải được tiến hành có kế hoạch, có hệ thống: đánh giá thường xuyên, đánh giá sau khi học từng nội dung, đánh giá định kì, đánh giá tổng kết cuối khóa học, năm học. Đảm bảo tính công khai Kiểm tra- đánh giá phải được tiến hành công khai, kết quả cũng phải được công bố công khai trước tập thể để tập thể có thể hiểu biết, học tập lẫn nhau và giúp đỡ lẫn nhau. 1.1.4. Các hình thức kiểm tra- đánh giá trong giáo dục Có thể phân chia các hình thức kiểm tra-đánh giá làm 3 loại: quan sát, vấn đáp, viết Quan sát: giúp xác định thái độ, kỹ năng thực hành hoặc một số kỹ năng về nhận thức, chẳng hạn cách giải quyết các vấn đề trong một tình huống đang được nghiên cứu Vấn đáp: thường được dùng khi tương tác giữa người chấm và người học là quan trọng, chẳng hạn cần xác định thái độ phản ứng khi phỏng vấn… Viết: được chia làm 2 nhóm chính: Nhóm các câu hỏi buộc trả lời theo dạng mở, học sinh phải tự trình bày ý kiến trong một bài viết dài để giải quyết vấn đề mà câu hỏi nêu ra. Thường gọi là trắc nghiệm tự luận (essay).
- Nhóm các câu trắc nghiệm mà trong đó đề thi thường gồm nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu ra một vấn đề cùng với những thông tin cần thiết sao cho thí sinh phải trả lới vắn tắt từng câu. Thường gọi là trắc nghiệm khách quan (objective test). Hiện nay hai hình thức trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận thường được dùng để kiểm tra- đánh giá thành quả dạy-học. Cần phải khẳng định ngay rằng không thể nói hình thức nào ưu việt tốt hơn. Mỗi hình thức có các ưu điểm và nhược điểm nhất định. Điều quan trọng là phải biết kết hợp cả hai loại để hạn chế nhược điểm và tăng cường ưu điểm của mỗi hình thức nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất trong việc kiểm tra- đánh giá thành quả dạy-học. Bảng 1.1: Bảng so sánh ưu thế của hình thức trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận Ưu thế thuộc về Yêu cầu Trắc nghiệm Trắc nghiệm tự khách quan luận Đề thi phủ kín được môn học + Ít may rủi do trúng tủ, trật tủ + Chấm bài nhanh, ít tốn công sức + Áp dụng được công nghệ mới trong việc nâng cao chất lượng + kì thi, giúp phân tích kết quả thi Khách quan, hạn chế tiêu cực trong khi thi và khi chấm thi + Ít tốn công ra đề thi + Đánh giá được khả năng diễn đạt, đặc biệt là diễn đạt tư duy + hình tượng Từ bảng so sánh có thể thấy sự khác nhau quan trọng giữa hai hình thức là mức độ phản ánh khách quan. Đối với loại đề tự luận, kết quả chấm thi phụ thuộc vào chủ quan của người chấm, do đó rất khó công bằng, chính xác. Để hạn chế mức độ chủ quan đó người ta cải tiến việc chấm bài tự luận bằng cách đề ra các thang điểm rất chi tiết. Tuy vậy nhiều thử nghiệm cho thấy sự thiên lệch của việc chấm bài tự luận thường rất lớn. Với loại đề trắc nghiệm khách quan khi đã có đáp án sẵn việc chấm bài là hoàn toàn khách quan, chính xác, không phụ thuộc người chấm, nhất là khi chấm bài bằng máy. Tuy nhiên cũng có thể nói rằng hình thức trắc nghiệm khách quan không hoàn toàn khách quan vì việc soạn thảo các câu hỏi và định điểm cho các câu hỏi có phần tùy thuộc vào người soạn. Các chuyên gia về trắc nghiệm cho rằng trắc nghiệm tự luận nên dùng trong các trường hợp sau: (1) Khi nhóm học sinh được khảo sát không quá đông. (2) Khi muốn khuyến khích và đánh giá cách diễn đạt của học sinh. (3) Khi muốn thăm dò thái độ hay tìm hiểu tư tưởng của học sinh về một vấn đề nào đó hơn là khảo sát thành quả học tập của chúng. (4) Khi có thể tin tưởng vào khả năng chấm bài tự luận của giáo viên là vô tư và chính xác. (5) Khi không có nhiều thời gian soạn đề nhưng lại có đủ thời gian để chấm bài. Mặt khác, trắc nghiệm khách quan nên dùng trong các trường hợp sau:
- (1) Khi cần khảo sát một số đông các học sinh. (2) Khi muốn có điểm số đáng tin cậy, không phụ thuộc vào chủ quan người chấm bài. (3) Khi muốn chấm bài nhanh để sớm công bố kết quả. (4) Khi các yếu tố công bằng, vô tư, chính xác là những yếu tố quan trọng nhất của việc thi cử và muốn ngăn chặn nạn gian lận trong thi cử. (5) Khi muốn kiểm tra một phạm vi hiểu biết rộng, muốn ngăn ngừa nạn học tủ, học vẹt. Cả trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận đều có thể sử dụng để: (1) Đo lường mọi thành quả học tập mà một bài khảo sát viết có thể đo lường được. (2) Khảo sát khả năng hiểu và áp dụng các nguyên lý. (3) Khảo sát khả năng suy nghĩ có phê phán. (4) Khảo sát khả năng giải quyết các vấn đề mới. (5) Khảo sát khả năng lựa chọn những sự kiện thích hợp và các nguyên tắc để phối hợp chúng lại với nhau nhằm giải quyết những vấn đề phức tạp. (6) Khuyến khích học tập để nắm vững kiến thức. 1.2. Tổng quan về hình thức trắc nghiệm khách quan 1.2.1. Thế nào là trắc nghiệm khách quan Trắc nghiệm khách quan là loại hình câu hỏi, bài tập mà các phương án trả lời đã có sẵn, hoặc nếu học sinh phải tự viết câu trả lời thì câu trả lời phải là câu ngắn và chỉ có duy nhất một cách viết đúng. Trắc nghiệm này được gọi là “khách quan” vì tiêu chí đánh giá là đơn nhất, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người chấm. 1.2.2. Các hình thức trắc nghiệm khách quan Các câu trắc nghiệm có thể được đặt dưới nhiều hình thức khác nhau như: câu trắc nghiệm Đúng – Sai, ghép đôi, điền khuyết, trả lời ngắn, nhiều lựa chọn. Mỗi hình thức đều có ưu, khuyết điểm của nó. Vấn đề đặt ra là phải nắm vững công dụng của từng loại và biết lựa chọn hình thức câu trắc nghiệm nào thích hợp cho việc khảo sát khả năng hay kiến thức mà ta dự định đo lường, đánh giá. Loại câu trắc nghiệm Đúng – Sai Cấu trúc: gồm một câu phát biểu và phần người làm bài trả lời bằng cách lựa chọn: Đúng– Sai Ưu và nhược điểm: Có thể đặt được nhiều câu hỏi trong một bài trắc nghiệm với thời gian cho trước; điều này làm tăng tính tin cậy của bài trắc nghiệm nếu như các câu trắc nghiệm Đ-S được soạn thảo theo đúng quy cách. Trong thời gian ngắn có thể soạn được nhiều câu trắc nghiệm Đúng – Sai. Độ may rủi cao (50%) nên dễ khuyến khích sự đoán mò. Loại câu trắc nghiệm ghép đôi
- Cấu trúc: gồm 3 phần: phần chỉ dẫn cách trả lời ; phần gốc (cột 1) và phần lựa chọn (cột 2) gồm những câu ngắn, đoạn, chữ, số … Ưu và nhược điểm: Dễ soạn, dễ dùng, rất hữu dụng trong việc đánh giá khả năng nhận biết các hệ thức hay lập các mối tương quan. Không thích hợp cho việc kiểm tra các khả năng như sắp đặt và vận dụng các kiến thức. Nếu danh sách mỗi cột quá dài thì sẽ tốn nhiều thời gian để người làm bài đọc nội dung mỗi cột trước khi ghép đôi. Loại câu trắc nghiệm điền khuyết Cấu trúc: gồm những câu phát biểu với một hay nhiều chỗ trống để người làm bài nghĩ ra nội dung thích hợp để điền vào bằng một từ hay một nhóm từ ngắn. Ưu và nhược điểm: Dễ soạn, người làm bài không có cơ hội đoán mò mà phải nhớ ra, nghĩ ra câu trả lời, có thể tự do, sáng tạo trong khi trả lời, chấm điểm cũng nhanh hơn trắc nghiệm tự luận. Rất dễ mắc sai lầm là trích nguyên văn các câu từ trong sách, chỉ kiểm tra được khả năng nhớ. Phạm vi kiểm tra thường chỉ giới hạn vào chi tiết vụn vặt. Mất nhiều thời gian chấm bài và thiếu khách quan hơn so với các hình thức câu hỏi trắc nghiệm khách quan khác. Loại câu trắc nghiệm trả lời ngắn Là câu trắc nghiệm chỉ đòi hỏi trả lời bằng nội dung rất ngắn. Ưu và nhược điểm cũng giống như loại câu trắc nghiệm điền khuyết. Loại câu trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn Đây là hình thức câu trắc nghiệm thông dụng và phổ biến nhất hiện nay và cũng là hình thức mà chúng tôi chọn để sử dụng trong đề tài. Loại câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn sẽ được trình bày kỹ hơn ở mục tiếp theo nhằm phục vụ tốt cho việc soạn thảo hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan mà nhiệm vụ của đề tài đặt ra. Cấu trúc: Gồm 2 phần: phần gốc và phần lựa chọn Phần gốc: là một câu hỏi (kết thúc là dấu hỏi) hay câu bỏ lửng (chưa hoàn tất). Trong phần gốc, người soạn trắc nghiệm đặt ra một vấn đề hay đưa ra một ý tưởng rõ ràng giúp cho người trả lời hiểu rõ câu trắc nghiệm ấy muốn hỏi điều gì để có thể lựa chọn câu trả lời thích hợp. Phần lựa chọn: có thể là 3, 4 hay 5 lựa chọn. Mỗi lựa chọn là câu trả lời (cho câu có dấu hỏi) hay là câu bổ túc (cho phần còn bỏ lửng). Trong tất cả các lựa chọn chỉ có một lựa chọn được xác định là đúng nhất, gọi là đáp án. Những lựa chọn còn lại đều phải là sai (dù nội dung đọc lên có vẻ là đúng), thường gọi là các “ mồi nhử ”, “câu nhiễu”. Điều
- quan trọng người soạn thảo cần lưu ý là phải làm cho các “ mồi nhử ” ấy đều hấp dẫn ngang nhau đối với những học sinh chưa nắm vững vấn đề, thúc đẩy những học sinh ấy chọn vào những lựa chọn này. Lưu ý: Nếu phần gốc của câu trắc nghiệm là câu bỏ lửng thì các câu lựa chọn phải nối tiếp với câu bỏ lửng thành những câu đúng văn phạm. Ưu điểm: Học sinh phải xét đoán và phân biệt kỹ càng khi trả lời câu hỏi. Tính chất tuyệt đối trong loại Đúng- Sai nhường chỗ cho tính chất tương đối khi học sinh phải lựa chọn câu trả lời đúng nhất, hợp lý nhất trong số các phương án trả lời đã cho. Độ giá trị cao hơn nhờ vào việc có thể đo được những mức độ nhận thức khác nhau. Với sự phối hợp của nhiều phương án trả lời để chọn cho mỗi câu hỏi, giáo viên có thể dùng loại trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn để kiểm tra, đánh giá những mục tiêu giảng dạy và học tập khác nhau. Độ tin cậy cao hơn, yếu tố đoán mò, may rủi của học sinh giảm nhiều so với các loại trắc nghiệm khách quan khác khi số phương án lựa chọn tăng lên. Có thể khảo sát thành quả học tập của một số đông học sinh; chấm nhanh, kết quả khách quan, chính xác. Nhược điểm: Để có được một bài trắc nghiệm có độ tin cậy và độ giá trị cao, người soạn trắc nghiệm phải có kinh nghiệm, đầu tư nhiều thời gian và phải tuân thủ đầy đủ các bước soạn thảo câu trắc nghiệm. Không đo được khả năng phán đoán tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo một cách hiệu nghiệm bằng câu hỏi tự luận. Thí sinh nào có óc sáng kiến có thể tìm ra những câu trả lời hay hơn phương án đúng đã cho, nên họ có thể không thỏa mãn hay cảm thấy khó chịu. Các khuyết điểm nhỏ khác là tốn nhiều giấy để in loại câu hỏi này so với các loại khác và học sinh cần nhiều thời gian để đọc câu hỏi. Các qui tắc nên theo khi tiến hành soạn thảo một câu trắc nghiệm khách quan nhều lựa chọn: Phần gốc (câu bỏ lửng hay câu hỏi) phải diễn đạt rõ ràng một vấn đề và phần lựa chọn nên ngắn gọn. Phần gốc nên mang trọn ý nghĩa và phần trả lời nên ngắn gọn, bỏ bớt các chi tiết không cần thiết để diễn đạt câu hỏi rõ ràng, mạch lạc hơn Các phương án sai (“mồi nhử”) phải có vẻ hợp lý.
- Chỉ nên dùng 4 hoặc 5 phương án chọn. Chỉ có một phương án chọn là đúng. Đảm bảo cho phần gốc (trường hợp câu bỏ lửng) nối liền với phần lựa chọn theo đúng ngữ pháp. Nên ít hay tránh dùng thể phủ định trong phần gốc, chỉ khi có ý muốn nhấn mạnh hoặc muốn xoáy vào các sai lầm. Nên tránh dùng phủ định hai lần. Tránh lạm dụng kiểu “ Tất cả đều đúng ” hoặc “ Tất cả đều sai ”, chỉ khi nó được dùng như “mồi nhử” hoặc làm lựa chọn đúng đối với kiểu “Tất cả đều sai”. Vị trí các câu trả lời để chọn lựa nên được sắp theo thứ tự nào đó nếu có thể. Tránh việc tạo phương án đúng khác biệt so với các phương án khác (dài hơn hoặc ngắn hơn, mô tả tỉ mỉ hơn…) Phải sắp xếp phương án đúng theo thứ tự ngẫu nhiên. 1.2.3. Các bước cần soạn thảo hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan Trong phần này chúng tôi sẽ xây dựng một qui trình tổng quát nhằm sọan thảo hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Lưu ý rằng các bước của qui trình này phải được tiến hành theo đúng thứ tự không thể đảo lộn. Cụ thể qui trình gồm các bước sau: Bước 1: Xác định mục tiêu của chương và những mục tiêu cần đạt được cho từng nội dung để xác định các mục tiêu cụ thể mà học sinh phải thực hiện Việc xác định mục tiêu của chương và những mục tiêu cụ thể cần đạt được cho từng nội dung là một công việc hết sức quan trọng vì nó chi phối nội dung, hình thức câu trắc nghiệm khách quan , số câu trắc nghiệm khách quan… Điều này có nghĩa là phải xác định những tiêu chí về kỹ năng, kiến thức mà học sinh cần phải đạt được sau khi kết thúc khóa học. Người soạn thảo cần tìm hiểu xem trong chương đó học sinh cần biết, hiểu, vận dụng những nội dung kiến thức nào. Những khái niệm nào cần biết, những định luật nào cần hiểu và vận dụng… Các bước phân tích nội dung môn học để đưa ra mục tiêu của chương :có thể nói, phân tích nội dung môn học là một bước quan trọng để có thể viết các câu trắc nghiệm. Khi phân tích nội dung kỹ lưỡng và sâu sắc, người soạn thảo có thể xác định các mục tiêu giảng huấn tổng quát để có thể viết các mục tiêu nhận thức. Chú ý: Trong một phần của môn học hay chương trình học sẽ có rất nhiều các nội dung kiến thức bắt buộc học sinh phải nắm vững, điều đó không có nghĩa là người soạn phải đem hết tất cả các nội dung đó vào việc viết các mục tiêu nhận thức và khảo sát học sinh. Một bài trắc nghiệm cho phép thì không thể thực hiện điều ấy. Do đó có những nội dung kiến thức có thể khảo sát bằng hình thức khác, không bắt buộc phải đem vào khảo sát trên bài trắc nghiệm. Việc đưa ra các mục tiêu cụ thể cho môn học còn
- phụ thuộc vào việc xác định mục tiêu cho bài trắc nghiệm của người soạn. Khi đó, trong rất nhiều các mục tiêu, người soạn thảo sẽ có thể chọn ra các mục tiêu của môn học phù hợp với mục tiêu khảo sát của mình và dựa vào các mục tiêu ấy để viết các mục tiêu nhận thức và đưa vào khảo sát. Phân tích nội dung môn học bao gồm chủ yếu công việc xem xét và phân biệt bốn loại học tập: (1) Những thông tin mang tính chất sự kiện mà học sinh phải nhớ hay nhận ra. (2) Những khái niệm và ý tưởng mà chúng phải giải thích hay minh họa. (3) Những ý tưởng phức tạp cần được giải thích hay giải nghĩa. (4) Những thông tin, ý tưởng, và kỹ năng cần được ứng dụng hay chuyển dịch thành một tình huống hay hoàn cảnh mới. Nhưng trong việc phân tích nội dung một phần nào đó của môn học( chẳng hạn như một vài chương trong sách giáo khoa), ta có thể đảo ngược lại thứ tự các loại học tập nói trên đây, nghĩa là bắt đầu từ những ý tưởng phức tạp. Những câu phát biểu thuộc loại này thường ý tưởng cốt lõi của môn học và bao gồm cấu trúc của môn học ấy, còn phần lớn nội dung còn lại là minh họa và giải thích cho ý tưởng này. Như vậy, bước thứ nhất của việc phân tích nội dung môn học là tìm ra những ý tưởng chính yếu của môn học đó. Bước thứ hai là lựa chọn những từ, nhóm chữ, và cả ký hiệu mà học sinh phải giải nghĩa. Muốn như thế, học sinh cần phải hiểu các khái niệm và mối liên hệ giữa chúng. Như vậy, công việc của người khảo sát là tìm ra những khái niệm quan trọng trong nội dung môn học để đem ra khảo sát trong các câu trắc nghiệm. Bước thứ ba là phân loại hai hạng thông tin trong chương trình học :( 1) những thông tin nhằm mục đích giải nghĩa hay minh họa, (2) những khái luận quan trọng của môn học. Bước thứ tư : lựa chọn một số thông tin và ý tưởng đòi hỏi học sinh phải có khả năng ứng dụng những điều đã biết để giải quyết vấn đề trong những tình huống mới. Bước 2: Tiến hành viết các câu hỏi trắc nghiệm Sau khi đưa ra các mục tiêu của chương và các mục tiêu cụ thể cho từng nội dung người soạn thảo tiến hành viết các câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Trước tiên người soạn thảo cần phải lựa chọn loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan sẽ được sử dụng. Hiện nay hình thức câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn là hình thức thông dụng, có thể sử dụng hiệu quả cho nhiều mục đích khảo sát, thuận tiện cho giáo viên và học sinh khi sử dụng trực tuyến. Do đó trong khuôn khổ luận văn chúng tôi chỉ viết câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn Bước 3: Thẩm định lại hệ thống câu hỏi trắc nghiệm Sau khi kết thúc việc viết các câu hỏi trắc nghiệm khách quan , người soạn thảo cần thẩm định lại hệ thống câu hỏi đã viết trước khi khảo sát trên nhóm học sinh. Trước hết người soạn thảo cần
- xem xét lại hệ thống câu hỏi một cách cẩn thận, qua đó sữa chữa lại những câu trắc nghiệm chưa chính xác về mồi nhữ, cách trình bày, đáp án đúng…Sau đó việc thẩm định có thể thông qua một cá nhân hay một hội đồng tuỳ theo tính chất của công việc, điều kiện cho phép… Ví dụ: - Đối với giáo viên: việc thẩm định có thể thông qua tổ bộ môn - Đối với các nghiên cứu sinh: việc thẩm định có thể thông qua thầy cô hướng dẫn. - Đối các chuyên gia soạn thảo trắc nghiệm : cần thẩm định thông qua hội đồng. Bước 4: Tiến hành khảo sát hệ thống câu hỏi trắc nghiệm đã viết Việc khảo sát có thể tiến hành trên những nhóm học sinh khác nhau trong các điều kiện khác nhau hay giống nhau (cùng trường hay khác trường). Việc khảo sát là một việc vô cùng quan trọng vì kết quả thu được qua cuộc khảo sát sẽ cho chúng ta rút ra được nhiều kết luận, nhiều vấn đề từ nhiều khía cạnh khác nhau. Bước 5: Dựa trên kết quả khảo sát để tiến hành sữa chữa, bổ sung thiếu sót và sai lầm để hoàn thiện hệ thống câu hỏi trắc nghiệm 1.3. Vai trò của tự kiểm tra- đánh giá đối với người học 1.3.1. Thế nào là tự kiểm tra- đánh giá Tự kiểm tra- đánh giá là quá trình thu thập và tự tìm hiểu thông tin về chính bản thân. Đó là nhiệm vụ xuyên suốt của một cả cuộc đời. Dưới đây là các bản khái quát về những điều có thể sử dụng để hoàn thành việc tự đánh giá bản thân Bản kê giá trị: để nhắm chừng các giá trị khác nhau quan trọng như thế nào đối với bạn. Các ví dụ của bản kê giá trị này đóng vai trò khá quan trọng trong việc tìm kiếm sự phù hợp với công việc của một người. Bao gồm sự tự quản, uy tín, sự đảm bảo an toàn, quan hệ giữa cá thể với nhau, việc hỗ trợ người khác, thời gian biểu làm việc linh động, công việc bên ngoài, thời gian rảnh và lương cao. Bản kê sở thích: câu hỏi trong bản kê sở thích như bạn thích và không thích với các hoạt động nào. Tiền đề của việc tự kiểm tra- đánh giá là mọi người ai có cùng chung sở thích có xu hướng làm chung 1 dạng công việc. Ví dụ về sở thích như đọc sách, chạy, chơi gôn ... Bản kê tính cách bản thân: để nhìn trực diện vào nét riêng biệt của mỗi cá nhân, động cơ thúc đẩy bản thân, nhu cầu và quan điểm. Bản kê tính cách thường được sử dụng là Myers-Briggs Type Indicator(MBTI). Tự đánh giá kỹ năng: giúp xác định bạn giỏi về cái gì, 1 bài tự kiểm tra kỹ năng còn giúp bạn nhận ra những gì bạn thích làm. Các kỹ năng bạn dùng trong công việc nên kết hợp tất cả các tính cách. Bạn có thể sử dụng kết quả của bản tự đánh giá kỹ năng để thay đổi các kỹ năng cho phù hợp với yêu cầu của công việc.
- Thông qua việc phân tích bốn yếu tố này bạn sẽ xác định những gì mình muốn làm, xác định nghề nghiệp, môi trường công việc và cuộc sống tương lai. Trong giáo dục, tự kiểm tra- đánh giá là một quá trình qua đó người học trở nên ý thức được sức mạnh , sự yếu kém, kỹ năng và khả năng, sự quan tâm, giá trị, mục đích, và những khát vọng của chính bản thân. Tự kiểm tra- đánh giá cho phép người học tự quan sát bản thân, tự đưa ra những kết luận về mức độ mình đã thực hiện được, chưa thực hiện được và hành động theo những kết luận đó để tạo ra một kế hoạch phát triển. Nó là động lực giúp người học trở nên tự tin, chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức. 1.3.2. Các hình thức tự kiểm tra- đánh giá Trong giáo dục, tự kiểm tra- đánh giá gồm nhiều dạng: Viết bài trao đổi quan điểm. Thảo luận ( nhóm nhỏ hay tòan bộ lớp). Phê bình những ghi nhận chính thức( reflection logs). Tự đánh giá hàng tuần. Những cuộc phỏng vấn, trao đổi giữa giáo viên và học sinh. Tự đánh giá những danh mục cần đánh giá trên các bảng liệt kê chi tiết. Những hình thức tự kiểm tra- đánh giá thông thường gồm các chủ đề sau: giáo viên yêu cầu học sinh xem lại những công việc nhằm giúp học sinh xác định rõ cái mà họ đã được học và những sự nhầm lẫn sai phạm vẫn còn tồn tại để từ đó người học có hướng khắc phục điều chỉnh. Mặc dù mỗi hình thức vẫn có sự khác nhau nhưng tất cả các hình thức trên phải đủ thời gian cho học sinh suy ngẫm thấu đáo và đánh giá tiến trình của bản thân. Khả năng quan sát và nhận xét của học sinh cũng có thế cung cấp những phản hồi giá trị cho việc trau chuốt kế hoạch giảng dạy của giáo viên. Để giúp học sinh có khả năng tự kiểm tra- đánh giá, người giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh với những câu hỏi sau: Tôi học gì hôm nay? Tôi làm gì tốt? Tôi là đã nhầm lẫn những gì? Tôi cần ai giúp đỡ, giúp đỡ cái gì? Tôi muốn biết gì xung quanh? Công việc tiếp theo tôi phải làm là gì? 1.3.3. Vai trò của tự kiểm tra- đánh giá đối với người học
- Tự kiểm tra- đánh giá như chiếc gương phản chiếu giúp người tự tìm ra những lỗ hỏng kiến thức của bản thân, từ đó họ có ý thức tự cải thiện, lấp đấy lỗ hỏng đó. Tự kiểm tra- đánh giá giúp người học xác định những mục tiêu cần đạt được, từ đó khuyến khích họ nỗ lực để đạt được mục tiêu đó. Tự kiểm tra- đánh giá giúp học sinh phát triển khả năng tự phản xạ, tự phê bình bản thân. Tự kiểm tra- đánh giá giúp học sinh xác định những sức mạnh của bản thân để nhấn mạnh, phát huy và đánh giá những sự yếu kém của bản thân để thay đổi, sữa chữa. Tự kiểm tra- đánh giá giúp học sinh trở thành “đối tác” trong quá trình học, họ trở thành những học viên năng động và làm việc hiệu quả hơn khi hiểu rõ bản thân cần gì, thiếu gì. 1.3.4. Vai trò, ý nghĩa của sự phản hồi Sự phản hồi là quá trình mà qua đó giáo viên cung cấp cho người học thông tin về thành tích học tập của họ nhằm mục đích để họ tự điều chỉnh, cải tiến thành tích học tập của mình Đối với giáo viên, những thông tin phản hồi từ người học giúp giáo viên nhận ra những thành công, thiếu xót trong quá trình giảng dạy. Từ đó người dạy rút ra kinh nghiệm cho bản thân và lựa chọn những hình thức cải tiến phù hợp để kết quả giảng dạy ngày càng tốt hơn. Sự phản hồi là một phần của đối thoại hay tương tác toàn bộ giữa giáo viên và học viên, không phải là một truyền thông một chiều. Các hình thức của sự phản hồi: Không định hình (Informal): phản hồi từ những hoạt động trong lớp, tham khảo ý kiến cá nhân. Định hình (Formal): phản hồi thông qua các bài bình luận, làm các tờ tham khảo ý kiến. Trực tiếp đến từng học sinh. Gián tiếp: thông qua tòan bộ lớp học. Các cấp độ của sự phản hồi: Phản hồi tối thiếu(Minimal Feedback): Nói với học sinh về những biểu hiện thành tích của họ trực tiếp hoặc gián tiếp. Đồng ý hoặc không đồng ý với quan điểm của người học.
- Sử dụng hành động phi ngôn ngữ (như cái lắc đầu chẳng hạn). Phản hồi hành vi(Behavioral Feedback): Mô tả biểu hiện của người học như những hành vi. Nói cho người học tại sao phải thực hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Cung cấp lý lẽ về sự đồng tình hay không đồng tình với người học. Đưa ra những đề xuất hành vi cho sự tiến bộ Phản hồi tương hỗ(Interactive Feedback): Chấp nhận hoàn cảnh của người học. Thỏa thuận mục tiêu với người học. Đòi hỏi người học tự đánh giá. Cung cấp thông tin phản hồi để người học thực hiện và tự đánh giá. Khêu gợi phản ứng của người học với thông tin phản hồi. Thuyết minh kế hoạch hành động với thông tin phản hồi. Sự phản hồi nhằm mục đích: Giúp giáo viên điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học khi cần thiết. Giúp học sinh điều chỉnh kiến thức, kỹ năng hay chiến lược học tập của bản thân. Những yêu cầu đối với thông tin phản hồi đến với học sinh Mang tính chất xây dựng: để người học cảm thấy họ được động viên từ đó thúc đẩy họ cải tiến bản thân. Đúng lúc: để học sinh vẫn tiếp tục dùng thông tin phản hồi cho việc học của mình và đưa ra những kế hoạch tiếp theo. Mang tính nhắc nhở: giúp người học gợi lại những gì mình đã làm và biết mình đang nghĩ gì lúc này. Mang tính kích thích khả năng độc lập: để giúp học sinh có khả năng tự đánh giá công việc của mình. Trọng tâm. Hiệu quả: để kích thích người học chú ý đến các thông tin phản hồi.
- Quá trình tự làm việc của học sinh C B Phạm vi Giáo kiến viên giao thức D E F nhiệm vụ ( mục tiêu , tiêu Kiến Mục tiêu của học Phương thức và Kết quả thức sinh chiến thuật chuẩn…) G chiến lược Trình bày Động lực của A Quá trình tự điều chỉnh niềm tin ( nhận thức , cách thực hiện …) H Phản hồi từ bên ngoài (giáo viên,…) Hình 1.1: Sơ đồ về sự tự điều chỉnh và phản hồi thông tin Tóm lại, với thông tin phản hồi hiệu quả từ giáo viên sẽ giúp học sinh tự kiểm tra- đánh giá. Đó là chìa khóa cấu thành nên sự tự điều chỉnh của học sinh, giúp học sinh chủ động trong học tập. Bên cạnh đó những thông tin phản hồi từ học sinh sẽ giúp giáo viên rút kinh nghiệm, điều chỉnh, cải tiến kế hoạch giảng dạy cho phù hợp với đối tượng học sinh.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ giáo dục: Bồ dưỡng phương pháp thực nghiệm Vật lý cho học sinh khi dạy học một số kiến thức chương "chất khí" Vật lý 10, chương trình chuẩn
134 p | 593 | 134
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường trung học cơ sở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
97 p | 794 | 131
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
26 p | 461 | 115
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
170 p | 552 | 105
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trò chơi dân gian
123 p | 702 | 96
-
Luận văn thạc sĩ Giáo dục học: Khảo sát các kỹ thuật dạy môn biên dịch tại khoa tiếng Anh trường Đại học Tây Nguyên
70 p | 850 | 94
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng ở các trường trung học phổ thông huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
157 p | 491 | 90
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên các Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương
145 p | 294 | 67
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường trung học văn hóa nghệ thuật Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay
26 p | 453 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc cho trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh
167 p | 350 | 61
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình
122 p | 303 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phối hợp quản lý giáo dục đạo đức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và nhà trường đối với học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh
72 p | 248 | 56
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trung học phổ thông các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay
13 p | 338 | 55
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh
164 p | 368 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực dạy trẻ làm quen biểu tượng toán học cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non
116 p | 260 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên trong việc tổ chức hoạt động giáo dục tại một số trường mầm non nội thành thành phố Hồ Chí Minh
201 p | 175 | 34
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sử dụng phương pháp kỷ luật tích cực trong giáo dục học sinh trường trung học phổ thông Huyện Thanh Ba - Tỉnh Phú Thọ
107 p | 47 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục trên địa bàn huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương
70 p | 129 | 14
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn