intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam - từ thực tiễn thành phố Hải Phòng

Chia sẻ: Mucong999 Mucong999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

30
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn có mục đích nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam - từ thực tiễn thành phố Hải Phòng và các địa bàn khác trong cả nước có điều kiện tương đồng với thành phố Hải Phòng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam - từ thực tiễn thành phố Hải Phòng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/……… ...…/…. HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM HOÀNG CHÍNH BẢO ĐẢM QUYỀN BẦU CỬ CỦA NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM - TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Hà Nội – 2019
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/……… ...…/…. HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM HOÀNG CHÍNH BẢO ĐẢM QUYỀN BẦU CỬ CỦA NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM - TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Hải Long Hà Nội – 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Tác giả luận văn Phạm Hoàng Chính
  4. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện luận văn tôi đã nhận được sự giúp đỡ của gia đình, đồng nghiệp, các bạn học tại khoa cùng các thầy, cô giáo tại Học viện hành chính Quốc Gia nói riêng và các thầy cô đã giảng dạy, giúp đỡ cung cấp cho tôi nhiều kiến thức, số liệu để hoàn thiện luận văn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình tới thầy giáo: Tiến sĩ Nguyễn Hải Long đã tận tình hướng dẫn khoa học, giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thiện Luận văn này. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Hoàng Chính
  5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Diễn giải 1 CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2 HĐND Hội đồng nhân dân 3 TAND Tòa án nhân dân 4 TW Trung ương 5 UBBC Ủy ban bầu cử 6 VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  6. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Danh mục chữ viết tắt Mục lục MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chƣơng 1: QUY ĐỊNH CHUNG VỀ QUYỀN BẦU CỬ CỦA NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM ............................................................................ 10 1.1. Khái niệm về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam ................. 10 1.2. Bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam ........................ 31 1.3. Ý nghĩa quy định quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam ........... 33 1.4. Quy định pháp luật của một số nước về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam ............................................................................................... 37 Tiểu kết Chƣơng 1 ...................................................................................... 42 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN BẦU CỬ CỦA NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ....................................................................................................... 43 2.1. Khái quát về công tác tạm giữ, tạm giam của thành phố Hải Phòng....... 43 2.2. Thực tiễn quá trình thực hiện bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại thành phố Hải Phòng......................................................... 47 2.3. Đánh giá chung về bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng ........................................................ 57 Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................... 72 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN BẦU CỬ CỦA NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM ............................................... 73 3.1. Quan điểm bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam ....... 73 3.2. Giải pháp bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam. ........ 77 Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................... 87 KẾT LUẬN ................................................................................................. 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 90
  7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Quyền cơ bản của con người, của công dân Việt Nam được hiểu là các lợi ích cụ thể mà pháp luật ghi nhận cho mọi người, cho công dân. Hiến pháp năm 2013 quy định các quyền cơ bản của con người, của công dân Việt Nam bao gồm các quyền về dân sự, chính trị, các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Như vậy, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 là một bước tiến vượt bậc trong việc bảo vệ các quyền con người và quyền công dân. Bên cạnh việc quy định về quyền công dân, quyền con người cũng được quy định một cách chi tiết và đầy đủ. Nếu trong Hiến pháp năm 1992 chương Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chỉ có 29 điều thì chương Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 2013 có 36 điều (tăng 7 điều so với Hiến pháp năm 1992). Hiến pháp năm 2013 đã dành 21 điều quy định về quyền con người, 15 điều quy định về quyền công dân. Tại khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [25]. Việc quy định cụ thể về quyền con người được thể hiện trên các bình diện: quyền bình đẳng trước pháp luật (Khoản 1 Điều 16), quyền không bị phân biệt đối xử (Khoản 2 Điều 16), quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 18), quyền sống, tính mạng được pháp luật bảo hộ (Điều 19); quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Khoản 1 Điều 20), quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín (Điều 21). Ngoài ra quyền con người trên các lĩnh vực khác được quy định tại các Điều 22, 24, 26, 30, 31, 32, 33, 35, 36, 37, 38, 40, 41, 43, 48, 49. Nhìn chung, quyền con người có phạm vi chủ thể rộng hơn quyền công dân. Trong khi quyền công dân Việt Nam chỉ dành cho người có quốc
  8. 2 tịch Việt Nam thì quyền con người có phạm vi chủ thể rộng hơn là công dân Việt Nam, công dân nước ngoài, người không có quốc tịch (bao gồm cả người nước ngoài và người Việt Nam). Quyền công dân Việt Nam được pháp luật Việt Nam điều chỉnh, trong khi đó quyền con người vừa được pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam điều chỉnh. Trong các quyền về dân sự, chính trị của công dân ghi nhận tiêu biểu phải kể đến đó là Quyền bầu cử và quyền ứng cử của công dân (Điều 27); Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân (Điều 28). Điều 27, “Công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc Hội, Hội đồng nhân dân”. Điều 28, công dân: “có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước” [25]. Các quy định trong Hiến pháp về quyền bầu cử và ứng cử của công dân được cụ thể trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015. Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã mở rộng nhiều quyền, chế độ cho người bị tạm giữ, tạm giam. Một trong những quyền, chế độ đáng chú ý, thể hiện tinh thần bảo hiến một cách rõ ràng là việc người bị tạm giữ, tạm giam “được thực hiện quyền bầu cử theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân theo quy định của Luật trưng cầu ý dân” (quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015) [25]. Quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam là một vấn đề hết sức quan trọng, điểm mới trong Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015. Là một cán bộ công chức công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân tại thành phố Hải Phòng, với mong muốn tìm hiểu và đánh giá thực tiễn Quyền bầu cử của
  9. 3 người bị tạm giữ, tạm giam, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp để bảo đảm hiệu quả của hoạt động này trong thời gian tới, do đó học viên chọn đề tài “Bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam - từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Vấn đề Quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng và những vấn đề liên quan đến quyền bầu cử đã được một số tác giả đề cập trong những công trình nghiên cứu của mình như: - Trần Thanh Hương (2006), “Ý chí nhân dân trong bầu cử và một vài ý kiến góp phần bảo đảm ý chí nhân dân trong bầu cử ở nước ta”, Khoa học pháp lý, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Khoa học pháp lý của tác giả đã nhấn mạnh bầu cử là phương thức được sử dụng quyền lực nhà nước thiết lập ra bởi nhân dân. Vì thế việc phản ánh trung thực ý chí của nhân dân là vấn đề cốt lõi của mọi cuộc bầu cử. Ý chí nhân dân là vấn đề quan trọng nhất của bầu cử bởi vì chỉ khi bầu cử mang ý chí nhân dân thì ý nghĩa dân chủ đích thực của nó mới đạt được. Bên cạnh đó tác giả chỉ ra việc bảo đảm ý chí nhân dân và góp phần hoàn thiện các nguyên tắc bầu cử ở nước ta, đồng thời đưa ra giải pháp để bầu cử thực sự dân chủ, bảo đảm ý chí nhân dân, cần hoàn thiện nhiều hơn nữa về mặt nội dung của pháp luật về bầu cử và phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề [12]. - Bài viết: “Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII- Những vấn đề từ thực tiễn” của Bùi Ngọc Thanh trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 7(103), tháng 7/2007. Tác giả với tư cách là Tổng thư ký Hội đồng bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII đã chỉ ra những tồn tại ở góc độ thực tiễn trong việc tổ chức thực hiện pháp luật bầu cử ở nước ta và đề xuất một số giải pháp khắc phục [35].
  10. 4 - Bài viết: “Một số suy nghĩ về đổi mới chế độ bầu cử bảo đảm quyền bầu cử và ứng cử của công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Thái Vĩnh Thắng đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2011. Bài viết đã phân tích thực trạng chế độ bầu cử ở Việt Nam với việc chỉ ra bất cập trong nhiều vấn đề như: việc thành lập Hội đồng bầu cử; đơn vị bầu cử; phương pháp xác định kết quả bầu cử; nguyên tắc bỏ phiếu tự do... Từ những bất cập đó, tác giả có đề xuất một số kiến nghị đổi mới chế độ bầu cử nhằm bảo đảm quyền bầu cử và ứng cử của công dân Việt Nam trong điều kiện xây dựng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền [37]. - Bài viết “Bầu cử ở Việt Nam – Những nội dung cần quan tâm” của Trần Quốc Sửu đăng trên trang Quản lý nhà nước của Học viện hành quốc gia. Bài viết đã cung cấp những cơ sở lý luận về bầu cử đồng thời có sự đánh giá thực tế việc thực hiện bầu cử ở Việt Nam hiện nay [31]. - “Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam” Chủ biên Nguyễn Ngọc Chí - Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014 trong đó với tinh thần đổi mới theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cũng như sự phát triển của khoa học pháp lý tố tụng hình sự những năm gần đây, nhất là vấn đề bảo vệ quyền con người trong Tố tụng hình sự. Các tác giả đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người và đưa vấn đề này vào từng chương và dành hẳn một chương đề cập đến những vấn đề có tính khái quát về quyền con người, bảo đảm quyền con người trong Tố tụng hình sự. Giáo trình có phạm vi rộng, phong phú, kết cấu hợp lý hơn các giáo trình trước đó [18]. - Lại Văn Trình (2011), “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam”, luận án Tiến sỹ chuyên ngành luật hình sự, Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh. Luận án đã nêu rõ thêm một số vấn đề lý luận về quyền con người và bảo đảm quyền con người
  11. 5 của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong Tố tụng hình sự; hệ thống hóa các biện pháp bảo đảm; làm rõ được các đặc điểm chung và những đòi hỏi đặc thù trong việc bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng khác nhau. Luận án đã phân tích tìm ra các hạn chế, bất cập trong vấn đề này và nguyên nhân tìm ra giải pháp kiến nghị, sửa đổi bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng tích cực hơn nhằm bảo vệ tốt hơn cho người bị tạm giữ, tạm giam [38]. - Trần Diệu Hương (2013), “Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã làm sáng tỏ những lý luận về chế độ bầu cử; cơ chế đại diện, phương thức bầu cử; phương thức tiến hành bầu cử… Đánh giá được thực trạng các quy định pháp luật, những bất cập, tồn tại và nguyên nhân từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục tồn tại và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bầu cử của Việt Nam [11]. Ngoài ra còn một số bài viết, cuốn sách của các học giả khác có đề cập đến vấn đề này. Các công trình nghiên cứu trên cho thấy, việc nghiên cứu về quyền của người bị tạm giữ, tạm giam ở Việt Nam trong những năm qua đã được quan tâm và đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam, đặc biệt là từ thực tiễn thành phố Hải Phòng. Trong xu thế toàn cầu hóa với các vấn đề về quyền con người trở thành điều toàn nhân loại đang hướng tới. Luận văn cung cấp một cái nhìn thực tế để vận dụng những quy định của pháp luật trong nước và quốc tế về bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam một cách hiệu quả và thiết thực, đồng thời đưa ra những giải pháp bảo đảm quyền bầu cử cho người bị tạm giữ, tạm giam. Những công trình nghiên cứu nêu trên đều có giá trị tham khảo đối với tác giả luận văn ở chừng mực đối với các nội dung có liên quan đến đề tài luận văn.
  12. 6 Tuy nhiên, điều quan trọng là đề tài “Bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam - từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” hiện nay chưa có công trình nào đề cập. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Luận văn có mục đích nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam - từ thực tiễn thành phố Hải Phòng và các địa bàn khác trong cả nước có điều kiện tương đồng với thành phố Hải Phòng. 3.2. Nhiệm vụ Để hoàn thành mục đích đặt ra luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa và tiếp tục làm sáng tỏ những khía cạnh lý luận về bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam. - Phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam - từ thực tiễn thành phố Hải Phòng. Trên cơ sở đó, xác định nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế trong bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam - từ thực tiễn thành phố Hải Phòng. - Xác định quan điểm và đề xuất giải pháp nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, đảm bảo quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam - từ thực tiễn thành phố Hải Phòng và các địa bàn khác trên cả nước có điều kiện tương đồng với thành phố Hải Phòng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về Quyền bầu cử và bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng. Đây là đề tài có đối tượng nghiên cứu khá rộng gồm các quy định của Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật thi hành tạm giữ tạm giam, Luật bầu
  13. 7 cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, một số vấn đề lý luận về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam… nhưng luận văn chỉ nghiên cứu về bảo đảm quyền bầu cử cho đối tượng là người bị tạm giữ, tạm giam tại thành phố Hải Phòng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại thành phố Hải Phòng. Phân tích các kết quả đạt được cũng như hạn chế gặp phải và các nguyên nhân qua đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại thành phố Hải Phòng. - Về không gian: Tại thành phố Hải Phòng - Về thời gian: Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu từ 2015 đến nay. Tác giả giới hạn từ mốc thời gian 2015 vì đây là thời điểm ban hành Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015. Từ 2015 đến nay là khoảng thời gian quy định cho phép người tạm giữ, tạm giam được thực hiện quyền chính trị của công dân đó là bầu cử vào ngày 22/5/2016, cũng là khoảng thời gian các quy định pháp luật được đi vào thực tiễn, quyền của người bị tạm giữ, tạm giam được bảo đảm. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn. 5.1. Phương pháp luận Luận văn được triển khai nghiên cứu dựa trên phương pháp luận triết học Mác - Lê Nin, bao gồm các quan điểm về lý luận nhận thức; dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền của công dân, chính sách, pháp luật của nhà nước về quyền công dân nói chung và quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam nói riêng. Bên cạnh đó, tác giả cũng tham khảo các quan điểm, kết quả nghiên cứu về quyền bầu
  14. 8 cử cho các đối tượng xã hội khác của các nhà nghiên cứu trong nước có liên quan đến các nội dung của luận văn. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích đã đề ra của luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử và logic; phương pháp thống kê, so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa… nhằm làm rõ vấn đề bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đề cập và phân tích những vấn đề có tầm quan trọng và mang tính cấp thiết nhưng chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng. Kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn đạt được của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về quyền bầu cử cho một nhóm đối tượng cụ thể trong xã hội. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn đã bổ sung thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện lý luận về bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam nói chung và bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại thành phố Hải Phòng nói riêng. Đây là tài liệu khoa học có giá trị để các cơ quan hữu quan của Nhà nước, các tỉnh, các huyện sử dụng phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành, triển khai thực hiện quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam tại địa phương mình. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn được kết cấu làm 3 chương:
  15. 9 Chương 1: Quy định chung về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam. Chương 2: Thực tiễn tại thành phố Hải Phòng về bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam. Chương 3: Một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền bầu cử của người bị tạm giữ, tạm giam.
  16. 10 Chƣơng 1 QUY ĐỊNH CHUNG VỀ QUYỀN BẦU CỬ CỦA NGƢỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM 1.1. Khái niệm về quyền bầu cử của ngƣời bị tạm giữ, tạm giam Người bị tạm giữ, tạm giam là những người bị hạn chế, tước bỏ quyền tự do trong một khoảng thời gian nhất định trên cơ sở và trong khuôn khổ của pháp luật quốc tế hoặc quốc gia. Mặc dù bị áp dụng biện pháp cưỡng chế hình sự nhưng những người này vẫn được tôn trọng và bảo đảm quyền con người theo quy định của pháp luật. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 tại Điều 9 đã ghi nhận: “Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện” [10]. Giải thích và cụ thể hóa nguyên tắc này, Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị quy định: “Mọi người có quyền tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt buộc và bị giam giữ vô cớ. Không ai tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng thủ tục pháp luật quy định”. Như vậy, theo quy định của Bộ luật nhân quyền quốc tế thì “Mọi người có quyền tự do và an toàn cá nhân”, họ không bắt giữ, bỏ tù một cách tùy tiện, mà không theo quy định của pháp luật. Trong pháp luật quốc tế, người bị tạm giữ, tạm giam hay người chấp hành hình phạt tù thường được gọi chung với một khái niệm chỉ người bị bắt, người bị giam, giữ. Ở nước ta, đối với người bị tạm giữ, tạm giam thì Quy chế về tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 1998 của Chính phủ định nghĩa về người bị tạm giữ, tạm giam như sau: Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang và đối với họ đã có lệnh tạm giữ.
  17. 11 Người bị tạm giam là bị can, bị cáo, người bị kết án tù hoặc tử hình bị bắt để tạm giam và đối với họ đã có lệnh tạm giam (Điều 2) [8]. Ngoài ra người bị bắt theo lệnh truy nã, người phạm tội đầu thú, tự thú khi bị bắt và có lệnh tạm giữ thì cũng được gọi là người bị tạm giữ. Theo pháp luật Việt Nam thì tạm giữ là một hoạt động tố tụng hình sự liên quan trực tiếp đến lợi ích của công dân, quyền tự do thân thể, đây là chế tài hạn chế một số quyền cơ bản của con người nên cần rất thận trọng trong khi thực hiện biện pháp ngăn chặn này. Khoản 1 Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã” [27]. Để tránh việc lạm dụng bắt người trái pháp luật hay không có căn cứ cũng như bảo đảm tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm và những quyền khác của công dân chưa bị pháp luật tước bỏ Bộ luật Tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ và nghiêm ngặt đối với những trường hợp bị tạm giữ. Việc tạm giữ chỉ là biện pháp ngăn chặn thật cần thiết để ngăn chặn tội phạm xảy ra cũng như bảo đảm cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được đúng pháp luật, tránh oan, sai hay bỏ lọt tội phạm. Thẩm quyền tạm giữ theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự gồm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi
  18. 12 cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Những trường hợp bị tạm giữ bao gồm: giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã [27]. Người bị tạm giữ hình sự là người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn ngay tức khắc trong thời gian ngắn (tối đa 09 ngày) được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành do nghi ngờ người đó thực hiện tội phạm (chưa khởi tố) hoặc đã bị khởi tố mà đang bỏ trốn (truy nã) nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật hình sự, bảo đảm cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Tóm lại, người bị tạm giữ là người bị hạn chế quyền tự do trong một khoảng thời gian nhất định do bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị giữ khẩn cấp, truy nã, đầu thú hoặc tự thú… Một người chỉ bị tạm giam sau khi đã bị khởi tố về mặt hình sự mà cụ thể là khởi tố bị can của Cơ quan điều tra và được Viện kiểm sát phê chuẩn, có hiệu lực pháp luật. Biện pháp tạm giam thường được áp dụng rất hạn chế vì đây là một trong những biện pháp liên quan tới tự do thân thể của con người trong thời gian dài. Theo quy định của Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự thì thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau: Đối với tội phạm ít
  19. 13 nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng; Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng; Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng; Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng [27]. Ngoài ra còn phải kể đến thời gian tạm giam để truy tố, tạm giam để chờ xét xử, tạm giam trong khi chờ bản án có hiệu lực và đưa đi chấp hành án. Cơ quan có thẩm quyền còn có thể áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp sau đây: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, Đối với tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà hình phạt tù trên 02 năm khi đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vẫn vi phạm; Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; Tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; Đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Đối với tội ít nghiêm trọng mà hình phạt tù đến 02 năm nếu tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp: Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; Tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người
  20. 14 này. Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia (Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự) [27]. Như vậy, người bị tạm giam là người đã bị khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn cách ly khỏi xã hội trong thời gian dài, được quy định trong bộ luật Tố tụng hình sự do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật hình sự, bảo đảm cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Từ phân tích trên có thể phân biệt tạm giữ, tạm giam như sau: Bảng 1.1. Phân biệt tạm giữ và tạm giam Tiêu chí Tạm giữ Tạm giam Khái niệm Là biện pháp ngăn chặn Là một biện pháp ngăn trong tố tụng hình sự và chặn trong tố tụng hình biện pháp ngăn chặn, sự bảo đảm xử lý vi phạm hành chính Đối tượng Những người bị giữ Những người bị tạm áp dụng trong trường hợp khẩn giam thường là bị can, cấp, người bị bắt trong bị cáo về tội đặc biệt trường hợp phạm tội quả nghiêm trọng, tội rất tang, người phạm tội tự nghiêm trọng hoặc thú, đầu thú hoặc đối với phạm tội ít nghiêm người bị bắt theo quyết trọng tuy nhiên nhân định truy nã. (Điều 117 thân không tốt, đã có Bộ luật Tố tụng hình sự) tiền án tiền sự hoặc có dấu hiệu bỏ trốn. (Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2