intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông

Chia sẻ: Hinh Duyệt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

84
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận về cưỡng chế THADS, nội dung của chế định cưỡng chế THADS; nhận diện được những hạn chế, bất cập của chế định này và các tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện chúng. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập, vướng mắc, tồn tại đã nhận diện, góp phần giải quyết các khó khăn, vướng mắc đặt ra trong công tác THADS trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ ÁNH DƯƠNG CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG NÔ TỈNH ĐẮK NÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐẮK LẮK - NĂM 2017
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ ÁNH DƯƠNG CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG NÔ TỈNH ĐẮK NÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN QUANG THÁI ĐẮK LẮK – NĂM 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản Luận văn này do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Quang Thái. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn là trung thực và chưa hề được công bố hoặc sử dụng để bảo vệ một học hàm nào. Các thông tin trích dẫn trong Luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Đắk Lắk, tháng 3 năm 2017 Học viên Lê Ánh Dương
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ………………………………………………………………... 01 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ……………………………………………………………………..… 09 1.1. Khái niệm, đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự …....….……… 09 1.2. Các yếu tố tác động đến cưỡng chế thi hành án dân sự ………………... 16 1.3. Nội dung các quy định pháp luật hiện hành về cưỡng chế thi hành án dân sự ……………………………………………………………………... 23 Chương 2: THỰC TRẠNG CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG ………….. 52 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô ……………..……………….……………………………. 52 2.2. Thực trạng cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô 55 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG ………………………………………………… 72 3.1. Phương hướng bảo đảm cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô ……………………………..…. ……….………………. 72 3.2. Giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả công tác cưỡng chế thi hành án dân sự huyện Krông Nô ………………………………..…………. 75 KẾT LUẬN ………………………………………………………………. 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………... 92
  5. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận văn Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, duy trì ổn định, trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhằm hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực thi hành án dân sự, ngày 14/11/2008, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam khóa XII đã thông qua Luật thi hành án dân sự (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2009). Đây là văn bản quan trọng, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện tốt hơn vai trò, nhiệm vụ của mình trong hoạt động tư pháp nói chung và quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án nói riêng. Trên cơ sở các quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Tổng cục Thi hành án dân sự đã tham mưu cho Bộ Tư pháp ban hành và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự, từ Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư, Thông tư liên tịch đến các văn bản quy phạm pháp luật trong nội bộ Ngành, cơ quan Thi hành án dân sự. Sau 05 năm thi hành, Luật Thi hành án dân sự đã phát huy được hiệu quả trong thực tế cuộc sống, tuy nhiên bên cạnh đó cũng đã bộc lộ một số vướng mắc, hạn chế, bất cập, thậm chí yếu kém cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Ngày 25/11/2014, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015. Để có hướng dẫn kịp thời trong việc thực hiện các điều luật được sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung, ngày 18/7/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ - CP quy định chi tiết và 1
  6. hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự. Theo đó, một số quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung nhằm tạo thuận lợi cho người dân trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; tạo thuận lợi cho cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao; đồng thời bảo đảm nguyên tắc người phải thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, để đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống và thực thi ở từng địa bàn cụ thể đòi hỏi phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, có giải pháp phù hợp. Đối với huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông là địa bàn huyện miền núi với nhiều đặc thù. Thời gian qua công tác THADS nói chung và việc cưỡng chế THADS trên địa bàn huyện nói riêng đã thu được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, so với yêu cầu thì công tác này vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, vấn đề cưỡng chế THADS của người phải thi hành án phải được nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời bảo đảm quyền lợi hợp pháp của đương sự. Trước tình hình đó, tác giả lựa chọn đề tài "Cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Đây là một vấn đề cấp thiết có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với lĩnh vực thi hành án dân sự. Việc nghiên cứu kỹ biện pháp cưỡng chế giúp đem lại quyền và lợi ích thực tế cho cá nhân, tổ chức, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa công bằng, văn minh. 2. Tình hình nghiên cứu Thi hành án dân sự là một lĩnh vực khó khăn, phức tạp và rất nhạy cảm. Trong những năm gần đây thi hành án dân sự được Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm, cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này, cụ thể: 2
  7. - Đề tài cấp Nhà nước “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mớí” do TS.Nguyễn Đình Lộc làm chủ nhiệm được xem là công trình nghiên cứu lớn có liên quan đến thi hành án nói chung và THADS nói riêng. Đề tài này tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu để đưa ra các luận giải khoa học nhằm đổi mới công tác quản lý thi hành án (kể cả dân sự và hình sự) theo hướng gọn đầu mối đã được đề ra trong các nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam và định hướng cải cách tư pháp ở nước ta. Hơn nữa việc nghiên cứu của đề tài được thực hiện trong bối cảnh Bộ Chính trị chưa ban hành Nghị quyết số 49 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. - Đề tài cấp Nhà nước KX 04-06 về "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân" do TS. Uông Chu Lưu làm chủ nhiệm. Đề tài đi sâu vào nghiên cứu các yêu cầu của cải cách tư pháp, hệ thống các thủ tục tư pháp như điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nhưng với mục tiêu chung nhất là để nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. - "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Quang Thái đã nghiên cứu về THADS dưới góc độ pháp chế XHCN. - "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thanh Thủy. Đây là đề tài nghiên cứu khá sâu về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật THADS. - "Hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam" của Đặng Đình Quyền. Đây là đề tài nghiên cứu về THADS dưới góc độ lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật. 3
  8. Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành của các chuyên gia, các nhà nghiên cứu khoa học như: "Pháp lệnh thi hành án sự năm 2004 với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án" của tác giả Nguyễn Thanh Thuỷ, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề về nghiệp vụ THADS năm 2005; "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự" của tác giả Trần Phương Thảo, Tạp chí Luật học số 7/2007; "Một số kiến nghị từ thực tiễn hoạt động kiểm sát THADS ở xã, phường, thị trấn" của tác giả Nguyễn Ngọc Kiên, Tạp chí Kiểm sát số 19/2006; "Hòa giải - biện pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS" của tác giả Phạm Quốc Toản, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 7/2006; "THADS phải là công việc, nhiệm vụ của cấp uỷ, chính quyền đoàn thể nhân dân" của tác giả Trương Vĩnh Trọng, Tạp chí Dân chủ và PL 8/2005; "Biện pháp tự nguyện trong Thi hành án dân sự", của tác giả Phạm Quang Dũng, Tạp chí Dân chủ và PL số 4/2005; "Vai trò của công tác hòa giải trong THADS", của tác giả Đỗ Xuân Lợi, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 01/2005; "Tổ chức và hoạt động THADS trong cải cách tư pháp" của PGS.TS. Nguyễn Văn Luyện; “Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả việc bán đấu giá tài sản thi hành án” của đồng tác giả Ths. Lê Anh Tuấn và Ths. Nguyễn Thị Nhàn, Tạp chí Dân chủ và PL số chuyên đề tháng 3/2016; ... Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng dự thảo Bộ luật Thi hành án nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, trên các diễn đàn nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết bình luận, đánh giá về lĩnh vực thi hành án nói chung, THADS nói riêng. Đây là những công trình nghiên cứu có tác động tích cực liên quan đến hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, nhất là THADS ở Việt Nam. 4
  9. Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng dự thảo Bộ luật Thi hành án nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, trên các diễn đàn nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết bình luận, đánh giá về lĩnh vực thi hành án nói chung, THADS nói riêng. Đây là những công trình nghiên cứu có tác động tích cực liên quan đến hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án, nhất là THADS ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận về cưỡng chế THADS, nội dung của chế định cưỡng chế THADS; nhận diện được những hạn chế, bất cập của chế định này và các tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện chúng. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập, vướng mắc, tồn tại đã nhận diện, góp phần giải quyết các khó khăn, vướng mắc đặt ra trong công tác THADS trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu như vậy, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên những khía cạnh sau: + Nghiên cứu những vấn đề lý luận về cưỡng chế THADS như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của cưỡng chế THADS. + Phân tích, đánh giá những quy định của Luật THADS về cưỡng chế THADS. + Khảo sát tình hình thực hiện cưỡng chế THADS tại huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông hiện nay. 5
  10. + Tìm ra được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cưỡng chế THADS trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về cưỡng chế THADS, là các quy định của pháp luật về cưỡng chế THADS và thực trạng thực hiện cưỡng chế trong hoạt động THADS trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều quy định về biện pháp cưỡng chế cụ thể. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này, nhưng đa phần các tác giả chỉ nghiên cứu chuyên sâu về một biện pháp nhất định. Do đó, trong phạm vi giới hạn của một luận văn thạc sĩ, việc nghiên cứu được trình bày tổng quát 06 biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung đề tài như khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của cưỡng chế THADS; cơ sở của việc pháp luật quy định cưỡng chế THADS; nội dung các quy định của luật thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật THADS) về cưỡng chế THADS và thực tiễn thực hiện chúng tại huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông trong những năm qua. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. - Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp nghiên cứu lý thuyết; + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; 6
  11. + Phương pháp thống kê; + Phương pháp phân tích, tổng hợp; + Phương pháp so sánh; + Phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống hóa các vấn đề lý luận về THADS; Làm rõ được đặc điểm, ý nghĩa, nội dung của cưỡng chế THADS và cơ sở của việc quy định biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự (BPCC THADS). - Ý nghĩa thực tiễn - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của Luật THADS về cưỡng chế THADS và thực tiễn thực hiện. - Đề xuất được những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện những quy định của pháp luật về cưỡng chế THADS. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác thi hành án dân sự tại địa phương trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 03 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về cưỡng chế thi hành án dân sự. Chương 2: Thực trạng về cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông. Chương 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông. 7
  12. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự ở cấp huyện - Để làm rõ khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự ở cấp huyện, cần làm rõ khái niệm thi hành án dân sự. Theo Đại từ điển tiếng Việt, thì thi hành được hiểu là: “Thực hiện điều chính thức đã quyết định” [48, tr.1559]. Như vậy, thi hành án chính là việc thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền. Thi hành án ở Việt Nam hiện nay gồm có: Thi hành án hình sự và thi hành án dân sự, thi hành án hành chính. Thi hành án dân sự là việc thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại. Tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014(Luật THADS) quy định những bản án, quyết định được thi hành theo Luật này bao gồm: 1. Bản án, quyết định quy định tại điều 1 của Luật này đã có hiệu lực pháp luật: a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; b) Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; 8
  13. d) Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau ba mươi ngày, kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Tòa án; e) Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; g) Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản. 2. Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: a) Bản án, quyết định cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc; b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời [41, tr.1]. Như vậy: Cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện có nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 16 Luật THADS [41, tr.9] như sau: Thứ nhất: Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định: (i) Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện nơi cơ quan thi hành án dân sự có trụ sở; (ii) Bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án cấp tỉnh đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện nơi cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có trụ sở; (iii) Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án cấp tỉnh đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện nơi cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có trụ sở; (iv)) Bản án, quyết định do cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện nơi khác, cơ quan thi hành án thi hành án dân sự cấp tỉnh hoặc cơ quan thi hành án cấp quan khu ủy thác. 9
  14. Thứ hai: Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định của Luật này. Thứ ba: Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt động được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. Thứ tư: Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. Thứ năm: Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự. Thứ sáu: Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 174 của Luật này. Thứ bảy: Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân khi có yêu cầu. Như vậy, thi hành án dân sự không chỉ do một mình cơ quan thi hành án dân sự tiến hành mà còn tiến hành bởi các cá nhân, tổ chức được nhà nước cho phép thực hiện theo trình tự thủ tục pháp luật quy định. Đến nay sau một thời gian thực hiện, theo Nghị quyết số 37/2015/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội về việc thực hiện chính thức chế định Thừa phát lại. Từ đó có thể rút ra khái niệm thi hành án dân sự như sau: “Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan thi hành án dân sự, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để thực hiện bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức”. - Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự cấp huyện: Trước hết cần xác định, cưỡng chế là gì? Liên quan đến vấn đề này, qua nghiên cứu cho thấy, cưỡng chế là biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ 10
  15. chức phải thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định đã có hiệu lực của một cá nhân, tổ chức có thẩm quyền. Từ cách hiểu trên, trong THADS Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật có được thi hành nghiêm chỉnh, dứt điểm hay không; kỷ cương pháp luật có được tôn trọng; lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể, của các tổ chức xã hội và mọi công dân có được bảo đảm hay không phụ thuộc nhiều vào kết quả của việc thi hành án. Với tính chất dân sự của mình, thi hành án dân sự là quá trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự (chủ yếu là các quyền, nghĩa vụ về tài sản) của các bên đã được bản án, quyết định của Tòa án ghi nhận. Trong thi hành án dân sự, các bên đương sự có quyền tự định đoạt, thoả thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án. Tự nguyện thi hành án đã trở thành như một nguyên tắc, biện pháp quan trọng trong hoạt động thi hành án dân sự. Thuyết phục để các bên tự nguyện thi hành án là nhiệm vụ của Chấp hành viên, của cơ quan thi hành án trong quá trình tổ chức thi hành án. Thuyết phục trong thi hành án dân sự bắt nguồn từ việc các bên đương sự có quyền tự nguyện thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự đã được bản án, quyết định ghi nhận, thể hiện ý chí của các bên đương sự nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Tuy vậy, khi người phải thi hành án đã được giải thích, thuyết phục, mặc dù có điều kiện thi hành án mà tìm mọi cách trì hoãn, trốn tránh để không tự nguyện thi hành, thì buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế thi hành. Cưỡng chế thi hành án thể hiện quyền năng của cơ quan thi hành án, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, nhằm đảm bảo bản án được thi hành nghiêm chỉnh, đúng pháp luật. 11
  16. Theo quy định, sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án do Chấp hành viên ấn định, nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không thi hành án, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án, thì Chấp hành viên có quyền áp dụng kịp thời các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Như vậy, “Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan thi hành án do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền quy định của pháp luật, nhằm buộc đương sự (người phải thi hành án), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn do Chấp hành viên ấn định, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, huỷ hoại tài sản”. 1.1.2. Đặc điểm cưỡng chế thi hành án dân sự Cưỡng chế thi hành án là biện pháp nghiêm khắc nhất mà CHV cơ quan thi hành án áp dụng khi thực thi các bản án, quyết định. Do đó, cưỡng chế thi hành án dân sự có đặc điểm: Thứ nhất, quyền cưỡng chế THADS chỉ do Nhà nước tổ chức thực hiện. Đặc trưng này xuất phát từ tính chất, mức độ phức tạp của hoạt động THADS. Hơn nữa đặc trưng này cũng xuất phát từ chức năng của Nhà nước đó là duy trì và bảo đảm trật tự xã hội. Thực tiễn cho thấy, trong quan hệ pháp luật THADS, một bên đương sự là người có quyền lợi, còn bên kia có nghĩa vụ. Về nguyên tắc bên có nghĩa vụ phải tự giác thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn các nghĩa vụ của mình cho bên có quyền lợi. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không tự thực hiện nghĩa vụ thì bên có quyền sẽ sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ. Quyền cơ bản mà người được thi hành án có thể sử dụng ở đây đó chính là quyền 12
  17. nộp đơn yêu cầu THADS. "Theo yêu cầu của bên có quyền lợi, nhà nước phát động quyền cưỡng chế thi hành và việc thực hiện quyền lợi của bên có quyền sẽ tất yếu làm tổn hại đến vùng lợi ích của bên có nghĩa vụ”.... Đặc trưng này thể hiện, pháp luật không cho phép người được thi hành án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan, tự dùng sức mạnh bạo lực để buộc bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ cho mình. Thứ hai, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của Tòa án. Chấp hành viên là công chức, được Nhà nước giao trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành. Việc pháp luật quy định cụ thể như vậy vừa để tránh tình trạng các đối tượng khác lạm dụng việc thi hành án để làm ẩu hoặc gây áp lực đối với người phải thi hành án, mặt khác tăng cường tính trách nhiệm cá nhân của CHV khi tổ chức hoạt động này. Là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành án các bản án, quyết định dân sự của Tòa án, khi thực hiện nhiệm vụ CHV chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. CHV khi tiến hành hoạt động thi hành án chỉ được thực hiện những gì pháp luật cho phép và phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thi hành án. Thứ ba, đối tượng của cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc hành vi của người phải thi hành án. Mục đích chính của hoạt động THADS đó là bảo vệ quyền lợi. Và như vậy, khi bảo vệ quyền lợi của bên được thi hành án tất yếu sẽ tác động đến quyền lợi của bên phải thi hành án. Trong số những quyền mà bên phải thi hành án buộc phải thực hiện hoặc chuyển giao cho bên được thi hành án chủ 13
  18. yếu liên quan đến tài sản, kể cả nhà và đất liên quan trực tiếp đến "quyền có nơi ở thích đáng là một quyền cơ bản của con người…mọi người cần phải được pháp luật (PL) bảo vệ trước hoạt động cưỡng đoạt nhà ở và đất đai của họ".... Theo TS. Đinh Trung Tụng thì: Cần phải nhấn mạnh rằng, thi hành án là một vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, đến trật tự, kỷ cương PL và ảnh hưởng sâu sắc đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, hay nói rộng hơn là quyền dân sự cơ bản của con người, như quyền về tài sản, quyền được lao động, quyền tự do, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm.... [26] Do vậy, khi cưỡng chế thì sẽ tác động đến quyền tài sản hoặc các hành vi khác của con người. Thứ tư, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, người bị áp dụng ngoài việc phải thực hiện các nghĩa vụ trong bản án, quyết định do tòa án tuyên, họ còn phải chịu mọi chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự. Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp Luật thi hành án dân sự [41, tr.3]. Trong trường hợp này, đương nhiên được hiểu người phải thi hành án chống lại bản án, quyết định nhân danh Nhà nước nên mọi chi phí liên quan đến việc tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự thì người bị cưỡng chế phải chịu mọi chi phí do hành vi chống đối của mình gây ra. Thứ năm, các biện pháp cưỡng chế được chấp hành viên quyết định áp dụng không những có hiệu lực đối với người phải thi hành án dân sự mà còn có hiệu lực đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan. 14
  19. Bản án, quyết định của Toà án nhân danh Nhà nước không chỉ có hiệu lực pháp lý đối với người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đối với cơ quan THADS mà đối với tất cả các cơ quan tổ chức và mọi cá nhân. Vì vậy, trách nhiệm tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án là trách nhiệm của tất cả mọi người trong xã hội. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của Hiến pháp và Điều 19 Bộ luật tố tụng dân sự nước cộng hòa XHCN Việt Nam đó là: ”1 Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. 2 Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tòa án và cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó.3 Tòa án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thông báo tiến độ, kết quả thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Cơ quan thi hành án trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án có trách nhiệm trả lời cho Tòa án [42, tr.6]. Điều này cũng loại bỏ tư tưởng coi việc thi hành án bản án, quyết định của Toà án là trách nhiệm của cơ quan thi hành án và khoán trắng cho cơ quan này thực hiện. 1.2. Các yếu tố tác động đến cưỡng chế thi hành án dân sự Theo từ điển tiếng Việt thì: Bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết 48, tr.38]. Như vậy, các yếu tố bảo đảm cưỡng chế THADS là những yếu tố, những điều kiện cần thiết để pháp chế trong hoạt động này chắc chắn thực hiện được. Có thể kế đến các yếu tố sau: 15
  20. 1.2.1. Yếu tố pháp lý Thứ nhất: Phải có một hệ thống pháp luật "cần" và "đủ" để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong cưỡng chế THADS: Theo yêu cầu này thì các văn bản quy phạm pháp luật phải được ban hành đồng bộ, tất cả các quan hệ phát sinh trong hoạt động cưỡng chế THADS và Nhà nước phải kiểm soát được, qua đó có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên có liên quan, đồng thời không làm ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và yêu cầu quản lý xã hội của Nhà nước. Thứ hai: Bản án, quyết định dân sự phải thật sự rõ ràng, có tính khả thi: Bản án, quyết định dân sự là cơ sở pháp lý để ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan. Vì vậy, để các bản án, quyết định dân sự có thể thi hành trên thực tế thì trước hết bản án, quyết định dân sự đó phải cụ thể về nội dung. Quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong bản án, quyết định dân sự phải có khả năng thực thi trên thực tế. Ngoài ra, để tránh hiểu sai, hiểu không đúng thì lời văn của bản án, phải rõ ràng, dễ hiểu và chỉ hiểu theo một nghĩa. Bản án, quyết định dân sự phải đảm bảo tính chung thẩm cao. Có như vậy mới hạn chế được tình trạng bản án, quyết định dân sự có hiệu lực PL được đưa ra thi hành nhưng sau đó lại được tạm hoãn, kháng nghị, huỷ hoặc cải sửa làm ảnh hưởng tới quá trình thực thi bản án của các cơ quan thi hành án. 1.2.2. Yếu tố chính trị Thứ nhất: Cần phải có một hệ thống cơ quan THADS đủ mạnh để đảm bảo cưỡng chế trong hoạt động THADS. Theo TS. Uông Chu Lưu thì: “Tính chất hành chính - tư pháp của hoạt động thi hành án không loại cơ quan thi hành án khỏi phạm vi các cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Theo cách tiếp cận chức năng - hệ thống của nhóm nghiên cứu, cơ quan thực hiện quyền tư pháp được hiểu là cơ quan nhà nước chuyên trách thực hiện chức năng bảo vệ PL, không phụ 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0