intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

16
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở hệ thống hoá các quan điểm của chủ nghĩa Mác–Lênin, các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước ta và thực tiễn phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước trong thời gian vừa qua, để soi sáng vào thực trạng phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên, từ đó đưa ra những vấn đề cần giải quyết cũng như đề xuất phương hướng, giải pháp phát triển thành phần kinh tế này ở Thái Nguyên trong tương lai.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬ N CHÍNH TRỊ  HỨA THANH BÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ BẢN NHÀ NƯỚC Ở THÁI NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Chuyên ngành: Kinh tế chính tri Mã số : 60.31.01 Hướng dẫn khoa học : PGS-TS Vũ Văn Hiền Hà Nội - 2004 1
  2. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và một trong những bộ phận cấu thành nền kinh tế đó là kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước đã được Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đặt ra như là một trong các hình thức kinh tế trong thời kỳ quá độ và ngày càng được đề cập sâu hơn, hoàn thiện hơn ở các chính sách và Nghị quyết khác, như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII và đặc biệt là Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Thực tiễn phát triển thành phần kinh tế này ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay và xu hướng phát triển của nó trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề đang đòi hỏi được lý giải thêm cả về lý luận và thực tiễn. Có không ít cuốn sách, công trình khoa học, hội thảo của các nhà nghiên cứu và chỉ đạo thực tiễn ở nước ta đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên đó là các công trình nghiên cứu trên phạm vi cả nước hay chỉ ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Bởi vậy việc tiếp tục nghiên cứu, khẳng định sự đúng đắn việc phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước ở một tỉnh “thường thường bậc chung’’ như tỉnh Thái Nguyên là một vấn đề còn mới mẻ, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy tác giả chọn đề tài: “Phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên’’ làm luận văn thạc sỹ khoa học. 2.Tình hình nghiên cứu đề tài: Từ khi đổi mới nền kinh tế (1986) đến nay, việc nghiên cứu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần cùng với chính sách đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước thì thành phần kinh tế tư bản nhà nước thực sự được hình thành và có xu hướng phát triển. Nhưng việc vận dụng vào một nước 2
  3. tiểu nông như Việt Nam là một vấn đề hết sức mới mẻ và phức tạp, chính vì lẽ đó nên giới nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn ở nước ta quan tâm ngày càng nhiều. Trong thời gian gần đây đã có các công trình nghiên cứu khá công phu như cuốn “ Mấy vấn đề về chủ nghĩa tư bản nhà nước” của tác giả Vũ Hữu Ngoạn – Khổng Doãn Lợi do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành năm 1993. Các luận án tiến sỹ như “ Học thuyết của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước và sự vận dụng ở thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Chơn Trung, luận án “ Chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay và xu hướng phát triển’’ của tác giả Trần Đăng Thịnh, và gần đây nhất là cuốn sách “Về thành phần kinh tế tư bản nhà nước’’ của GS.TS Trần Ngọc Hiên…Ngoài ra còn nhiều cuộc hội thảo, các đề tài nghiên cứu khoa học được tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và nhiều bài báo, chuyên đề của các giáo sư, nhà giáo, nhà nghiên cứu đầu ngành được công bố ở các báo và tạp chí như của tác giả Đỗ Hoài Nam, Phan Thanh Phố, Vũ Văn Hiền, Đỗ Thế Tùng, Phan Huy Đường… Các cuốn sách, báo, luận án, các đề tài khoa học đã đề cập đến các khía cạnh về kinh tế tư bản nhà nước, đó là những vấn đề lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Song các công trình khoa học đó chỉ nghiên cứu ở mức độ khái quát chung trên phạm vi cả nước hay ở các thành phố lớn, nơi nền kinh tế đã tương đối phát triển. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ có hệ thống ở Thái Nguyên, trong khi Thái Nguyên là thủ phủ của vùng trung du, miền núi phía bắc, một trong những cái nôi của ngành công nghiệp nước ta, nơi đây có nhiều tiềm năng và điều kiện để phát triển mạnh thành phần kinh tế này. Do vậy đề tài chọn tỉnh Thái Nguyên làm địa bàn nghiên cứu, nhằm góp phần nhỏ vào việc chứng minh tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Nhà nước về chính sách phát triển thành phần kinh tế này ở Thái Nguyên hiện nay và trong tương lai. 3
  4. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài: 3.1.Mục đích: Trên cơ sở hệ thống hoá các quan điểm của chủ nghĩa Mác–Lênin, các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước ta và thực tiễn phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước trong thời gian vừa qua, để soi sáng vào thực trạng phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên, từ đó đưa ra những vấn đề cần giải quyết cũng như đề xuất phương hướng, giải pháp phát triển thành phần kinh tế này ở Thái Nguyên trong tương lai. 3.2. Nhiệm vụ: - Nghiên cứu các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quá trình vận dụng và phát triển kinh tế tư bản nhà nước trong thời gian qua để làm rõ sự cần thiết và vai trò của kinh tế tư bản nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam. - Khảo sát thực tiễn để phân tích thực trạng, đánh giá xu hướng phát triển và những vấn đề đặt ra đối với thành phần kinh tế này ở Thái Nguyên. Kiến nghị những giải pháp phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên trong thời gian tới. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: - Luận văn chủ yếu nghiên cứu những đặc điểm chung nhất của chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới góc độ là một thành phần kinh tế, với những hình thức khác nhau. - Thời gian nghiên cứu từ thời kỳ đổi mới (1986) đến nay. Phạm vi nghiên cứu ở tỉnh Thái Nguyên nhưng có liên hệ với cả nước. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn: - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và nghiên cứu kinh tế chính trị Mác – Lênin. 4
  5. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nghiên cứu và vận dụng, phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên. 6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu: 6.1. Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Các tác phẩm, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học liên quan tới đề tài để nghiên cứu. 6.2. Phương pháp nghiên cứu: - Lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và những quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng phát triển kinh tế làm cơ sở phương pháp luận tiếp cận. - Ngoài những phương pháp truyền thống của khoa học kinh tế, luận văn còn sử dụng phương pháp Lịch sử và Lôgíc, phương pháp phân tích điều tra khảo sát thực tế. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 chương 7 tiết. Chương 1: Kinh tế tư bản nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên Chương 3: Xu hướng và giải pháp chủ yếu để tiếp tục phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước ở Thái Nguyên 5
  6. Chƣơng 1 KINH TẾ TƢ BẢN NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM 1.1. Sự cần thiết và vai trò của kinh tế tƣ bản nhà nƣớc trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. 1.1.1 Khái niệm chung về kinh tế tư bản nhà nước: Hình thức kinh tế tư bản nhà nước tồn tại trong nhiều chế độ kinh tế với quy mô và mức độ khác nhau, nhưng dù tồn tại ở đâu, trong các nước phát triển, đang phát triển hay những nước đang thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì kinh tế tư bản nhà nước cũng hoạt động theo nguyên tắc kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Nghĩa là, với tiềm năng giới hạn, kinh tế tư bản nhà nước luôn dựa vào thị trường để quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai, sản xuất ở đâu và sản xuất khi nào thì đạt hiệu quả cao nhất, khi nào mang lại lợi nhuận tối đa. Chính vì dựa trên nguyên tắc đó nên kinh tế tư bản nhà nước một mặt đã vô tình thoả mãn có hiệu quả nhu cầu của xã hội, mặt khác kích thích, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế ở những quốc gia mà nó tồn tại. Cách đây hơn tám mươi năm, sau khi thử nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng con đường trực tiếp (chính sách cộng sản thời chiến) không đem lại kết quả, Lênin đã chủ trương chuyển sang phát triển chính sách Kinh tế mới (NEP). Trong chính sách này Lênin đã dùng phạm trù “ Chủ nghĩa tư bản nhà nước’’ để chỉ một khái niệm mới về “Chủ nghĩa tư bản dưới chính quyền Xô Viết’’ tức chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới chế độ cộng sản. Lênin khẳng định về chủ nghĩa tư bản nhà nước như sau: “Chủ nghĩa tư bản nhà 6
  7. nước là chủ nghĩa tư bản dưới chế độ tư bản khi chính quyền nhà nước trực tiết khống chế những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa này hay xí nghiệp tư bản chủ nghĩa khác”[23,tr.101] Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khái niệm chủ nghĩa tư bản nhà nước đã mang một nội dung mới và một vai trò mới, Lênin đã phân biệt rõ chủ nghĩa tư bản nhà nước ở trong một nhà nước mà chính quyền thuộc về giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản nhà nước ở trong một nhà nước vô sản là hai khái niệm khác nhau. Sự khác biệt của tư bản nhà nước dưới chính quyền Xô Viết trước hết là ở tính giai cấp của Nhà nước – Nhà nước của giai cấp vô sản, thứ hai là ở tính chất xã hội của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất – chế độ công hữu về đất đai và những cơ sở công nghiệp lớn và quan trọng nhất. Từ đó chúng ta có thể rút ra ba thuộc tính bản chất của chủ nghĩa tư bản nhà nước của Lênin: Một là, chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước đối với các quan hệ tư bản chủ nghĩa hay là thứ chủ nghĩa tư bản chịu sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước. Hai là, chủ nghĩa tư bản nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế khách quan giữa nhà nước với nhà tư bản (quan hệ sở hữu, quan hệ trao đổi) Ba là, chủ nghĩa tư bản nhà nước là chủ nghĩa tư bản được phát triển, được dung nạp trong một giới hạn nhất định mà giới hạn đó do Nhà nước ấn định . Có thể hiểu một cách vắn tắt: Chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự kết hợp giữa nhà nước với các nhà tư bản (trong và ngoài nước) nhằm mục đích sử dụng đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý để phát triển sản xuất. Đây là hình thức kinh tế do nhà nước kiểm soát và điều tiết sự phát triển. Những tư tưởng cách mạng vĩ đại của Lênin đã soi rọi thực tiễn của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng, đó là phát triển 7
  8. nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn áp dụng ở Việt Nam đang chứng tỏ phạm trù chủ nghĩa tư bản nhà nước có thể được hiểu trên hai phương diện rộng và hẹp. Nghĩa rộng, phạm trù chủ nghĩa tư bản nhà nước là một hệ thống các quan hệ kinh tế trong đó có sự đan xen giữa một bên chủ thể là Nhà nước cách mạng và bên kia là các quan hệ kinh tế có tính chất tư bản chủ nghĩa. Theo nghĩa hẹp, đề cập đến những hình thức kinh tế hay thành phần kinh tế cụ thể, đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự kiểm soát của nhà nước đối với sản xuất tư nhân, là hợp đồng tô nhượng hay cho thuê các xí nghiệp nhà nước, là hợp tác xã của các tư bản tư nhân, tiểu chủ hay tiểu nông, là đại lý thương nghiệp các hình thức cho tư nhân thuê khác và đấu thầu các cơ sở sản xuất kinh doanh hay vùng mỏ… Đại hội VI của đảng đã đưa ra quan điểm về kinh tế tư bản nhà nước:” kinh tế tư bản nhà nước là hình thức kinh tế quá độ có thể được tổ chức từ thấp đến cao, từ đại lý cung ứng và tiêu thụ hàng hoá, làm gia công cho đến hợp doanh với nhà nước’’[6,tr. 60]. Hình thức kinh tế này trải qua hơn 15 năm vận dụng vào điều kiện Việt Nam, đúc kết từ thực tiễn Đại hội IX khẳng định: “ Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh”[11,tr.90] Trên quan điểm của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước, qua các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về thành phần kinh tế này đồng thời liên hệ với thực tiễn hiện nay, có thể tóm tắt khái niệm kinh tế tư bản nhà nước mà nước ta đang vận dụng như sau : Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài; là thành 8
  9. phần kinh tế hiện đại để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; là hình thức kinh tế kết hợp nội lực với ngoại lực trong thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập. 1.1.2: Sự cần thiết và vai trò của kinh tế tư bản nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Thành tựu ổn định và tăng trưởng kinh tế của nước ta những năm qua đã khẳng định tính đúng đắn của các quan điểm kinh tế chủ đạo trong công cuộc cải cách, đó là: - Đoạn tuyệt với mô hình phát triển theo cơ chế cũ ( Kinh tế chỉ huy, kế hoạch hoá tập trung – bao cấp) - Chuyển sang phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. - Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cải cách khu vực kinh tế nhà nước và khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. - Thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế, lấy tăng trưởng xuất khẩu làm một động lực cho toàn bộ công cuộc tăng trưởng. Tạo điều kiện tối đa để thu hút các dòng vốn đầu tư nước ngoài. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng đổi mới của Đảng ta hiện nay rất phù hợp với quan điểm của Lênin trong chính sách Kinh tế mới. Tuy nhiên theo nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin, một nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phát triển cao sẽ không cần đến một giai đoạn phát triển trung gian nào khác. Những điều kiện về vật chất, khoa học kỹ thuật, tổ chức và văn hoá- xã hội cho bước chuyển đó đã hình thành và chín muồi trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phát triển cao. Nói đến điều kiện vật chất cho sự hình thành chủ nghĩa xã hội chúng ta thường cho rằng đó là nền đại công nghiệp, cách nói đó không sai nhưng 9
  10. không đầy đủ và có phần giản đơn, phiến diện. Vấn đề không chỉ ở nền đại công nghiệp cơ khí mà còn là toàn bộ những mối liên hệ kinh tế, quan hệ tổ chức sản xuất - đó là nền sản xuất công nghiệp có tổ chức, có định hướng chiến lược và kế hoạch tổng thể gắn liền với sự điều tiết của Nhà nước, phục tùng Nhà nước; đó là toàn bộ hệ thống kinh tế quy mô lớn, hệ thống các cơ chế, công cụ điều tiết, các thành phần, tổ chức kinh tế…nghĩa là toàn bộ những thể chế vật chất và tổ chức của một nền kinh tế hiện đại. Tất cả những vấn đề đó hợp thành những điều kiện vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tựu trung lại, muốn có chủ nghĩa xã hội cần phải có những điều kiện căn bản là: 1/ Phải có một cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại xây dựng trên cơ sở những thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại . 2/ Phải có tổ chức Nhà nước hoạt động quản lý điều tiết có kế hoạch mang tính định hướng chiến lược. 3/ Giai cấp công nhân cùng với tầng lớp trí thức của mình, là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ, tiêu biểu cho xu thế phát triển của thời đại – phải là giai cấp lãnh đạo. Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội với quan điểm chủ đạo là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc trở lại vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước ở Việt Nam đã trở nên hết sức cần thiết, xét từ bất cứ góc độ nào: định hướng phát triển (Chủ nghĩa xã hội - xã hội công bằng, dân chủ, văn minh) và mục tiêu tăng trưởng đầy quyết tâm (tốc độ cao và lâu bền). Do thách thức phát triển của thời đại và của chính nước ta đang đặt ra. Một là, vấn đề phát triển nhanh và bền vững: đối với nước nghèo như Việt Nam vẫn là đòi hỏi tất yếu, sống còn. Lôgíc vấn đề dẫn tới chỗ làm sao để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cả trong và ngoài nước. 10
  11. Hai là, lựa chọn các hình thức kinh tế quá độ thích hợp, mục tiêu của sự lựa chọn là nâng cao trình độ xã hội hoá của các quan hệ kinh tế, đồng thời thoả mãn yêu cầu về mặt định hướng phát triển cụ thể của quá trình xã hội hoá đó - định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta nghiên cứu di sản của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước và coi đó là điểm xuất phát để nghiên cứu kinh tế tư bản nhà nước, thấy được “ luận điểm quan trọng làm cơ sở xuất phát để nghiên cứu đó là việc chuyển sang chủ nghĩa xã hội… cần thiết phải có một loạt những bước quá độ như chủ nghĩa tư bản nhà nước”[29,tr.74]. Kết luận cần thiết này được rút ra từ nước Nga lạc hậu mà Lênin xếp vào loại nước tiểu nông hồi đó. Nước Nga với một nền kinh tế tương đối phát triển nhưng Lênin vẫn coi là một nước tiểu nông, vẫn phải đi con đường vòng xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước để đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đó là một tất yếu khách quan thì đối với Việt Nam một nước còn tiểu nông hơn nước Nga, việc phải đi qua chủ nghĩa tư bản nhà nước để đến với chủ nghĩa xã hội là cái cần thiết và còn tất yếu hơn nước Nga thời đó. Đối với Việt Nam, do xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm đại đa số, nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, máy móc thiết bị lỗi thời, các quan hệ tiền tư bản còn đang ngự trị, chúng ta chưa kinh qua phát triển chủ nghĩa tư bản. Đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản càng có nghĩa là nước ta rất cần đến những tiền đề vật chất, kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản thế giới đã tạo ra. Để có được những tiền đề ấy, trên con đường phát triển lên chủ nghĩa xã hội, tuy bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản nhưng không thể bỏ qua “phòng chờ” của chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là chúng ta phải trải qua thời kỳ quá độ đặc biệt, nhất định chúng ta sẽ “gặp” phải chủ nghĩa tư bản, phải qua cái “trạm”, phải trải qua một thời kỳ trong đó nhà nước vô sản khuyến khích phát triển tư bản chủ nghĩa kiểu sản xuất hàng hoá lớn để phát triển lực lượng sản xuất, để hướng dẫn và chiến 11
  12. thắng tính tự phát của sản xuất hàng hóa nhỏ và hướng sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân vào con đường kinh tế tư bản nhà nước, đồng thời sử dụng nhà nước cùng với thực lực kinh tế của mình để kiểm kê, kiểm soát và điều tiết toàn bộ nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy việc sử dụng kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta là rất cần thiết và mang tính tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật lịch sử. Việc vận dụng các hình thức khác nhau của kinh tế tư bản nhà nước là một bước “lùi” hợp lý, một cách thích nghi của các quan hệ sản xuất mới với trình độ phát triển lực lượng sản xuất và năng lực sản xuất hiện có. Sự cần thiết phát triển kinh tế tư bản nhà nước được coi là một nhu cầu nội tại của tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta nhằm đảm bảo cho tiến trình đổi mới đi đến thành công. Sự cần thiết đó là: Thứ nhất, do sự cần thiết phải nhanh chóng hiện đại hoá lực lượng sản xuất. Để thực hiện những cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, Mác và Ăngghen đã dự báo các quá trình của thời kỳ quá độ như cải biến cách mạng trong quan hệ sản xuất, trong lực lượng sản xuất, trong cơ sở hạ tầng…tất cả đều nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất làm điều kiện thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của mọi thành viên trong xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để giải phóng con người. Thời kỳ quá độ đòi hỏi “Tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất’’[11,tr. 413]. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội diễn ra trong bối cảnh một nền kinh tế kém phát triển, lực lượng sản xuất lạc hậu, nên cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng đã chỉ rõ: “ Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước ta trải qua hàng chục năm chiến tranh hậu quả để lại còn nặng 12
  13. nề”[7,tr. 8]. Đặc điểm đó đòi hỏi phải nhanh chóng tạo lập một nền công nghiệp hiện đại – cơ sở vật chất kỹ thuật để đảm bảo cho sự quá độ đó. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được coi là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Nước ta xuất phát từ một nước tiểu nông, con đường phát triển tuần tự sẽ là trải qua chủ nghĩa tư bản, nhưng con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhằm tránh cho nhân dân những đau khổ mà chế độ tư bản gây ra. Nhưng để đảm bảo quá trình rút ngắn chúng ta buộc phải sử dụng các quan hệ tư bản chủ nghĩa đặt dưới sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước để xây dựng nền công nghiệp lớn – tiền đề vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với nước ta, ngoài các thành phần kinh tế mang tính chủ đạo của nền kinh tế quốc dân là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, thì thành phần kinh tế tư nhân trong nước đã căn bản bị xoá bỏ trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, nay mới được phục hồi và phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây nhưng dù sao cũng vẫn còn non yếu, thành phần này phải trải qua một quá trình tích tụ và tập trung lâu dài mới đủ mạnh để hiện đại hoá lực lượng sản xuất. Chúng ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường là môi trường phát triển thuận lợi của kinh tế tư bản tư nhân, chấp nhận sự phát triển lâu dài của kinh tế tư bản tư nhân, nhưng nếu không kiểm soát được sự phát triển này thì nền kinh tế sẽ rơi vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Vì những lẽ đó, ngoài việc đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân chúng ta phải mở rộng cửa để “du nhập’’ các yếu tố tư bản chủ nghĩa từ bên ngoài vào nhằm đón nhận lực lương sản xuất hiện đại của thế giới. Để đạt được điều đó cần thiết phải phát triển kinh tế tư bản nhà nước nhưng đó không phải là thứ kinh tế tư bản được tự do phát triển mà thành phần này chỉ được phép phát triển đặt dưới sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước. Hơn nữa chúng ta cần định hướng thành phần kinh tế tư bản tư nhân vào thành phần 13
  14. kinh tế tư bản nhà nước, vì thành phần kinh tế tư bản tư nhân nếu phát triển mạnh sẽ đẩy mạnh lực lượng sản xuất phát triển nhưng đồng thời sự phát triển như vậy chứa trong nó nguy cơ làm cho nền kinh tế rơi vào quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, tiến trình đổi mới ở Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ về chiều sâu, chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì quá trình đó giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất nhằm khắc phục nguy cơ tụt hậu, ổn định chính trị xã hội, bảo vệ độc lập chủ quyền. Để đạt được mục tiêu đó phải huy động mọi thành phần kinh tế tham gia, mọi nguồn lực trong và ngoài nước. Chúng ta phải tìm mọi cách để huy động sức mạnh tổng hợp của thành phần kinh tế tư bản tư nhân, tư bản nước ngoài hướng nó vào con đường liên doanh, liên kết với kinh tế nhà nước để phát huy tiềm năng thế mạnh của nó, đồng thời qua đó để tranh thủ được nguồn vốn, công nghệ kỹ thuật, kinh nghiệm quả lý tiên tiến. Vì vậy chúng ta sử dụng kinh tế tư bản nhà nước chính là để rút ngắn đáng kể thời gian thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, sự cần thiết phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phải định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế quốc dân. Trong cương lĩnh của mình, Đảng ta đã nêu định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển lâu dài của đất nước về mặt kinh tế trong đó vấn đề có tính nguyên tắc là: trong điều kiện hiện nay ở nước ta, khi lựa chọn cơ chế thị trường như là cơ chế bảo đảm sự vận hành và tăng trưởng kinh tế thì định hướng của sự phát triển bao hàm trong nó một số khía cạnh sau : 14
  15. - Bảo đảm tăng trưởng nhanh lâu bền, đồng thời tạo ra bước chuyển mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế và trình độ các quan hệ kinh tế (mà cốt lõi là chuyển nhanh các quan hệ tiền tư bản sang các quan hệ xã hội hoá cao) - Sự phát triển đó phải hướng tới việc tạo ra các giá trị xã hội cao (công bằng, dân chủ, văn minh đời sống nhân dân lao động ngày càng được cải thiện) - Hạn chế các xu hướng tự phát phát triển tư bản chủ nghĩa trong các thành phần, lực lượng kinh tế [28]. Ba khía cạnh đó bao hàm định hướng chính trị, mục tiêu và xu hướng phát triển kinh tế – xã hội. Phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta xuất phát từ một xã hội tiền tư bản, khi chuyển sang cơ chế thị trường tính chất tự phát tư bản chủ nghĩa càng được gia tăng và điều đó hoàn toàn đối lập với tính tổ chức, có kế hoạch của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải hướng các quan hệ tư bản chủ nghĩa vào con đường kinh tế tư bản nhà nước, làm mắt xích trung gian nối liền giữa sản xuất nhỏ với sản xuất lớn, cần “du nhập’’ và “dung nạp’’ chủ nghĩa tư bản trong và ngoài nước hoạt động dưới sự kiểm soát và hướng dẫn của nhà nước. Làm như vậy, một mặt sẽ tăng cường được nhân tố định hướng của nền kinh tế và mặt khác lại sử dụng tốt nhất những rhành quả phát triển của loài người nhằm lôi cuốn và tạo điều kiện để chủ nghĩa tư bản tham gia vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thứ ba, sự cần thiết phát triển kinh tế tư bản nhà nước nhằm đáp ứng nhu cần mở cửa và hội nhập nền kinh tế quốc tế. Thế giới đã bước vào một thời kỳ mới khi cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã tạo ra một lực lượng sản xuất mới có tính chất và trình độ cao hơn lực lượng sản xuất cũ, đồng thời lực lượng sản xuất thế giớ i đang được xã hội hoá và quốc tế hoá rất cao, nó đưa tới một cuộc đại ganh đua kinh tế quyết liệt vì sự sống còn của mỗi dân tộc. 15
  16. Nước ta nằm ngay giữa khu vực phát triển năng động nhất của thế giới là vùng châu Á Thái Bình Dương. Khu vực này đang diễn ra xu thế tự do hoá thương mại và quá trình liên kết hợp tác kinh tế với các mức độ khác nhau. Trong bối cảnh đó không chỉ đối với Việt Nam mà đối với bất cứ quốc gia nào hội nhập kinh tế là lẽ đương nhiên, là nhu cầu mang tính tất yếu và cần thiết. Công cuộc đổi mới của đất nước ta đã thu được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, Nhà nước ta đã thiết lập được những mối quan hệ kinh tế với bên ngoài và đã có những chính sách kinh tế đối ngoại được nước ngoài đánh giá là “rộng mở” và thức thời. Nước ta cũng có một số tài nguyên quý giá, và là một thị trường không nhỏ, đặc biệt sự ổn định chính trị là một ưu thế trong việc đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy Đảng ta khẳng định mở cửa là chính sách sống còn của Quốc gia nhằm tiếp cận và khai thác các giá trị của nền văn minh nhân loại. Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trong đó có sự dung nạp chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài, từ các nước phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng của chủ nghĩa tư bản nhà nước chính là quá trình chúng ta bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc từ nền kinh tế kém phát triển nối liền với nền sản xuất lớn tiên tiến của thế giới để đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế đã chứng minh chỉ cần có một chính sách hợp tác khu vực đúng đắn cùng với chính sách quốc tế mềm rẻo, chúng ta có thể thu hút được vốn đằu tư của nước ngoài dưới những hình thức khác nhau của kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước với tính cách là một kiểu quan hệ kinh tế, một sự “liên minh kinh tế với tư bản tài chính tiên tiến ở các nước tiên tiến” như Lênin đã nói, nó còn là phương thức, hình thức để thực hiện sự hội nhập nhằm khai thác tối đa các lực lượng sản xuất tư bản quốc tế. Nghị quyết Đại hội VI và tiếp theo là nghị quyết của Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã chỉ ra rằng “ phải vận dụng sáng tạo và tiếp 16
  17. tục phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách Kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo những hình thức quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng phù hợp với hoàn cảch lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc’’[8,tr.24]. Tóm lại, từ thực tế của nền kinh tế nước ta và dưới tác động của xu thế thời đại mới đã khẳng định xu thế khách quan và yêu cầu cấp bách của việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đặt trong mối quan hệ với các thành phần kinh tế khác trước hết là với kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân và với mục tiêu xã hội cần đạt được, trong hiện trạng đó thì việc áp dụng các hình thức kinh tế tư bản nhà nước là rất cần thiết. Với sự cần thiết nêu trên cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của kinh tế tư bản nhà nước là: - Kinh tế tư bản nhà nước là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, là nhân tố cực kỳ quan trọng thúc đấy nền kinh tế xã hội phát triển theo xu hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua kinh tế tư bản nhà nước mà chúng ta sẽ kiểm kê, kiểm soát được nền kinh tế bằng pháp luật, ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng tiêu cựu, đẩy mạnh sản xuất góp phần chăm lo đời sống nhân dân, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường của đất nước. Sử dụng kinh tế tư bản nhà nước như là một công cụ, phương tiện, biện pháp để hoàn chỉnh cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm đạt mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” - Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ, nâng cao trình độ sản xuất, phương thức tổ chức lao động, quản lý kinh tế…Sử dụng kinh tế tư bản nhà nước sẽ là điều kiện cần thiết để hạn chế tính tự phát trong sản xuất và chế độ sản xuất phân tán kém hiệu quả của kinh tế sản xuất nhỏ, nhằm khai thác tối đa tiềm năng để tập 17
  18. trung cho các nguồn lực hướng về mục tiêu kinh tế - xã hội cao nhất là công nghiệp hoá, hiện đại hoá và các chương trình kinh tế khác. Tố chất cạnh tranh vốn có của hình thức kinh tế tư bản nhà nước còn giúp cho tất cả các thành phần kinh tế khác trong xã hội có một sự nhận thức về bản thân mình đúng hơn và cùng vươn lên. Một hệ quả hết sức quan trọng của sự phối hợp kinh tế trong nước với nhau và với nước ngoài là sự giao lưu và tăng trưởng trí tuệ, kiến thức đa dạng và do đó thúc đẩy mặt bằng học vấn xã hội được nâng cao. Lênin đã xác định “ Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội’’[22,tr. 258]. - Mặt khác. kinh tế tư bản nhà nước có tác dụng kích thích lợi ích cá nhân, làm động lực cho sự phát triển, là công cụ đắc lực huy động sức người, sức của nhất là trong việc thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Đánh giá vai trò của kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định : “Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý…của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước” [10,tr. 95] Sự khẳng định này có ý nghĩa cựu kỳ quan trọng. Lần đầu tiên vai trò của kinh tế tư bản nhà nước được khẳng định trong văn kiện chính thức của Đảng, thực chất là vận dụng sáng tạo học thuyết của Lênin về kinh tế hàng hoá và chủ nghĩa tư bản nhà nước trong bối cảnh lịch sử cụ thể ở nước ta, mà thực chất là quan điểm về sự cần thiết và vai trò của kinh tế tư bản nhà nước trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. 1.2. Sự phát triển kinh tế tƣ bản nhà nƣớc ở nƣớc ta thời gian qua và những bài học kinh nghiệm. 1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta từ 1986 đến nay. 18
  19. Cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng kéo dài suốt những năm của thập kỷ 80 của thế kỷ trước là do hậu quả của 2 cuộc chiến tranh kéo dài. Mặt khác, là hậu quả của những quan niệm sai lầm về chủ nghĩa xã hội trước đó, những khuyết tật của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã không được nhận thức và sửa chữa kịp thời. Đứng trước vận mệnh dân tộc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng hiện trạng nền kinh tế xã hội của đất nước, đưa ra đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội, đưa đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới với một loạt quyết định có tính chất chiến lược: Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với nhiều loại hình tổ chức kinh doanh đa dạng, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền kinh tế mở, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong đó, phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức với phương châm: “Khuyến khích tư nhân đầu tư, kinh doanh trong nhiều ngành nghề lĩnh vực có lợi cho quốc kế dân sinh, đồng thời đảm bảo sự kiểm soát và điều tiết của Nhà nước hướng tư bản tư nhân từng bước đi vào kinh tế hợp tác xã và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế” [9]. Trong bối cảnh đó, cùng với việc chú trọng đổi mới, phát triển kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã và các thành phần kinh tế khác thì kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta cũng được chú ý phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng với những nội dung mới. Sự xuất hiện của kinh tế tư bản nhà nước gắn liền với sự nhận thức lại về thời kỳ quá độ, về chủ nghĩa xã hội, là sản phẩm của chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của chính sách mở cửa và hoạt động kinh tế đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta. Kinh tế tư bản nhà nước được thừa nhận là một thành 19
  20. phần kinh tế với nhiều hình thức đa dạng, có vai trò rất lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất. Ở nước ta kinh tế tư bản nhà nước được chia làm 2 loại và trong mỗi loại có những hình thức cụ thể khác nhau. - Loại hình kinh tế nhà nước hợp tác liên doanh với kinh tế tư bản tư nhân trong nước còn gọi là kinh tế tư bản nhà nước trong khu vực có vốn đầu tư trong nước. - Loại hình kinh tế nhà nước hợp tác liên doanh với tư bản nước ngoài hay là kinh tế tư bản nhà nước trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. a) Kinh tế tư bản nhà nước trong khu vực có vốn đầu tư trong nước Quá trình đổi mới ở nước ta trong thời gian qua làm xuất hiện nhiều hình thức của kinh tế tư bản nhà nước trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư trong nước. Thời gian qua chúng ta đã tích cực triển khai hình thức liên kết với tư nhân trong nước được tổ chức theo khuôn khổ pháp lý hiện hành, tồn tại công khai không chỉ trong lĩnh vực sản xuất mà cả trong lĩnh vực lưu thông, tài chính-ngân hàng... - Hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước. Sự liên doanh liên kết này được thể hiện dưới 2 hình thức: Liên doanh, liên kết theo kiểu thành lập công ty hợp doanh và thành lập công ty cổ phần. Đảng ta luôn nêu cao phương châm dựa vào nguồn lựu bên trong là chính, đi đôi với tranh thủ nguồn lực bên ngoài. Trong thời gian qua chúng ta đã tích cực triển khai hình thức liên kết với tư nhân trong nước, đây là kiểu liên doanh mà các bên cùng góp vốn kinh doanh, cùng quản lý, cùng chia sẻ rủi ro, cùng phân chia lợi nhuận. Đó chính là tổ chức kinh tế tư bản tư nhân hình thành pháp nhân kinh tế mới có tên gọi là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Cho đến nay kiểu liên doanh liên kết xuất hiện không nhiều, tính chung trên cả nước có khoảng hơn 70 đơn vị liên 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2