Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Đặc điểm thơ lục bát Nguyễn Bính - Tố Hữu
lượt xem 8
download
Đề tài nghiên cứu thơ lục bát của Nguyễn Bính và Tố Hữu nhằm chỉ ra những đặc sắc về nội dung cũng như về nghệ thuật trong những bài thơ lục bát của hai nhà thơ qua những tập thơ, những giai đoạn thơ. Từ đó cho thấy phong cách riêng của mỗi nhà thơ, mối quan hệ giữa thơ lục bát của hai nhà thơ đồng thời ta thấy được quá trình vận động và biến đổi của thể thơ dân tộc trong tiến trình thể loại.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Đặc điểm thơ lục bát Nguyễn Bính - Tố Hữu
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- VŨ THỊ HOÀI ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH- TỐ HỮU LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN Hà Nội, năm 2014 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- VŨ THỊ HOÀI ĐẶC ĐIỂM THƠ LUC BÁT NGUYỄN BÍNH - TỐ HỮU Chuyên ngành: Văn Học Viêt Nam Mã ngành: 60.22.02.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. LÊ VĂN LÂN Hà Nội, năm 2014 2
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những nghiên cứu nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, kết quả của luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày 7 tháng 12 năm 2014 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Vũ Thị Hoài 3
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, bạn bè và người thân. Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Lê Văn Lân - người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội những người đã tận tình giảng dạy, quan tâm tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Đồng thời, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người đã ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn Thạc sĩ. Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2014 Tác giả luận văn Vũ Thị Hoài 4
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 7 NỘI DUNG ................................................................................................................... 22 CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ THƠ LỤC BÁT VÀ THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH - TỐ HỮU ..................................................................... 22 1.1. Những vấn đề chung về thể thơ lục bát .............................................................. 22 1.1.1. Nguồn gốc và đặc tính chung ...................................................................... 22 1.1.2. Tiến trình thể thơ .......................................................................................... 28 1.2. Khái lược về thơ lục bát của Nguyễn Bính và Tố Hữu ...................................... 35 1.2.1. Cái nhìn khái quát về thơ lục bát Nguyễn Bính ........................................... 35 1.2.2. Cái nhìn khái quát về thơ lục bát Tố Hữu .................................................... 37 CHƢƠNG II: ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH VÀ TỐ HỮU PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG ..................................................................................... 41 2.1. Tình yêu quê hương, đất nước ............................................................................ 41 2.1.1. Truyền thống dân tộc ................................................................................... 42 2.1.2 Cảnh sắc thiên nhiên ..................................................................................... 46 2.1.3. Niềm tin, niềm hi vọng vào tương lai đất nước. ........................................... 53 2.2. Tình yêu lứa đôi .................................................................................................. 57 2.2.1. Tình yêu chân phác, giản dị. ........................................................................ 57 2.2.2.Tình yêu đậm chất thế sự .............................................................................. 63 2.3. Tình yêu cách mạng ............................................................................................ 68 2.3.1. Hiện thực khốc liệt của chiến tranh.............................................................. 69 2.3.2. Hình ảnh những con người cách mạng ........................................................ 72 5
- CHƢƠNG III: ĐẶC ĐIỂM THƠ LỤC BÁT NGUYỄN BÍNH VÀ TỐ HỮU PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT............................................................................... 83 3.1. Cấu trúc bài thơ, khổ thơ, câu thơ ....................................................................... 84 3.1.1. Cấu trúc bài thơ, khổ thơ, câu thơ trong thơ lục bát Nguyễn Bính .............. 84 3.1.2.Cấu trúc bài thơ, khổ thơ, câu thơ trong thơ lục bát Tố Hữu ........................ 86 3.2. Ngôn ngữ ............................................................................................................ 89 3.2.1. Ngôn ngữ trong thơ lục bát Nguyễn Bính .................................................... 90 3.2.2. Ngôn ngữ trong thơ lục bát Tố Hữu ............................................................. 93 3.3. Giọng điệu ........................................................................................................... 97 3.3.1.Giọng điệu trong thơ lục bát Nguyễn Bính ................................................... 97 3.3.2.Giọng điệu thơ lục bát Tố Hữu ..................................................................... 99 KẾT LUẬN................................................................................................................. 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 6
- PHẦN MỞ ĐẦU 1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Từ xưa tới nay thơ ca luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Nó nảy sinh từ rất sớm, có thể là những bài niệm chú của thầy mo, thầy cúng, là lời cầu nguyện tốt lành cho mùa màng bội thu, là bài hát trong cuộc sống lao động vất vả của người nông dân, là lời đối đáp tình tứ của trai gái trao duyên…Cho tới sau này, trong văn học viết, nó chính là những tác phẩm trữ tình - nơi dung hòa và kết hợp tiếng nói của con tim, của trí tưởng tượng phong phú và chất thơ của cuộc đời. Thơ gắn liền với chiều sâu tâm hồn, với thế giới nội tâm sâu kín của con người. Thơ có lúc là tiếng nói của tình cảm “chảy tràn trên những dòng cảm xúc”. Lê Quý Đôn cho rằng: “Thơ phát khởi từ trong lòng người ta”. Đuy Belay nhận xét: “Thơ là người thư kí trung thành của trái tim”. M.Gorki thì cho rằng: “Thơ trước hết phải mang tính chất tình cảm”. Đúng thế, nó là nơi mọi cung bậc cảm xúc của con người được phát khởi: yêu, ghét, giận hờn, nhớ nhung, lo lắng, hờn trách, tủi giận, căm hờn, say mê hay đau khổ… Thơ chính là nơi con người giãi bày, thể hiện cảm xúc, là nơi con người khao khát và ước nguyện và cũng là nơi con người chiêm nghiệm, suy ngẫm về cuộc đời. Thơ không chỉ nói lên tình cảm của riêng nhà thơ mà thông qua đó nói lên niềm hi vọng của dân tộc, ước mơ của nhân dân, nhịp đập của trái tim quần chúng và xu thế của lịch sử loài người như nhà thơ Sóng Hồng đã viết: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Tuy nhiên thơ không chỉ là tiếng nói của tình cảm mãnh liệt mà có lúc thơ mang những hạt nhân lí tính, là tiếng nói của lí trí. Chính vì thơ là sự kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa lí trí và tình cảm nên thơ cao quý và tinh vi: “nó là một thông báo thẩm mĩ trong đó kết hợp 4 yếu tố: ý, tình, hình , nhạc” (Mã Giang Lân). Thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, “nó xuất hiện cách đây khoảng hơn 500 năm, có vai trò đặc biệt qua trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu sáng tác của nghệ sĩ cũng như nhu cầu thưởng thức của quần chúng nhân dân”. Được hình thành từ điều kiện văn hóa dân tộc, vượt qua mọi khoảng cách của thời gian, không gian, sự sàng lọc trong văn hóa- văn học, lục bát như thứ “vàng mười” vẫn tồn 7
- tại để minh chứng cho sự bất diệt, trường tồn của mình. Nó biểu tượng cho tiếng Việt, tâm hồn Việt, văn hóa Việt. Từ những câu ca dao ngọt ngào, tha thiết, mộc mạc cho đến Truyện Kiều, đến các nhà thơ hiện đại và đương đại lục bát vẫn tồn tại và khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng để phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ của con người. Nó không chỉ là hồn của đất nước, hơi thở của thời đại, bóng dáng của lịch sử mà sâu xa hơn nó chính là linh hồn của con người, đời sống của người Việt. Nó lay động và cuốn hút con người bởi nó chính là họ, là chính tâm hồn, hình bóng của họ. Để thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người, đặc biệt trong cái nhìn “khó tính” của người hiện đại, văn học nói chung, thơ ca nói riêng phải thay đổi cho kịp quá trình vận động. Thơ lục bát tự mình đổi mới để hoàn thiện cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Vừa kế thừa truyền thống, vừa tiếp thu sáng tạo tinh hoa văn hóa Đông Tây. Thơ lục bát mới mẻ bởi nó đan xen giữa cổ điển với hiện đại, giữa mộc mạc của dân gian với uyên thâm của bác học, giữa say đắm của tình cảm với tỉnh táo của lí trí, trí tuệ. Vì vậy nó không chỉ khẳng định được vị trí của mình trong cái bộn bề của các thể thơ (một chữ, hai chữ, ba chữ, bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, thơ đường luật, thơ lục bát, thơ song thất lục bát, thơ tự do,…) mà nó ngày càng độc đáo, hấp dẫn và cuốn hút bạn đọc. Tuy nhiên việc làm thơ lục bát không phải là một công việc đơn giản: “Lục bát là thể thơ ngỡ như dễ làm, ai cũng làm được nhưng để đạt tới hay thì khó thay nếu không nói là khó nhất”. (Nguyễn Quang Sáng), khó hơn các thể loại thơ khác vì nó là thể thơ nôm na, cổ truyền, đặc trưng Việt Nam. “Người Việt Nam vị tình, thơ lục bát cũng vị tình”. Nó mộc mạc giản dị như cái chân chất trong lối sống, nếp nghĩ của người nông dân. Vì vậy người làm thơ lục bát nếu dụng công quá, “khôn chữ quá” thì không hay bởi nó thiếu tự nhiên, nó bị gò ép trong cái khuôn âm luật chật hẹp nhưng đồng thời nếu dễ dãi quá nó cũng “dễ tuồn tuột trở thành một bài thơ thường” (Đinh Nam Khương). Cho nên không phải ai cũng thành công, những người đến với thể thơ này phải là những người thật sự có tài năng và bản lĩnh, những người “có duyên”, những người “chịu ân huệ của đất trời”. Trong hàng triệu người làm thơ mới có một vài người xuất sắc. Thành công với thể lục bát, ta có thể kể đến các tác giả tiêu biểu trong suốt quá trình phát triển của văn học Việt Nam từ trung đại, cận đại cho 8
- tới hiện đại và đương đại như: Nguyễn Du, Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Duy.... Và trong luận văn này, tôi tập trung tìm hiểu, nghiên cứu về thơ lục bát của hai nhà thơ: Nguyễn Bính và Tố Hữu-hai nhà thơ lớn đại diện cho hai phong trào thơ lãng mạn và thơ cách mạng của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nguyễn Bính được mệnh danh là “nhà thơ của đồng quê, chân quê và hồn quê”- một trong những gương mặt tiêu biểu của dòng thơ lãng mạn, và Tố Hữu- nhà thơ của cách mạng, sống và thuỷ chung son sắt với lý tưởng cách mạng . Nguyễn Bính lôi cuốn người đọc không phải ở việc sử dụng ngôn ngữ thơ mới lạ, độc đáo, mà chính ở cái “hồn”, cái chân quê, cái dân dã, mộc mạc. Tố Hữu đi sâu vào lòng người bởi tình yêu dành cho quê hương, đất nước sâu nặng của người chiến sĩ cách mạng. Sự khác nhau trong nghiệp văn của họ chính là do sự ảnh hưởng của hoàn cảnh. Hai ông sống trong hai thời kì lịch sử khác nhau, có thể coi là nối tiếp nhau, đã chi phối đến nhận thức, tư tưởng, quan điểm, điều đó được thể hiện rõ trong thơ của hai ông. Nguyễn Bính và Tố Hữu đã trở thành hai hiện tượng lớn của nghệ thuật thơ ca thu hút được hầu hết các nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi như: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hà Minh Đức, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Đăng Mạnh và các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi ... Tuy xuất phát từ những yêu cầu mục đích khác nhau, những khía cạnh nghiên cứu khác nhau thì những nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình đều có sự thống nhất với nhau và hoàn toàn có cơ sở thực tế. Như bao dòng sông cùng chảy về biển cả, như bao người cùng giải một bài toán và tìm về một đáp số…Song từ thực tế sáng tác của hai nhà thơ, việc khái quát đặc điểm thơ lục bát, nhất là những đặc điểm có ý nghĩa phân biệt thơ lục bát Nguyễn Bính với thơ lục bát Tố Hữu, và vai trò góp phần vào sự phát triển của thể lục bát cũng như nền thơ ca dân tộc thì chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào. Hơn thế nữa, hai tác giả này cũng như một số sáng tác của họ đều được đưa vào chương trình giảng dạy trong các bậc học, đặc biệt là thơ lục bát với một số bài tiêu biểu như: Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Khi con tu hú (Tố Hữu), Tương tư (Nguyễn Bính)… Việc đưa các tác phẩm này vào trong nhà trường giảng dạy đã chứng tỏ chúng có một giá trị nhất định. 9
- Ở mặt lý luận thì vậy song ở trong thực tế ta cũng không thể phủ nhận, thơ lục bát của hai nhà thơ đã đi vào trong cuộc sống hàng ngày của con người, với người dân, nó “vô tình” mà trở thành những câu hát dân gian, đâu đó vào một trưa hay một tối, một xóm nhỏ hay một ngõ nhỏ, làng quê hay ở khu phố, ta vẫn nghe thấy tiếng bà ru cháu, tiếng chị nựng em,…– họ vẫn hát, vẫn ru, vẫn nựng bằng những câu thơ, dòng thơ lục bát của hai nhà thơ này. Nhà thơ đã thả hồn mình, tâm mình, lời mình vào nhân dân và cuộc sống, khắc sâu vào trong “ký ức văn hóa của đồng bào”. Họ cũng như thơ họ sống mãi trong lòng người dân nước Việt và trên từng mảnh đất của người Việt. Vì tất cả những lí do trên chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Đặc điểm thơ lục bát Nguyễn Bính và Tố Hữu” để làm luận văn tốt nghiệp. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Thơ lục bát là thể thơ thuần Việt, nó gần gũi và quen thuộc với người dân Việt. Trở về với thể lục bát là trở về với cội nguồn, trở về với dòng trữ tình dân gian. Từ ca dao đến Truyện Kiều của Nguyễn Du rồi đến thơ hiện đại với các tên tuổi: Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Bính, Huy Cận, Tố Hữu, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, …thơ lục bát là mạch nguồn xuyên suốt thể hiện được tâm thức của dân tộc và thời đại. Việc nghiên cứu thể thơ này là một công việc khoa học nghiêm túc, là chìa khóa để giải mã dòng thơ mang âm hưởng dân gian. Từ trước tới nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về thể thơ này, các tác giả đề cập trên nhiều khía cạnh, nhiều góc độ, nhiều phương diện: nguồn gốc, cấu trúc, chức năng, âm luật, thể tài,… Về nguồn gốc của thể lục bát có nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu và đưa ra nhiều ý kiến khác nhau.Ví dụ các công trình nghiên cứu của: Chu Xuân Diên, Phan Diễm Phương, Nguyễn Xuân Kính, Nguyễn Xuân Đức,… Các nghiên cứu của họ đều gặp nhau ở một điểm là: Lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, không chịu ảnh hưởng của những yếu tố ngoại lai, nó xuất hiện sớm nhất vào thế kỷ XV trong văn học viết… Trong bài nghiên cứu của Chu Xuân Diên (Tục ngữ Việt Nam), Nguyễn Xuân Đức (Đi tìm nguồn gốc thể loại lục bát Việt Nam)… cho rằng thể lục bát có dấu vết của ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Trong nghiên cứu của Phan Thị Diễm 10
- Phương (Ngọn nguồn của hai thể thơ dân tộc: Lục bát và song thất lục bát), Nguyễn Thái Hòa (Tiếng Việt và thể lục bát)..thì cho rằng tiếng Việt và văn hóa Việt là những điều kiện hình thành nên hai thể thơ này. Về vần, luật, ngôn ngữ, nhịp điệu, chức năng,…có hàng loạt các bài nghiên cứu cho thể loại nói chung và cho các tác giả, tác phẩm nói riêng. Theo Nguyễn Xuân Kính trong Thi pháp ca dao, có 95% ca dao được sáng tác theo thể lục bát, điều này đã khẳng định được vị trí của nó trong nền văn học dân tộc. Nguyễn Xuân Đức tìm hiểu “về thể lục bát trong ca dao” đã chỉ ra hiện tượng biến thể cấu trúc, về hiệp vần, về phối thanh, về luật bằng trắc của lục bát. Tương tự, trong Những thế giới nghệ thuật ca dao- tác giả Phan Thu Yến cũng nhấn mạnh ý nghĩa của thể lục bát trong các sáng tác dân gian và sáng tác văn học viết. Với công trình: Khảo sát một số đặc trưng ngôn ngữ thơ lục bát hiện đại… tác giả Hồ Văn Hải đã nghiên cứu thể thơ lục bát dưới góc độ của chuyên ngành ngôn ngữ. Quan điểm của ông cho thơ lục bát có một phẩm chất thẩm mĩ đặc biệt, kết tinh tinh hoa văn hóa- ngôn ngữ dân tộc. Nó thể hiện cảm thức cộng đồng ở mọi thời đại. Vì thế nó đồng hành với tiến trình phát triển văn hóa xã hội. Nó bền bỉ và sâu lắng. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn luận án có bàn đến thể thơ này như : Thơ ca Việt Nam- Hình thức và thể loại (Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức), Về sự đổi mới của thể thơ lục bát (Nguyễn Huy Thông), Thơ 1975-1995-sự biến đổi của thể loại (Vũ Văn Sĩ),… Lục bát là thể thơ quen thuộc với nhiều thi sĩ cũng như độc giả Việt. Việc nghiên cứu về thể thơ này là tiền đề, cơ sở cho người viết luận văn tìm hiểu, nghiên cứu, so sánh để thấy sự kế thừa, cách tân, đóng góp của mỗi tác giả cũng như tiến trình phát triển của thể lục bát trong đời sống văn học. 2.1.Lịch sử nghiên cứu thơ lục bát Nguyễn Bính Nguyễn Bính- một trong những tài năng của thơ lục bát Việt Nam hiện đại. Ông sáng tác cả trước và sau Cách mạng tháng Tám – 1945 với hồn thơ luôn gắn bó với con người, quê hương và cuộc đời. Tuy nhiên người đọc biết tới Nguyễn Bính “chỉ thật riêng một góc trời ở những bài thơ đầu với một mảng thơ đất quê” – một gương 11
- mặt mang niềm tự hào của thơ Mới. Ông xuất hiện trên thi đàn với một giọng điệu riêng biệt, một phong cách độc đáo, chiếm được đông đảo trái tim người đọc. Đến với thơ Nguyễn Bính là đến với những giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc. Ông đã sử dụng thể thơ lục bát thuần Việt vào trong những tác phẩm đặc sắc về làng quê, cảnh quê, tình quê và hồn quê như một điều tất yếu. Giữa làng Thơ mới lãng mạn, Nguyễn Bính hiển hiện với một sức viết xứng danh “kiện tướng”: “Mười năm với trên một ngàn bài thơ”. Thơ Nguyễn Bính nói chung và thơ lục bát Nguyễn Bính nói riêng là biểu hiện của cái tôi trữ tình đa cảm, của tình yêu chân phác, đậm chất thế sự và cảm hứng quê hương, đất nước. Nhưng đương thời thơ Nguyễn Bính chưa được giới nghiên cứu, phê bình quan tâm, giới thiệu, cho đến khi Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh ra đời, thì thơ Nguyễn Bính được đánh giá một cách chừng mực một Nguyễn Bính “chân quê”: “Cái đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính” chính là ở “cái điều quý giá vô ngần: “Hồn đất nước”… “Nguyễn Bính đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau, bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính tình căn bản của ta”[29, 25]. Và sau đó, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cũng lại nhắc đến thứ “tình quê ” ấy. Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi sự đổi mới một cách toàn diện mọi mặt của văn học nghệ thuật nói chung và nghiên cứu phê bình văn học nói riêng, Nguyễn Bính đã được trở về đúng vị trí của mình trên thi đàn văn học nhân loại. Các công trình nghiên cứu của các chuyên gia, các nhà phê bình văn học, của thế hệ học viên, sinh viên về thơ Nguyễn Bính, ta nhận thấy những cách nhìn mới mẻ, toàn diện và khách quan. Hai mươi năm sau ngày Nguyễn Bính mất, tháng 1-1986 Tuyển tập Nguyễn Bính, do Nhà xuất bản Văn học cùng Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh xuất bản. Thơ Nguyễn Bính được giới thiệu với bạn đọc và ngày càng thu hút nhiều độc giả. Họ tìm đến thơ ông không phải để buông xuôi hay lãng quên mà đi đến chiều sâu của “tâm hồn Việt Nam, tinh hoa của tiếng nói Việt Nam bất tử”. Tô Hoài trong lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Bính đã nhận thấy một hiện tượng thơ độc đáo: “Chỉ có quê hương mới tạo được từng chữ, từng câu Nguyễn 12
- Bính” [12,72].“Quê hương là tất cả và cũng là nơi in đậm dấu vết của cuộc đời mình[12,73].“Thơ và cuộc đời ràng buộc nhà thơ. Trước, sau, và mãi mãi Nguyễn Bính vốn là nhà thơ của tình quê, chân quê, hồn quê”[12,76]... Ông “nhẩn nha” nói về mọi thứ xung quanh mình với một nét riêng biệt, ông cho ra đời những bài thơ hay chưa bao giờ thấy mà lại như sẵn đâu trong tâm hồn thơ dân tộc. “Thơ Nguyễn Bính là một nhành hoa trong trào lưu cách tân thơ. Và cùng với Nguyễn Bính xuất hiện một trường thơ, một phái thơ”.[12,76] Ở công trình nghiên cứu Nguyễn Bính-thi sĩ của đồng quê, GS. Hà Minh Đức đã có những khai thác, phân tích rất sắc sảo. Về “hình ảnh-quê hương và con người” trong thơ Nguyễn Bính, giáo sư khẳng định: “Nguyễn Bính đã gắn bó sâu sắc với làng quê tình quê qua những trang thơ. Có thể nói trong thi ca thời kỳ hiện đại Nguyễn Bính là người có công hơn cả trên mảng thơ viết về làng quê. Ông đã khơi gợi ở mỗi người độc tình cảm quê hương”[36,33]. Ông nhấn mạnh cái “hồn quê” thấm đượm trong mỗi cảnh vật, con người làng quê. Trong thế giới nghệ thuật, tác giả nhấn mạnh cái hồn quê và tình quê trong sáng, đậm đà của nhà thơ nghèo Nguyễn Bính. GS chứng minh: “Hồn thơ Nguyễn Bính đã tìm đến và trở về với ca dao và sâu xa hơn là trở về với cội nguồn dân tộc đã hàng ngàn năm ấp ủ ở làng quê”[36,34].Và cuối cùng, công trình nghiên cứu này đã chỉ ra được cái bút pháp và giọng điệu thơ ca khá đa dạng của Nguyễn Bính: “Trang thơ của Nguyễn Bính có một dòng viết về làng quê giàu chất dân gian và một dòng trữ tình nhiều tâm trạng trăn trở mà có màu sắc hiện đại”. Bởi vì: “Ở Nguyễn Bính dường như có hai con người, con người của đồng quê và con người thi sĩ giang hồ đắm đuối với sự nghiệp. Hai con người đó tạo nên hai “cái tôi” trữ tình trong thơ”.[36,42] Dưới góc độ thi pháp học TS. Đoàn Thị Đặng Hương đưa ra nhận xét, đánh giá về những sáng tạo cơ bản của Nguyễn Bính, những cách tân nghệ thuật và vị trí của thơ trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại: “Ông là nhà thơ đầu tiên trên thi đàn thơ hiện đại của thế kỷ này đã dùng hình thức của thơ ca dân gian … để chuyển tải nội dung thẩm mỹ của Thơ mới…”.[36,73] Cũng từ những thập kỷ 80 tới nay, thơ Nguyễn Bính được đưa vào giới thiệu trong các trường trung học phổ thông và chuyên nghiệp với tư cách là một tác giả tiêu 13
- biểu của phong trào Thơ mới. Bằng độ nhạy cảm và tinh sắc của mình, GS.TS Mã Giang Lân đã có những đánh giá và phát hiện đầy mới mẻ. Nếu như những sáng tác trước Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Bính được tác giả nhận xét: “Bản sắc dân tộc trong thơ Nguyễn Bính rất đậm, rất rõ từ nội dung đến hình thức. Tâm hồn dân tộc, giọng điệu dân tộc là chất men để thấm sâu vào trí nhớ người đọc” …Ông lại có sở trường về lục bát và đưa thêm vào lục bát cổ truyền cái bản sắc của Thơ mới” thì sau cách mạng “cuộc sống đã đến bước ngoặt quan trọng. Nguyễn Bính nhập vào dòng thác cách mạng và kháng chiến. Ông viết nhiều tác phẩm kịp thời ca ngợi cuộc chiến đấu và sự nghiệp xây dựng của nhân dân ta”[9,175]. Với những phát hiện sâu xa ấy, tác giả phê bình dường như đã trở thành người đồng sáng tạo cùng với thi sĩ và cũng chính là điều kiện làm cho thơ Nguyễn Bính đẹp lên gấp nhiều lần trong lòng độc giả nhiều thế hệ. Có thể nói có rất nhiều bài báo, nhiều công trình nghiên cứu, các luận văn, luận án nói về hiện tượng Nguyễn Bính như đã nói ở trên. Và gần đây nhất là luận văn Đặc điểm thơ lục bát Nguyễn Bính của học viên cao học Trần Văn Trọng, chuyên ngành Lí luận văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong luận văn của mình, tác giả khẳng định thơ Nguyễn Bính nói chung, thơ lục bát Nguyễn Bính nói riêng đã thực sự có được vị thế quan trọng trong sự phát triển của thơ ca dân tộc. Luận văn đi sâu vào những đặc điểm nổi bật về nội dung cũng như nghệ thuật thơ lục bát Nguyễn Bính để chứng tỏ rằng : bên cạnh việc tiếp nối truyền thống, ông đã có những cách tân, sáng tạo để hướng tới “hồn xưa của đất nước” và chuyển tải những tình ý của xã hội đương thời. Trở về với hệ thống các công trình nghiên cứu nói trên ta có thể nhận thấy : Không có sự đối lập giữa các quan niệm, sự nhìn nhận và đánh giá dưới các góc độ và phương diện khác nhau khi tiếp cận với thành tựu sáng tác của tác giả. Khi đi sâu vào đánh giá và nghiên cứu thơ ông, ta không thấy có hiện tượng “người khen-khen hết lời, người chê-chê không thương tiếc” trong đội ngũ độc giả và giới nghiên cứu. Phần lớn các ý kiến đều khẳng định đặc sắc làm nên phong cách thơ Nguyễn Bính chính là ở bản sắc dân tộc ngưng đọng, ở chỗ thi sĩ đã lột tả được cái “hồn quê” 14
- mà theo Hoài Thanh đã nói đó là chất “quê mùa” trong phẩm chất thơ ông. Ông đã viết rất nhiều thể loại thơ, trong đó thể lục bát được ông viết nhiều nhất và thành công hơn cả. Ông đã phổ hồn dân tộc vào một thể thơ đặc biệt cổ truyền của dân tộc. Bằng cái nhìn khách quan và toàn diện, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra được sự song hành của hai trạng thái tình cảm tồn tại trong tâm hồn thi sĩ để làm nên hai “cái tôi” trữ tình trong thơ: “cái tôi của thi sĩ đồng quê” và cái tôi của thi sĩ tiểu tư sản mang nỗi “sầu đô thị” và “bi kịch tha hương”…đồng thời nổi bật trong thơ ông là một tình yêu chân phác, đậm chất thế sự và một cảm hứng về quê hương, đất nước. Và cuối cùng ta nhận thấy trong thế giới nghệ thuật thơ lục bát Nguyễn Bính mang một màu sắc riêng. Một thế giới vừa mang đậm nét chung của ca dao, dân ca vừa có cá tính sáng tạo. Nó được nảy nở, sinh thành trên cái nền của nghệ thuật truyền thống. Sự hòa hợp giữa hồn quê hương của khúc ca dao cùng với ý tưởng và tình cảm của cuộc đời mới được chắp cánh trong những vần thơ hiện đại khiến cho không chỉ sống dậy vẻ đẹp và bản sắc thơ dân tộc mà còn biểu hiện được những tình ý mới mẻ của xã hội đương thời. Có thể nói riêng ở thể thơ lục bát hiện đại, với những sáng tạo độc đáo của mình, Nguyễn Bính đã mang đến cho thơ Việt Nam hiện đại một dáng vẻ mới, một sinh lực mới và một sự đa dạng mới. “Nguyễn Bính đã trở thành một nhành hoa trong vườn hoa cách tân của Thơ mới lãng mạn”. Thành tựu ấy đã khẳng định vị thế của một cây bút, một khuynh hướng và một phong trào thơ ca đã từng in dấu một thời đại - thơ Việt Nam thế kỷ XX. 2.2. Lịch sử nghiên cứu thơ lục bát Tố Hữu Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu cho dòng thơ cách mạng. thơ trữ tình chính trị của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Là một trong số ít những nhà thơ đi sâu vào trái tim quần chúng . Ông chinh phục trái tim họ không phải ở khối lượng tác phẩm lớn mà bằng “những năm tháng gắn bó với mọi người, bằng lẽ sống đẹp và đã nói hộ quần chúng khát vọng sâu xa của họ bằng chính nhịp đập của trái tim nghệ sĩ”. Nhưng tất cả chỉ thực sự có ý nghĩa khi nhà thơ có đủ bản lĩnh nghệ thuật để chuyển tải “một hình thức đẹp và gần gũi với mọi người”. Đó là việc nhà thơ đã sử dụng thể thơ được coi là linh hồn, là mạch máu, là hơi thở của dân tộc-thể lục bát. 15
- Khi tìm hiểu về Tố Hữu, ta cũng nhận thấy thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử như thơ ông. Tình yêu lý tưởng, yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng, là người mở đường cho nền thơ cách mạng Việt Nam hiện đại. Nội dung ấy được biểu lộ vừa thầm kín và tinh tế, vừa sâu sắc và đậm đà qua 7 tập thơ nổi tiếng của Tố Hữu. Nếu như Từ ấy là “tiếng hát say mê, sôi nổi của một tâm hồn trong trẻo, giàu yêu thương, một tiếng hát hồn nhiên chân thật nhưng không kém phần hùng tráng” thì Việt Bắc và Gió lộng là tiếng hát ân tình thủy chung trong kháng chiến, là nhịp điệu sôi nổi trong lao động xây dựng lại đất nước với một khát vọng, một ý chí: “Giũ sạch cô đơn riêng lẻ bần cùng”. Tiếp đến là những ngày kêu gọi, cổ vũ cuộc kháng chiến hào hùng trong Ra trận, Máu và Hoa. Và cuối cùng khi gần hết cuộc đời, thơ ông là sự chiêm nghiệm, suy tư, trầm lắng trong Một tiếng đờn, Ta với Ta. Có thể nói, cho dù là sáng tác trước hay sau cách mạng thì thơ Tố Hữu vẫn kiên định niềm tin vào lý tưởng và con đường cách mạng. Tóm lại, cả cuộc đời của ông là sự cống hiến hết mình, không mệt mỏi cho nền văn học dân tộc. Thơ ông đi sâu vào lòng độc giả nhưng cũng đồng thời thu hút được sự chú ý, quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Nghiên cứu thơ Tố Hữu có nhiều công trình trong các giáo trình đại học, chuyên luận, tạp chí, luận văn, luận án… Xuất hiện cuối vào thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương, thơ Tố Hữu được đăng trên các tờ báo cách mạng. Bài viết đầu tiên giới thiệu thơ Tố Hữu là bài Tố Hữu - nhà thơ của tương lai của K và T, được đăng trên báo Mới số 1(ngày 1/5/1939). Với tư cách là một người yêu thơ Tố Hữu, tác giả “giới thiệu Tố Hữu với bạn đọc để yêu Tố Hữu như tôi. Vì Tố Hữu không phải là nhà thơ riêng của tôi, mà là nhà thơ của tất cả thanh niên, nhà thơ của tương lai”[15,169]. K và T đã trích dẫn và bình luận những câu thơ, đoạn thơ của Tố Hữu để khẳng định: “ Tố Hữu là một chàng thanh niên của tương lai… Chàng đeo đuổi một lý tưởng. Thơ chàng là cả một nguồn sinh lực đem phụng sự cho lý tưởng”[15,172]. Kết thúc bài báo tác giả khẳng định Tố Hữu là “nhà thơ cách mệnh có tài lần đầu tiên trong lịch sử văn hóa 16
- ta. Cuộc chiến đấu đã làm dày dạn tâm hồn anh, đã đem lại kinh nghiệm cho anh, sẽ hiến cho anh những khí giới mới”[15,174]. Và theo tôi, khí giới ấy chính là tư tưởng mà Tố Hữu hun đúc qua những năm tháng chiến tranh và đời người. Tiếp sau đó có rất nhiều công trình nghiên cứu nhưng có thể xem công trình nghiên cứu đầu tiên đánh giá bao quát được nhiều mặt thơ Tố Hữu đặc biệt là phong cách nghệ thuật thơ ông, phải kể đến Chế Lan Viên trong lời giới thiệu in ở đầu quyển Thơ Tố Hữu(1963). Tiếp theo, từ những năm 60 của thế kỷ XX trở đi, thơ Tố Hữu đã được xem xét ở nhiều phương diện quan niệm nghệ thuật, con đường thơ, hình tượng, phong cách, bút pháp và thi pháp…Những công trình chuyên khảo được coi là dày dặn về thơ Tố Hữu là cuốn Thơ Tố Hữu của GS. Lê Đình Kỵ (Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1979), Thơ Tố Hữu- tiếng nói đồng chí, đồng tình của GS.TS Nguyễn Văn Hạnh (Nxb Thuận Hóa, 1985) và Thi pháp thơ Tố Hữu của GS. Trần Đình Sử( Nxb Tác phẩm mới, 1987). Thơ Tố Hữu của GS.Lê Đình Kỵ (Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1979) là chuyên luận nổi bật nghiên cứu về thơ lục bát của Tố Hữu. Chuyên luận được xây dựng trên ba phần, mỗi phần mang một nội dung khác nhau. Phần một giới thiệu quá trình sáng tác của Tố Hữu qua các giai đoạn. Phần hai tập trung ở nội dung tư tưởng, nội dung hiện thực của các tác phẩm. Phần ba đề cập những vấn đề về phong cách nghệ thuật thơ lục bát của Tố Hữu qua bút pháp và phong cách biểu hiện, đi vào tìm hiểu những mặt mạnh trong phong cách thơ cũng như các giai đoạn sáng tác khác nhau. Thi pháp thơ Tố Hữu của GS.Trần Đình Sử - Đây có thể được coi là tư liệu quý giá để tham khảo về thơ lục bát Tố Hữu. Trong chuyên luận, ông đề cập tới hai vấn đề chính: Quan niệm của Tố Hữu về văn học nghệ thuật và con đường thơ Tố Hữu. Phần hai đi sâu nghiên cứu tác phẩm, tác giả đề cập bốn vấn đề chính: Tố Hữu- người mở đầu cho nền thơ cách mạng Việt Nam hiện đại, Tố Hữu- nhà thơ của tình thương mến, Tố Hữu - nhà thơ của lẽ sống lớn, thời đại lớn và Tố Hữu - nhà thơ của tương lai. Ở đây, Trần Đình Sử đã chỉ ra được sự cộng sinh giữa tính dân tộc truyền thống và quá 17
- trình hiện đại hóa văn học, những đóng góp trong ngôn ngữ, thể tài và sự nghiệp thơ cách mạng Việt Nam. Tố Hữu- về tác gia và tác phẩm do PGS.TS Mai Hương và nhà nghiên cứu Phong Lan biên soạn (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002) là cuốn sách được coi là tư liệu chọn lọc những bài viết, những công trình nghiên cứu về Tố Hữu. Từ đó có thể có được một cái nhìn cụ thể và đa dạng về giá trị tư tưởng, giá trị giáo dục và giá trị nghệ thuật trong các tác phẩm của ông. Đây cũng được coi là nguồn tư liệu quý khi nghiên cứu thơ lục bát của Tố Hữu. Tố Hữu-cách mạng và thơ (Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2004)- công trình của GS. Hà Minh Đức đã tập hợp những bài viết của tác giả về nhà thơ khoảng hai mươi năm qua, là những cuộc trò chuyện, ghi chép về thơ giữa tác giả và nhà thơ, là sự đánh giá, bình luận, cảm nhận về thơ Tố Hữu qua các chặng đường thơ cũng như chặng đường hoạt động cách mạng. Ngoài một số công trình tiêu biểu trên, ta có thể kể đến các bài viết, luận văn về Tố Hữu và thơ lục bát của ông như: - Phong vị dân ca ca dao trong thơ Tố Hữu, Nguyễn Phú Trọng, Tạp chí Văn học, 1968, số 11(tháng 11 năm 1968). - Nhạc điệu thơ Tố Hữu, Nguyễn Trung Thu, Tạp chí Văn học, 1968, số 6 (tháng 6 năm 1968). - Tổ quốc Việt Nam, con người Việt Nam trong thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, Báo Nhân dân, ngày 15/5/1968. - Tính dân tộc hiện đại của ngôn từ thơ Tố Hữu, Trần Đình Sử, Báo Văn nghệ, ngày 7/9/1985. -Nhịp trong thơ lục bát của Tố Hữu, Phạm Minh Thúy, Luận văn Cao học khóa 5, Đại học Sư phạm Hà Nội, 1982. Cũng như Nguyễn Bính, Tố Hữu làm thơ theo nhiều thể nhưng điển hình nhất trong sáng tác của ông là thể lục bát. Thơ lục bát của Tố Hữu vẫn giản dị nhưng mang một bản sắc riêng, một nét không thể lẫn với các nhà thơ khác, bởi nó xuất phát từ 18
- trong tình yêu, trong lao động, trong chiến đấu hi sinh…Nếu như Nguyễn Bính phổ cái hồn dân tộc vào làng quê một thứ tình quê thì bao trùm tất cả trong thơ lục bát Tố Hữu là tấm lòng tha thiết của nhà thơ với cách mạng, với quê hương đất nước- tình cảm hòa với dòng thác cách mạng, tình cảm lớn lao, rộng lớn, không riêng tư, cá nhân. Cũng chính vì thế cái tôi trong thơ Tố Hữu không có màu sắc rơi rớt của cái tôi tiểu tư sản mà ban đầu là cái tôi chiến sĩ về sau cái tôi hòa nhập với cái ta chung của cuộc sống cách mạng, cái tôi vừa sôi nổi tràn đầy nhiệt huyết, vừa lặng thầm, vừa suy tư chiêm nghiệm, cái tôi nhân danh cộng đồng, nhân danh Đảng và dân tộc. Trong cội nguồn văn hóa của dân tộc, Tố Hữu chắt lọc được tinh hoa của thơ ca cổ điển và dân gian đồng thời sáng tạo sao cho phù hợp với khẩu vị của quần chúng cách mạng. Thơ lục bát Tố Hữu trở về với cách nói gần gũi, chân thành của thơ truyền thống. Với giọng điệu thơ đằm thắm, thiết tha mang hồn quê hương, đất nước Tố Hữu là một trong những người làm thơ lục bát hay nhất ở giai đoạn sau cách mạng. Không trăn trở để đổi mới cấu trúc, thơ lục bát Tố Hữu gần với mạch thơ của ca dao, của Truyện Kiều nhưng hài hòa với đề tài cách mạng. Tố Hữu “tắm đẫm các ý tình cách mạng hiện đại trong những hình thức tư duy cổ truyền thấm thía, đậm đà”. 3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN 3.1. Mục đích Về mặt lí luận: Nghiên cứu thơ lục bát của Nguyễn Bính và Tố Hữu nhằm chỉ ra những đặc sắc về nội dung cũng như về nghệ thuật trong những bài thơ lục bát của hai nhà thơ qua những tập thơ, những giai đoạn thơ. Từ đó cho thấy phong cách riêng của mỗi nhà thơ, mối quan hệ giữa thơ lục bát của hai nhà thơ đồng thời ta thấy được quá trình vận động và biến đổi của thể thơ dân tộc trong tiến trình thể loại. Về mặt thực tiễn: Giúp cho người đọc hiểu được những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Từ đó họ biết trân trọng, bảo tồn, giữ gìn và phát huy vốn văn hóa đó. 19
- 3.2.Nhiệm vụ -Khái quát những vấn đề lí luận chung về thơ lục bát -Khảo sát phân tích tác phẩm -Đi sâu tìm hiểu chi tiết về đặc điểm, thành tựu trong thơ lục bát của hai nhà thơ trong mối quan hệ và tiến trình thể loại. 4.PHẠM VI NGHIÊN CỨU Trong quá trình làm đề tài này chúng tôi dựa vào các tập: - Tuyển tập Tố Hữu- Thơ. NXBGD, H, 1994. Lời giới thiệu của Hà Minh Đức - Ta với ta. NXBVH, H, 2000. Tố Hữu. - Tuyển tập Nguyễn Bính. NXBVH, H, 1986. Vũ Quốc Ái, Quang Huy, Đỗ Đình Thọ, Kim Ngọc Diệu sưu tầm và tuyển chọn. Do giới hạn đề tài, luận văn chỉ nghiên cứu các bài thơ lục bát của Nguyễn Bính và Tố Hữu. 5.PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp: -So sánh, đối chiếu: Luận văn luôn đặt đối tượng nghiên cứu trong sự so sánh với ca dao và thơ lục bát của hai nhà thơ để chỉ ra đặc điểm của hai nhà thơ đồng thời thấy được sự tương đồng cũng như dị biệt qua những sáng tác, từ đó nổi bật phong cách nhà thơ. -Thống kê, phân loại: Đây là thao tác có tầm quan trọng trong việc hình thành những nhận định, đánh giá chính xác, khoa học. Tôi thống kê và phân loại đối tượng theo hai tiêu chí lớn: những nguồn cảm hứng và đặc điểm nghệ thuật nổi bật. do đó nội dung trọng tâm của luận văn cũng bao gồm hai chương trên. -Phân tích tác phẩm: Là phương pháp được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu. Thông qua các dẫn chứng rồi lập luận, phân tích, chứng minh và cuối cùng người viết đánh giá, tổng hợp để làm sáng tỏ vấn đề. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 787 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 369 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 408 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 540 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 515 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 298 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 340 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 318 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 233 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 245 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 213 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 189 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn