Luận văn Thạc sĩ Lí luận văn học: Tứ thơ và cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh
lượt xem 14
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu loại hình tứ thơ và nghệ thuật tổ chức tứ thơ Hữu Thỉnh. Nghiên cứu biểu hiện cái tôi trữ tình và nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lí luận văn học: Tứ thơ và cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------- PHẠM THỊ THANH MAI TỨ THƠ VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ HỮU THỈNH LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Lí luận văn học Hà Nội - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------- PHẠM THỊ THANH MAI TỨ THƠ VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ HỮU THỈNH Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Đức Phƣơng Hà Nội - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Đoàn Đức Phƣơng. Các nội dung nghiên cứu và các kết quả trong đề tài này là hoàn toàn trung thực và chưa công bố dưới bất cứ hình thức nào trước đây. Những dẫn chứng phục vụ cho việc so sánh, phân tích được chính tác giả luận văn thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu đi trước đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình. Hà Nội, ngày tháng năm 201 Tác giả luận văn Phạm Thị Thanh Mai
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS Đoàn Đức Phƣơng, người thầy đã hướng dẫn tận tình, đưa ra những định hướng, góp ý, nhận xét trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Văn học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn- Đại học Quốc Gia Hà Nội tham gia giảng dạy các môn học trong chương trình đào tạo Thạc sĩ Văn học đã cung cấp kiến thức nền tảng cho luận văn. Xin cảm ơn sự khích lệ, động viên của đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn thiện quá trình học tập và thực hiện đề tài. Xin gửi lời cảm ơn đến các bạn học viên lớp cao học Văn học K58- 2013 đã cùng tôi trao đổi, chia sẻ các kiến thức trong quá trình cùng học tập và làm luận văn. . Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến những người thân trong gia đình đã luôn động viên, hỗ trợ và tạo động lực cho tôi trong quá trình tham gia chương trình học. Dù có nhiều cố gắng, song chắc chắn luận văn đề tài Tứ thơ và cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi mong muốn nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn. Tôi hi vọng những nghiên cứu đặt ra trong luận văn sẽ trở thành nguồn tư liệu có giá trị đối với việc dạy học tác phẩm văn chương của Hữu Thỉnh trong nhà trường phổ thông. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng năm 201 Tác giả luận văn Phạm Thị Thanh Mai
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 4 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................... 7 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 7 5. Cấu trúc luận văn........................................................................................... 8 NỘI DUNG....................................................................................................... 9 Chƣơng 1: SÁNG TÁC THƠ VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA HỮU THỈNH ................................................................................................... 9 1.1 Hành trình sáng tạo ..................................................................................... 9 1.2 Quan điểm nghệ thuật ............................................................................... 14 Chƣơng 2: TỨ THƠ VÀ CẤU TỨ TRONG THƠ HỮU THỈNH ............ 26 2.1 Khái lược về tứ thơ và cấu tứ trong thơ ................................................... 26 2.1.1 Tứ thơ ..................................................................................................... 26 2.1.2 Cấu tứ ..................................................................................................... 29 2.2 Loại hình tứ thơ trong thơ Hữu Thỉnh ...................................................... 31 2.2.1 Tứ thơ về tình cảm gia đình ................................................................... 31 2.2.2 Tứ thơ về tình yêu ................................................................................... 37 2.2.3 Tứ thơ về nỗi cô đơn............................................................................... 40 2.3 Nghệ thuật tổ chức tứ thơ trong thơ Hữu Thỉnh ....................................... 44 2.3.1 Cấu tứ liên tưởng ................................................................................... 44 2.3.2 Cấu tứ gợi mở......................................................................................... 51 2.3.3 Cấu tứ kết chuỗi ..................................................................................... 54 Chƣơng 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ HỮU THỈNH .............. 58 3.1 Khái lược về cái tôi trữ tình ...................................................................... 58 3.2 Biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh ......................................... 63
- 3.2.1 Cái tôi trách nhiệm với Tổ quốc ............................................................ 63 3.2.2 Cái tôi nhạy cảm, tinh tế ........................................................................ 67 3.2.3 Cái tôi đầy trăn trở suy tư giữa cuộc đời............................................... 71 3.3 Phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh .................... 77 3.3.1 Ngôn ngữ thơ .......................................................................................... 77 3.3.2 Giọng điệu .............................................................................................. 81 3.3.3 Biểu tượng thơ ........................................................................................ 83 KẾT LUẬN .................................................................................................... 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc với chiến thắng vào ngày 30- 4-1975 đã đánh dấu một kỉ nguyên mới, lật một trang mới trong lịch sử dân tộc. Hòa chung với khí thế chống giặc ngoại xâm, văn học đã có đóng góp không nhỏ trong việc khích lệ, cổ động tinh thần cho cuộc kháng chiến. Đồng thời chính cuộc đấu tranh giành độc lập này đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền thơ ca Việt Nam với sự lớn mạnh về đội ngũ sáng tác. Chưa bao giờ lực lượng sáng tác thơ lại tập hợp được nhiều thế hệ và nhiều phong cách, vừa thống nhất vừa bổ sung cho nhau như thời kì này. Từ những nhà thơ xuất hiện từ trước những năm 1975 như Tố Hữu, Tế Hanh, Xuân Diệu, … đến các nhà thơ thời kì kháng chiến chống Pháp như Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, … tất cả đều có những sáng tác nổi bật và gặt hái được nhiều thành công. Cùng với đó, thời kì này đã xuất hiện rất nhiều các nhà thơ trẻ với sự sáng tạo độc đáo, mang lại luồng gió mới và đã sớm khẳng định tên tuổi của chính mình như: Thanh Thảo, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh … Cùng với sự phát triển đông đảo của số lượng các tác giả, diện mạo và khuynh hướng văn học cũng có một sự phát triển tương đối rõ ràng. Các tác phẩm viết về hiện thực đặc biệt là hiện thực chiến tranh đã không còn là hiện thực “nhìn thấy” nữa mà thay vào đó là được hồi tưởng lại trong kí ức của tác giả. Có lẽ bởi vậy, chiến tranh không đơn giản là được nhìn nhận bởi những gì đang diễn ra, sự khốc liệt của cuộc kháng chiến dân tộc, tinh thần đấu tranh quật cường của nhân dân, … mà còn là những nỗi đau trĩu nặng với những vết thương nhức nhối khó lành. Và với sự thay đổi về nhu cầu sáng tác, thể loại trường ca đã được xuất hiện rất nhiều gắn với những tên tuổi lớn như Thanh 1
- Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Phạm Tiến Duật … Những trường ca ra đời thể hiện nhu cầu tổng kết về chiến tranh với cái nhìn tổng quát nhất, kéo dài trong cả một cuộc kháng chiến từ những giây phút ban đầu cho tới khi đến thời bình. Đó là một cuộc chiến đầy đau thương mất mát và cũng có nhiều hi sinh. Bên cạnh việc viết về chiến tranh, giai đoạn văn học này còn viết nhiều về cái tôi cá nhân, những âu lo trong cuộc sống đời thường của mỗi con người. Những nỗi buồn nhân sinh, sự ưu tư trước cuộc đời dần dần được bày tỏ qua cái tôi cá nhân. Các nhà thơ ý thức được đã đến lúc tách rời cái ta chung để đi tìm hiểu chiều sâu tâm hồn con người. Những nỗi buồn trong thời kì này không giống như trong Thơ mới, muốn thoát ly hiện thực mà gắn liền với hiện thực, bộc lộ những cảm xúc cá nhân trước cuộc đời, con người, những thay đổi làm nên bi kịch mới của con người. Đất nước kết thúc chiến tranh, con người không còn có một mục tiêu chung để ra sức chiến đấu, họ trở về cuộc sống bình thường với muôn mặt phải âu lo. Điều đó tạo nên sự bất an, sự khủng hoảng về niềm tin trước cuộc đời. Đồng thời, nó còn là thái độ của con người trước hiện thực cuộc sống với những gian dối, lọc lừa, sự vô tâm vô tình giữa con người và đặc biệt là ở đó có một nỗi niềm cô độc không còn ai để có thể bày tỏ sẻ chia. Thơ ca lúc này cũng mang một diện mạo mới với những tác phẩm đã để lại dấu ấn riêng cho người đọc. Hữu Thỉnh là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào thơ ca cách mạng kháng chiến chống Mỹ. Con đường thơ ca của ông cũng nằm trong mạch chảy và xu hướng chung của thơ ca cách mạng sau những năm 1975. Những trường ca, những tác phẩm thơ của ông sáng tác về đề tài chiến tranh đã thể hiện được hiện thực với một quy mô đáng kể, đặc biệt là thông qua hình ảnh người lính. Ta không chỉ quan sát được con đường hành quân đầy gian khổ của người lính trẻ mà còn thấy được những suy tư, trải nghiệm, 2
- những tình cảm đồng đội, gia đình, những cảm xúc trước cuộc đời của họ : “Chúng tôi có những kỉ niệm riêng, những bài học những điều để nghĩ”. Chiến tranh đã qua đi nhưng nó chưa bao giờ trở thành quá khứ trong cuộc đời của mỗi người lính khi tham gia trận mạc. Nó vẫn tồn tại, đầy kỉ niệm và gieo những ấn tượng khó quên trong lòng mỗi người. Kết thúc chiến tranh, Hữu Thỉnh cũng như bao người chiến sĩ khác, cởi bỏ chiếc áo lính để trở về cuộc sống đời thường với những suy tư, trăn trở, những cô đơn giữa cuộc đời bộn bề. Con người không còn là con người chung của Tổ quốc, của những chiến tích hào hùng mà là con người của những mảng khối đa chiều, đa cực. Điều đó thôi thúc nhà thơ viết nên những vần thơ xót xa, cô độc : Càng viết càng thấy mình yếu đuối Đường nhân nghĩa chừng nào còn lắm bụi Anh hiểu vì sao tôi ít lời (Chạm cốc với Xa-in) Trong những sự cô đơn, xót xa trước sự thay đổi của thời cuộc ấy, vẫn ánh lên những khao khát, những ước mơ của con người về vẻ đẹp tâm hồn của con người, hướng con người về những chuẩn mực đạo đức chứ không phải là những ước mơ tiêu cực, muốn thoát khỏi hiện thực. Nguyễn Nguyên Tản - một cây bút nghiên cứu phê bình văn học đã viết về Hữu Thỉnh: "Thơ Hữu Thỉnh có một vẻ đẹp riêng: sắc sảo, tinh tế mà vẫn bình dị, chân thật mà không kém phần hư ảo, hồn nhiên mà bay bổng, tự nhiên mà không nông cạn" [16, 176]. Cả sự nghiệp thơ của ông đã để lại nhiều tác phẩm đi vào trong lòng người đọc và để lại dấu ấn khó phai về sự chân tình, giản dị của một con người hết lòng suy tư về cuộc đời, con người. Trong thơ, cấu tứ có một vai trò vô cùng quan trọng. Nó tạo nên hồn thơ, cái tôi riêng ấn tượng và đặc sắc cho mỗi nhà thơ. Chúng ta có thể bắt 3
- gặp cùng một đề tài, một chủ đề ở vô số các tác phẩm của các tác giả khác nhau nhưng chính tứ thơ khác biệt đã làm nên thành công cho mỗi tác phẩm, giúp ta nhận ra chân dung của mỗi hồn thơ. Hữu Thỉnh là một nhà thơ có những tứ thơ độc đáo với những dấu ấn riêng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nhiều đề tài nghiên cứu tập trung đi sâu vào để tìm hiểu và chỉ ra được một cách cụ thể về đặc điểm cấu tứ của thơ ông. Bởi vậy, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài “Cấu tứ và cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh” để làm đề tài luận văn của mình. 2. Lịch sử vấn đề Hữu Thỉnh là một cây bút đã thành danh, gây được dấu ấn trong lòng người đọc. Bởi vậy, đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu đã dành nhiều tâm sức để nghiên cứu về sự nghiệp thơ văn của ông thông qua các yếu tố nội dung, nghệ thuật,… Tuy nhiên, thơ ca Hữu Thỉnh chỉ mới được nghiên cứu tập trung nhiều từ những năm 1990 trở lại đây. Đa số các bài nghiên cứu, đánh giá về thơ Hữu Thỉnh có quy mô vừa và nhỏ, giới hạn trong các bài nghiên cứu với phạm vi cho phép, thường tập trung nghiên cứu về một khía cạnh của nhà thơ như tính triết lý của thơ, đặc sắc của một tập thơ cụ thể. Tác giả Vũ Nho đã có một bài nghiên cứu Thơ Hữu Thỉnh in trong cuốn Đi giữa miền thơ năm 2001 với quy mô tương đối lớn. Tuy bài viết đã đưa ra những nhận định thống nhất, khái quát về phong cách thơ Hữu Thỉnh nhưng tác giả vẫn chưa khái quát được toàn bộ hệ thống các tác phẩm của nhà thơ đặc biệt là trường ca Sức bền của đất. Nhà nghiên cứu Trần Mạnh Hảo đã dành cho tập thơ Thư mùa đông bài viết Thư mùa đông của Hữu Thỉnh in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 4, năm 1996. Ông đã phát hiện và khẳng định những nét đặc sắc và sự sáng tạo trong lời thơ Hữu Thỉnh đồng thời phát hiện ra chất dân dã, sự đan xen 4
- giữa những nét hồn nhiên với những suy ngẫm đầy tính triết lý cùng nỗi cô đơn, đau buồn trong tập thơ. Năm 2005, nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ đã có bài viết Hữu Thỉnh, một phong cách thơ sáng tạo đăng trên Tạp chí Văn học và sau này đã được đưa lại vào trong cuốn Thơ và một số gương mặt thơ hiện đại. Trong bài viết của mình, Lưu Khánh Thơ không những nhấn mạnh khả năng tiếp thu truyền thống dân tộc một cách khéo léo qua cách ví von, cách tư duy, liên tưởng độc đáo của nhà thơ mà còn chỉ ra “sự đằm thắm, đôn hậu” và “chìm lắng yêu thương” trong hồn thơ Hữu Thỉnh. Tác giả Lý Hoài Thu là người có nhiều bài viết nghiên cứu về thơ ca Hữu Thỉnh nhất. Trong tạp chí Văn học số 12 năm 1999, tác giả có bài Thơ Hữu Thỉnh, một hướng tìm tòi và sáng tạo từ dân tộc đến hiện đại. Nhà nghiên cứu đã chỉ ra những điều tạo nên sự hấp dẫn trong thơ Hữu Thỉnh chính là bắt nguồn từ sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, thể hiện rõ ý thức luôn biết chủ động “khai thác cái hay cái đẹp của dân gian, của dân tộc” và linh hoạt để tạo nên những điều mới. Chính điều này đã làm nên cá tính và dấu ấn đặc biệt trong thơ ông. Tác giả Nguyễn Trọng Tạo cũng đã có sự đánh giá khá sắc bén và chính xác về thơ Hữu Thỉnh trong bài viết Hữu Thỉnh, thành phố hồn quê in trong cuốn Văn chương cảm và luận in năm 1998. Ông viết “Hồn thơ Hữu Thỉnh là sự sum suê của cây cối từ đất mà lên” ; “Hữu Thỉnh viết về đời sống bằng một thứ văn hóa nhà quê thật đẹp và thật ngộ”. Ông đã đưa ra những luận chứng để người đọc thấy rằng thơ Hữu Thỉnh dung dị, mộc mạc nhưng lại không bị nhầm lẫn với các nhà thơ khác. Năm 2003, Nguyễn Đăng Điệp có bài viết Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ trên tạp chí Văn học số 9. Bài viết đã đưa ra những nét đổi mới trong thơ ca của Hữu Thỉnh. Đó là việc đào sâu vào sự triết lý, suy tư để tạo 5
- nên một kiểu kết tinh mới đồng thời đi sâu vào khám phá bí ẩm thẳm sâu trong tâm hồn con người bằng những suy tư chân thật tận đáy lòng mình. Xuân Diệu : Những suy nghĩ nhân đọc Đường tới thành phố – Báo Văn nghệ số 19, ngày 9/5/1981. Phan Cung Việt : Nhân đọc Trường ca biển của Hữu Thỉnh – Tạp chí Văn nghệ quân đội số ra T4/1995. Hoài Anh : Hữu Thỉnh – nhà thơ và phía khuất lấp cuộc đời – Tạp chí Văn hóa văn nghệ Công an, số 4 – 1999. Bên cạnh đó còn có rất nhiều các bài viết, các nhận định về thơ Hữu Thỉnh : Hữu Thỉnh gửi Thư mùa đông tới mùa … (Thanh Thảo), Mấy ghi nhận về thơ người lính của Hữu Thỉnh (Phạm Quang Trung), Hữu Thỉnh – những kỉ niệm nhỏ về đời và thơ (Nguyễn Thanh Kim), … Tất cả những nghiên cứu đó đã góp phần hoàn thiện và xây dựng được hệ thống đánh giá một cách toàn diện về con đường thơ của tác giả Hữu Thỉnh. Ngoài những bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về Hữu Thỉnh, ta còn có một số chuyên luận, khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ cũng nghiên cứu về thơ ca của ông. Năm 2003, chuyên luận Thi pháp thơ Hữu Thỉnh của Nguyễn Nguyên Tản được ra mắt và đã đưa ra một cái nhìn tổng thể về những chặng đường sáng tác của Hữu Thỉnh, chỉ ra những thành công về mặt thi pháp để thấy được Hữu Thỉnh là một người luôn tìm tòi và sáng tạo trên con đường sáng tạo nghệ thuật thông qua việc tìm hiểu : quan niệm về con người, không gian, thời gian nghệ thuật và phương thức thể hiện. Đồng thời, ta còn một số khóa luận, luận văn nghiên cứu về thơ ông : Nguyễn Thị Ngọc Linh với Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh (qua 2 tập thơ Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian) ; Đào Thị Mơ với Tính triết lý trong thơ Hữu Thỉnh (qua tập thơ Thương lượng với thời gian) ; Nguyễn Minh Phương với Những chặng đường thơ Hữu Thỉnh; Đỗ Thị Hạt với Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh dưới góc nhìn thi pháp… 6
- Mặc dù có rất nhiều công trình nghiên cứu về thơ ông nhưng tất cả vẫn tập trung đi vào những vấn đề chung về tư duy nghệ thuật chứ chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu riêng biệt về cấu tứ trong thơ ông. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về cấu tứ trong thơ Hữu Thỉnh sẽ giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về tài năng, sự thành công trong việc hình thành tứ thơ để tạo nên dấu ấn cho tác phẩm. Đồng thời cũng phần nào giúp chúng ta hiểu sâu hơn về cái tôi trữ tình của nhà thơ. 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu loại hình tứ thơ và nghệ thuật tổ chức tứ thơ Hữu Thỉnh - Nghiên cứu biểu hiện cái tôi trữ tình và nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh 3.2 Đối tượng nghiên cứu Ở đề tài luận văn này, chúng tôi tập trung đi khai thác cách thể hiện của cái tôi cá nhân và đặc điểm các loại hình tứ thơ cũng như nghệ thuật tổ chức tứ thơ thông qua sự nghiệp sáng tác của ông, góp phần làm sáng tỏ những đóng góp của Hữu Thỉnh trong sự nghiệp thơ ca. 3.3 Phạm vi nghiên cứu Sự nghiệp thơ ca của Hữu Thỉnh tuy khá dài nhưng những tác phẩm được xuất bản không quá nhiều. Với đề tài luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu tất cả những tập thơ đã được xuất bản của Hữu Thỉnh (không bao gồm trường ca) 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi vận dụng một cách thích hợp những kiến thức về lý luận văn học, văn học sử và một số phương pháp chủ yếu sau: 7
- Phương pháp lịch sử - xã hội và phương pháp loại hình Đặt đối tượng nghiên cứu trong tiến trình lịch sử và chú ý đặc trưng của thể loại nghiên cứu để xem xét quá trình sáng tác qua các thời kì khác nhau của Hữu Thỉnh, chỉ ra sự vận động, chuyển đổi tư tưởng cũng như quan niệm và phương thức biểu hiện, từ đó tìm hiểu những đóng góp riêng của Hữu Thỉnh trong việc thể hiện cái tôi cũng như thể hiện nghệ thuật tổ chức tứ thơ của ông. Phương pháp so sánh, đối chiếu Để tìm ra những nét chung giữa tư duy thơ của các tác giả và nét đặc sắc riêng biệt, độc đáo trong cấu tứ thơ của Hữu Thỉnh, luận văn có sự vận dụng so sánh, đối chiếu giữa các tập thơ của Hữu Thỉnh với một số nhà thơ cùng thời. Phương pháp phân tích, tổng hợp Để chỉ ra những đặc trưng và những yếu tố để làm nên thành công về mặt nghệ thuật, góp phần làm rõ cái tôi cá nhân của Hữu Thỉnh, chúng tôi tiến hành khảo sát 5 tập thơ của ông và dựa trên kết quả đó để phân tích và khái quát nên đặc điểm tiêu biểu trong cái tôi của ông. Phương pháp tiếp cận thi pháp học Luận văn vận dụng các khái niệm thi pháp học để tìm hiểu cách thức tiếp cận, khám phá hiện thực của nhà văn để tìm ra đặc sắc nghệ thuật trong cấu tứ, cách xây dựng tứ thơ, ngôn ngữ, biểu tượng thơ trong thơ Hữu Thỉnh 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Sáng tác thơ và quan điểm nghệ thuật của Hữu Thỉnh Chương 2: Tứ thơ và cấu tứ trong thơ Hữu Thỉnh Chương 3: Cái tôi trữ tình trong thơ Hữu Thỉnh 8
- NỘI DUNG Chƣơng 1 SÁNG TÁC THƠ VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA HỮU THỈNH 1.1 Hành trình sáng tạo Hữu Thỉnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Tiếp bước những nhà thơ lớn cùng thời kì như Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, … Hữu Thỉnh đã gây được nhiều tiếng vang lớn với những đặc trưng thơ rất riêng. Cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ đã tạo cho Hữu Thỉnh những chất liệu riêng để ông làm thơ ghi lại chính cuộc đời của mình - một chân dung người lính. Hữu Thỉnh, tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh Vũ Hữu. Ông sinh năm 1942 trong một gia đình nông dân có truyền thống Nho học ở Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Tuy nhiên quá trình lớn lên của ông cũng không hề bằng phẳng : 6 năm ở với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn binh Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thanh Vân. Từ sau hòa bình lập lại năm 1954, ông mới được đến trường. Năm 1963, ông tốt nghiệp phổ thông và nhập ngũ bộ đội tăng - thiết giáp, trở thành một người lính thuộc Trung đoàn 202. Từ đó, ông đã trực tiếp tham gia chiến đấu chống Mỹ ở nhiều chiến trường và Chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau khi đất nước thống nhất, Hữu Thỉnh quay trở lại học Đại học Văn hóa và là một trong số những sinh viên khóa đầu tiên của Trường viết văn Nguyễn Du khoá 1. Năm 1982, ông làm cán bộ biên tập, Trưởng ban Thơ, Phó tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. 9
- Từ 1990 đến nay, ông chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam, làm Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban Chấp hành Hội các khoá 3, 4, 5, Uỷ viên Ban Thư ký khoá 3, Phó tổng thư ký Thường trực khoá 5, Tổng Thư ký - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khoá 6-7-8, Chủ tịch Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam. Đồng thời, nhà thơ Hữu Thỉnh còn kiêm nhiệm Uỷ viên Thường vụ Đảng uỷ Khối Tư tưởng văn hoá Trung ương, Bí thư Đảng uỷ Đảng bộ Cơ quan Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam; Đại biểu Quốc hội khoá X. Trên lĩnh vực thi ca, Hữu Thỉnh là một trong những tài năng nổi bật. Từ những biến chuyển trong cuộc đời, Hữu Thỉnh đã cho ra đời nhiều tập thơ được rất nhiều bạn đọc đón nhận. Các tác phẩm của ông chủ yếu được chia làm hai mảng lớn : mảng viết về chiến tranh và mảng thơ viết về cuộc sống hòa bình. Mảng thơ viết về đề tài chiến tranh được bắt đầu với tập thơ đầu tiên của ông gồm những bài thơ được sáng tác từ những năm 1968 đến 1982 với nhan đề Tiếng hát trong rừng. Đây là tập thơ viết về những năm tháng kháng chiến của ông tại Trường Sơn và đã đạt được nhiều giải thưởng lớn. Tiếng hát trong rừng chủ yếu ghi lại những cảm xúc của nhà thơ khi chiến đấu ở Trường Sơn. Đây là những bài thơ ngắn như chuẩn bị cho sự phát triển của thể loại trường ca sau này. Tiếp đó phải kể đến là giải Ba cuộc thi thơ của Báo Văn nghệ vào các năm 1972 – 1973 với bài thơ Mùa xuân đi đón, tiếp đó là giải A cuộc thi thơ 1975 – 1976 với các sáng tác Chuyến đò đêm giáp ranh và trường ca Sức bền của đất. Sức bền của đất cũng là tập trường ca đầu tiên mở đường cho Đường tới thành phố - trường ca thể hiện sự hoàn thiện, tài năng và sự trưởng thành trong nghệ thuật thơ ca của Hữu Thỉnh. Đây cũng là 10
- tác phẩm đạt giải thưởng Hội Nhà văn năm 1980. Cảm hứng chủ đạo của những tác phẩm này là cảm hứng về đất nước, nhân dân, về cuộc chiến đấu chống kẻ thù Mỹ ngụy. Sức bền của đất có thể coi là bước trung chuyển, bước đệm tạo đà trên con đường hoàn thiện phong cách thơ. Đó là bước chuyển từ những cảm xúc ngắn sang thể loại dài hơi và hoành tráng, bao quát một phạm vi rộng lớn đời sống và tâm hồn con người – trường ca Đường tới thành phố. Đây là cột mốc đánh dấu sự chín muồi trong ý thức về thể loại, tập trung đầy đủ, hoàn thiện nhất những đòi hỏi mà thể loại trường ca cần phải có của hồn thơ Hữu Thỉnh. Trường ca của ông là một bản tổng hợp của biết bao cảnh ngộ, những hi sinh chịu đựng và suy tư trăn trở của nhân dân vĩ đại. Tất cả mọi mảng, khối của hiện thực rộng lớn đó được liên kết với nhau gắn liền theo một mạch liên tưởng, suy nghĩ nhịp nhàng giữa các chương, các khúc, kéo theo đó là sự phát triển của các hình tượng. Tác giả như một người chỉ huy tài ba điều khiển một dàn nhạc giao hưởng thơ với nhiều giọng, nhiều bè mà vẫn mạch lạc, trôi chảy Mảng thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh thấm nhuần tính chất sử thi cao cả, thể hiện cái tôi sử thi của thơ ca cách mạng hiện đại. Mang đặc điểm của một hồn thơ hồn hậu, ham giãi bày, giàu suy tư, thơ viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giọng thơ chính luận và giọng trữ tình đằm thắm. Mảng thơ thứ hai đó là mảng thơ viết về cuộc sống trong thời bình. Ở giai đoạn trước năm 1980, tâm thức cộng đồng chiếm ưu thế, con người toàn tâm toàn ý vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, số phận cá nhân luôn đặt trong số phận của đất nước, cá nhân không có ý nghĩa độc lập tự thân mà có ý nghĩa trong sự hi sinh cống hiến cho dân tộc. Từ đầu năm 80 trở lại đây, những biến đổi to lớn trong đời sống xã hội đã đi đến sự đổi thay các chuẩn mực khi đánh giá về các giá trị của cuộc sống và cả văn học nghệ thuật. Sự thức tỉnh về ý 11
- thức cá nhân, sự quan tâm nhiều hơn đến con người trong tính cụ thể, cá biệt, với nhu cầu trong thời bình là bước chuyển tất yếu của xã hội. Con người được miêu tả trong tất cả tính đa dạng của nó đã tạo thành nét chính trong sự định hướng về giá trị văn học của công chúng hôm nay. Nói khác đi, tinh thần dân chủ và cảm hứng nhân bản là đặc điểm nổi bật của thời kỳ đổi mới. Sự thay đổi này dĩ nhiên sẽ dẫn đến những thay đổi về đề tài, chủ đề, nhân vật và thể loại, phương thức trần thuật và cách biểu hiện trữ tình. Sự nghiệp thơ ca của ông được tiếp tục gặt hái được thành công sau khi đất nước quay lại thời kì hòa bình với giải Nhất trong cuộc thi thơ viết về Nhà trường, thầy cô do Bộ ĐH&THCN cùng Trung ương Đoàn TNCSHCM tổ chức với bài thơ Thưa thầy. Năm 1995, tập thơ Thư mùa đông đã mang lại cho ông giải A của Hội Nhà văn Việt Nam và giải thơ ASEAN năm 1999. Một trường ca nữa lại tiếp tục ra đời và khẳng định chỗ đứng vững chắc của Hữu Thỉnh trong thể loại trường ca: Trường ca biển. Tập thơ này được viết vào giai đoạn cuối thời kì bao cấp và giai đoạn đầu của thời “mở cửa”, đổi mới và phát triển đất nước. Trường ca biển vẫn còn là tia hồi quang quá khứ vinh quang của người lính khi được tái hiện trong hành trình “đi tới biển”. Trường ca này được Bộ Quốc phòng tặng thưởng giải xuất sắc. Tuy nhiên, số phận cá nhân của người lính cách mạng trong tác phẩm này đã có sự khác biệt. Không giống như trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, giờ đây họ sống gian lao, vất vả và cuộc sống không hề thanh thản. Họ phải gồng mình lên để cố lấp đi cái khoảng trống trong tâm hồn, nỗi đắn đo giữa được và mất, cống hiến hay hưởng thụ. Điều này ta có thể gặp trong tác phẩm văn xuôi khá nổi tiếng : Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh). Và gần đây nhất, tập thơ Thương lượng với thời gian đã thể hiện một màu sắc khác trong các tác phẩm thơ của ông, đậm chất triết lý, suy tư, rung cảm với cuộc đời. Đây là tập thơ bao gồm 12
- 56 bài thơ đa số là ngắn – tập hợp những sáng tác trong khoảng 10 năm trở lại đây của nhà thơ. Một tập thơ với những gom nhặt của tác giả trong gần mười năm với những bài thơ mang tính thế sự, trong một hành trình đi “tìm người”. Và sự tìm kiếm đó là sự đan xen giữa thất vọng và hi vọng trước hiện thực cuộc sống, của xã hội ngập tràn tiêu cực và xô bồ đang đem lại. Tập thơ đã giành giải thưởng của Hội nhà văn năm 2006, cùng với tác phẩm Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Cảm hứng chính của mảng thơ viết về thời bình là cảm hứng đời tư thế sự mang theo cay đắng, niềm bâng khuâng trước sự thay đổi, nỗi cô đơn, trăn trở trước số phận con người mà chưa tìm thấy tri âm tri kỉ. Giọng điệu chủ đạo là buồn, mang sự suy tư, triết lý. Đây là các tập thơ được viết trong thời kì đất nước đang trên đà đổi mới. Sau chiến tranh, cả đất nước đang đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, cơ chế bao cấp kéo dài làm hạn chế nhiều mặt về kinh tế, chính trị, xã hội. Cũng bởi điều đó mà xuất hiện những luồng tư tưởng mới, cách suy nghĩ mới chưa hề có trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Những biến động trong đời sống chính trị (sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991) cùng những bức xúc chung quanh việc quản lý lãnh đạo xã hội và văn nghệ, sự mở cửa về mặt kinh tế cho phép người dân có những cách làm ăn mới, suy nghĩ mới làm thay đổi nhiều quan niệm về những giá trị cũ được hình thành trong suốt thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của văn nghệ sĩ. Các sáng tác của Hữu Thỉnh tương đối liền mạch và tiêu biểu cho quá trình vận động của thơ ca cách mạng Việt Nam trong khoảng 25 năm cuối thế kỉ XX. Nó cũng là hành trình của người chiến sĩ trên con đường đấu tranh chống ngoại xâm cho đến đấu tranh cho lẽ phải, cho đạo đức, những phẩm chất cao cả của thời đại. 13
- 1.2 Quan điểm nghệ thuật Sau chiến thắng vĩ đại của lịch sử, nền văn học Việt Nam vẫn tiếp nối mạch chảy của văn học dân tộc là miêu tả cuộc chiến tranh giành độc lập, tự do cũng như công cuộc xây dựng đất nước trong thời bình. Thơ trữ tình thời kì này có sự phát triển mạnh, phong phú và đa dạng với nhiều cung bậc, từ lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, ý chí dũng cảm chiến đấu hi sinh cho tới những vui buồn, trăn trở, lo toan trong cuộc sống hàng ngày, thể hiện tình yêu trong quan hệ của con người với cộng đồng, con người với con người. Nếu như trước đây trong những năm kháng chiến của dân tộc, các nhà văn, nhà thơ được coi là chiến sĩ trên mặt trận, dùng vũ khí là nghệ thuật để hoàn thảnh nhiệm vụ của mình thì sau những năm tháng hòa bình, quan niệm đó đã có phần thay đổi. “Văn học, nghệ thuật là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng của con người về chân, thiện, mĩ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa” [9,72]. Ở giai đoạn này, hiện thực đời sống lịch sử xã hội và tâm hồn tư tưởng con người được hiện lên một cách đầy đủ, nhiều mặt và phong phú hơn giai đoạn trước. Chiến tranh được phản ánh trong thơ không chỉ hùng tráng, ca ngợi những chiến công mang đầy tính sử thi mà nó còn nêu lên bao tổn thất, đau đớn, những bi kịch của cuộc đời. Thậm chí đến Tố Hữu, người vốn luôn gắn cuộc đời mình với cách mạng, với sự nhiệt huyết và tâm hồn của Đảng cũng có lúc viết lên những vần thơ đầy tâm trạng về nỗi cô đơn trong Một tiếng đờn buồn: “Mới bình minh đó đã hoàng hôn… Khuấy động lòng ta biết mấy buồn” và “Trái tim tự xát muối cô đơn”. Trong sự nghiệp của mình, Hữu Thỉnh không phải một nhà thơ có nhiều tuyên ngôn về nghệ thuật. Thế nhưng với vai trò vừa là một nhà thơ, vừa tham gia giảng dạy ở các trường viết văn, trường đại học, ông đã phần 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lý luận văn học: Không gian và thời gian nghệ thuật và trong thơ về bốn mùa của Xuân Diệu và Chế Lan Viên
134 p | 116 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Lí luận văn học: Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
114 p | 157 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Lí luận văn học: Sự thay đổi quan niệm về con người qua hình tượng người lính trong một số tiểu thuyết Việt Nam đầu thời kỳ đổi mới
117 p | 65 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Lí luận văn học: Thi pháp văn xuôi tự sự trong truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng
96 p | 57 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn: Xây dựng chương trình ngoại khóa văn học cho học sinh lớp 11 Trường THPT tỉnh Trà Vinh
148 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Lí luận văn học: Người kể chuyện trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà (Qua Cơ hội của Chúa và Khải huyền muộn)
103 p | 56 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Lí luận Văn học: Thế giới nghệ thuật thơ Thanh Hải
88 p | 49 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam
136 p | 8 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao chất lượng dịch vụ tại khu du lịch thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
147 p | 6 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lí hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh ở các trường trung học cơ sở thành phố Vĩnh Long tỉnh Vĩnh Long
121 p | 5 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Lí luận ngôn ngữ: Những hình thức thể hiện ý nghĩa
221 p | 20 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Mỹ thuật: Dạy học môn mĩ thuật theo định hướng phát triển năng lực của người học tại Trường trung học cơ sở Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội
81 p | 78 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Lí luận ngôn ngữ: Đặc điểm định danh và ngữ nghĩa của hai tổ hợp ghép chính phụ
117 p | 37 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu sự hài lòng của khách du lịch nội địa đối với chất lượng dịch vụ du lịch của Công ty TNHH Biển Ngọc
115 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Đo lường hình ảnh điểm đến du lịch Đà Nẵng đối với khách du lịch nội địa
111 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học môn Địa lý theo hướng phát triển năng lực học sinh ở các trường THPT thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam
123 p | 6 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lí đào tạo cử nhân luật kinh tế tại trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
167 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn