intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành chính: Quyền kháng cáo của bị cáo – Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

9
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn "Quyền kháng cáo của bị cáo – Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk" nhằm làm sáng tỏ lý luận và nội dung cơ bản về quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, làm sáng tỏ những thiếu sót bất cập của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 về quyền kháng cáo của bị cáo, việc áp dụng các quy định pháp luật tố tụng hình sự về quyền kháng cáo trong thực tiễn xét xử sơ thẩm hình sự tại TAND huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk cũng như xác định một số vi phạm, sai lầm và nguyên nhân của nó.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành chính: Quyền kháng cáo của bị cáo – Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ……/…… …/… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ THÙY DUNG QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO - TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐẮK LẮK - NĂM 2023
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ……/…… …/… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ THÙY DUNG QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO - TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH MÃ SỐ: 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐOÀN THỊ TỐ UYÊN ĐĂK LĂK - NĂM 2023
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của trường Học viện hành chính quốc gia. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị trường Học viện hành chính quốc gia xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thùy Dung i
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn .......................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài. ......................................................... 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ................................................ 5 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 5 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .......................................................... 6 7. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 6 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO ................................................................................................................ 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kháng cáo ...................................... 7 1.2. Chủ thể có quyền kháng cáo và chủ thể có trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo......................................................................................... 20 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển quyền kháng cáo của bị cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự .......................................................................................... 26 2.1. Quy định của pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo. .............................. 32 Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK. ................................................................ 54 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo tại Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, Tỉnh Đắk Lắk. ..................... 54 3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ..................................................... 64 3.3. Giải pháp bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo .......................................... 69 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 82 ii
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BLHS: Bộ luật hình sự BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự NQ: Nghị quyết XHCN: Xã hội chủ nghĩa CQĐT: Cơ quan điều tra ĐTV: Điều tra viên GCNNBC: Giấy chứng nhận người bào chữa KSV: Kiểm sát viên LS: Luật sư NBC: Người bào chữa PLTTHS: Pháp luật tố tụng hình sự TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TTHS: Tố tụng hình sự THTT: Tiến hành tố tụng VAHS: Vụ án hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN: Xã hội chủ nghĩa iii
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là thành quả của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là một trong những giá trị quý báu nhất của nền văn minh trong thời đại ngày nay. Ghi nhận và bảo vệ quyền con người trên thực tế là thể hiện của một Nhà nước nhân dân, tiến bộ, dân chủ, văn minh. Các quyền con người trở thành đối tượng bảo vệ trong việc ghi nhận về pháp lý, trong hoạt động thi hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật của Nhà nước. Quyền kháng cáo là một quyền cơ bản của người tham gia tố tụng, đây là cách thức để người tham gia tố tụng có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình trước những phán quyết không hợp pháp, không có căn cứ của Tòa án cấp sơ thẩm. Bảo vệ và nâng cao quyền kháng cáo cũng góp phần bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự. Quyền kháng cáo được ghi nhận từ lâu và không ngừng được hoàn thiện, mở rộng nhằm đảm bảo quyền con người của người tham gia tố tụng, về cơ bản các quy định về quyền kháng cáo trong pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành đã đáp ứng được yêu cầu của việc thực hiện quyền này trên thực tế, đảm bảo được ý nghĩa thực sự của nó. Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự hiện nay, nhiều quy định về quyền kháng cáo đã dần bộc lộ một số vướng mắc, hạn chế cũng như những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người tham gia tố tụng mà đặc biệt là đối với bị cáo. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về quyền kháng cáo cũng như đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền kháng cáo đối với bị cáo là 1
  7. một nhu cầu tất yếu khách quan trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được xây dựng với nhiều thay đổi quan trọng, trong đó quyền kháng cáo của bị cáo được nâng cao hơn. Cùng với việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã được thể hiện trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị và công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền đang được đẩy mạnh, việc nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành các quy định về quyền kháng cáo, từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả thực hiện quyền này là hết sức quan trọng, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện tốt công tác xét xử các vụ án hình sự, hầu hết việc áp dụng các quy định về quyền kháng cáo là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, do cách nhận thức pháp luật không thống nhất dẫn đến thực tiễn áp dụng các quy định về quyền kháng cáo còn có sự khác nhau. Do đó, cần nghiên cứu quyền kháng cáo của bị cáo cả về lý luận và thực tiễn từ thực tiễn tại địa bàn huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk là cần thiết, góp phần giải quyết những hạn chế, tồn tại, để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện thêm quyền kháng cáo nói riêng và góp phần vào việc xây dựng hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam ngày càng hoàn thiện nói chung. Những lí do trên đây lập luận cho việc học viên lựa chọn đề tài “Quyền kháng cáo của bị cáo – Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk’’ để làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Kháng cáo là một chế định quan trọng trong tố tụng hình sự, cho đến nay, 2
  8. quyền kháng cáo của bị cáo đã được tập trung nghiên cứu trong nhiều bài viết, công trình là sách chuyên khảo, giáo trình, luận văn, luận án tiến sĩ luật học như: Kháng cáo là một chế định quan trọng trong Tố tụng hình sự, do đó về vấn đề này có khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và nghiên cứu như: Luận văn thạc sỹ Luật học “Quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Võ Ngọc Triều (2014) năm 2014, trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Luận văn thạc sỹ Luật học “Quyền kháng cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam” (2015) của tác giả Lê Thị Thùy Dương, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Tạp chí khoa học:“Quyền kháng cáo và phạm vi quyền kháng cáo của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Hồng Ca; Tạp chí khoa học“Bàn về quyền kháng cáo, kháng nghị và xét xử phúc thẩm theo hướng tăng nặng đối với bị cáo” của tác giả Nguyễn Văn Trượng; “Một số ý kiến về bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hình sự” của tác giả Ngô Thanh Xuyên; “Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Huyên; “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng” của PGS. TS Trần Văn Độ. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều đề cập đến quyền kháng cáo. Tuy nhiên các công trình hoặc nghiên cứu quyền kháng cáo của bị cáo và của những người tham gia tố tụng khác trong Tố tụng hình sự Việt Nam, hoặc nghiên cứu quyền kháng cáo của bị cáo trên phạm vi địa phương nhất định, có đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau nên kết quả nghiên cứu có thể khác nhau khi liên hệ với thực tiễn. Do đó, việc nghiên cứu, tiếp cận quyền kháng cáo của bị cáo trong Tố tụng Hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Krông Năng dưới góc độ là một quyền tố tụng, nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận, 3
  9. đồng thời đánh giá các vụ án hình sự đã đưa ra xét xử trên thực tế, xem xét quy định của Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo là yêu cầu cấp thiết, mang ý nghĩa khoa học và thực tiễn cao. Do vậy, tác giả của luận văn chọn đề tài “Quyền kháng cáo của bị cáo - Từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk’’ để làm rõ thêm về lý luận và thực tiễn áp dụng quyền kháng cáo của bị cáo. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài. 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm sáng tỏ lý luận và nội dung cơ bản về quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, làm sáng tỏ những thiếu sót bất cập của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 về quyền kháng cáo của bị cáo, việc áp dụng các quy định pháp luật tố tụng hình sự về quyền kháng cáo trong thực tiễn xét xử sơ thẩm hình sự tại TAND huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk cũng như xác định một số vi phạm, sai lầm và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở này, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo trong tố tụng hình sự hiện hành. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau: Một là, làm sáng tỏ vấn đề lý luận về quyền kháng cáo của bị cáo (khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa). Hai là, phân tích quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền kháng cáo của bị cáo. Ba là, phân tích thực tiễn áp dụng quyền kháng cáo của bị cáo tại địa bàn huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2022 và 6 4
  10. tháng đầu năm 2023, qua đó, kiến nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng quyền kháng cáo của bị cáo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng quyền kháng cáo của Tòa án nhân dân trên địa bàn huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung và phạm vi không gian: Luận văn có phạm vi nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền kháng cáo của bị cáo theo quy định của tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng các tình tiết này đối với người phạm tội trên địa bàn huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk trong một số năm gần đây. - Phạm vi thời gian: Từ năm 2018 đến năm 2022 và 6 tháng đầu năm 2023. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, giáo dục, cải tạo người phạm tội. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được tác giả nghiên cứu trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu phổ biến như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, nghiên cứu ngẫu nhiên các bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk, để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5
  11. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa khoa học Với những nội dung mà luận văn đặt ra, là cơ sở góp phần làm cho các quy định về quyền kháng cáo của bị cáo được thể hiện cụ thể, rõ ràng hơn, đa chiều hơn. Ngoài ra kết quả nghiên cứu của luận văn mang lại hiệu quả trong việc làm phong phú hơn những vấn đề lý luận về quyền kháng cáo của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam áp dụng đối với bị cáo từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn là một tài liệu tham khảo cho các chủ thể áp dụng pháp luật, phục vụ công tác xét xử các vụ án hình sự. Với việc nghiên cứu của đề tài, tác giả cố gắng phân tích một số quy định còn có nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau, về thực tiễn thực hiện quyền kháng cáo. Chỉ rõ những bất cập trong quy định của pháp luật cần hoàn thiện cũng như những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật cần khắc phục và nguyên nhân dẫn đến sự không thống nhất trong hoạt động từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân, bảo đảm thực hiện tốt các nguyên tắc bình đẳng, công bằng, nhân đạo và đảm bảo quyền con người thể hiện được chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Nhà nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 02 chương gồm: Chương 1 : Cơ sở lý luận - pháp lý về quyền kháng cáo của bị cáo. Chương 2 : Thực trạng thực hiện và giải pháp bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo tại Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk. 6
  12. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ VỀ QUYỀN KHÁNG CÁO CỦA BỊ CÁO 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kháng cáo 1.1.1. Khái niệm quyền kháng cáo Trong tố tụng hình sự Việt Nam, quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là quyền pháp lý của cá nhân đang ở vào tình thế bất lợi vì họ bị tình nghi là đã thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, các điều ước quốc tế về quyền con người quy định những chuẩn mực tối thiểu đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, các quyền này được áp dụng ở các quốc gia thành viên, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế – xã hội. Hệ thống các chuẩn mực tối thiểu về bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng được quy định trong các công ước quốc tế khác nhau. Một trong những quyền cơ bản của bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam đó là quyền kháng cáo. Tuy nhiên, các vấn đề liên quan đến quyền kháng cáo chưa được pháp luật quy định một cách cụ thể như chủ thể có quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo, thủ tục kháng cáo... Quyền kháng cáo là một trong những quyền cơ bản của một số người tham gia tố tụng nói chung và của bị cáo nói riêng. Hiểu và thực hiện một cách hiệu quả quyền này giúp bị cáo có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các vấn đề liên quan đến quyền kháng cáo như chủ thể có quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo, thủ tục kháng cáo,…được pháp luật quy định khá rõ ràng và cụ thể, nhưng văn bản pháp lý hiện hành vẫn chưa đưa ra được một cách hiểu thống nhất về quyền kháng cáo. Để làm rõ hơn khái niệm quyền kháng cáo và có một cái nhìn tổng thể hơn, áp dụng đúng đắn vào thực tiễn điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng. 7
  13. Hiện nay, trong khoa học pháp lý, khái niệm kháng cáo còn có nhiều quan điểm khác nhau: Theo Đại từ điển Tiếng Việt: "Kháng cáo là chống án, yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử" hay theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì kháng cáo là “Chống án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử lại” Như vậy, trong khái niệm trên thì quyền kháng cáo là quyền chống lại bản án, thể hiện sự không đồng ý với các phán quyết của Tòa án, bằng việc “yêu cầu xét xử lại” chứ không phải “chống đối” bằng một hành vi khác. Tuy nhiên, đây là một khái niệm mang tính khái quát vì chưa đề cập đến đối tượng kháng cáo, chủ thể kháng cáo. Theo Từ điển Luật học –Nhà xuất bản Tư pháp thì “Kháng cáo là hành vi chống án, yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật trong trường hợp đương sự không đồng ý với toàn bộ bản án hoặc một phần của bản án, quyết định sơ thẩm”. Trong khái niệm này đã nêu được vấn đề như chủ thể, đối tượng, mục đích nhưng vẫn còn một số điểm chưa đầy đủ vì theo quy định tại Điều 54 BLTTHS năm 2015 thì đương sự có thể hiểu là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền nghĩa vụ liên quan, điểm không hợp lý ở đây chính là quyền kháng cáo không chỉ dành riêng cho những chủ thể này mà còn có những người khác. Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Kháng cáo là biểu thị sự bất đồng của mình đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại ” khái niệm này đã nêu bật được chủ thể, đối tượng kháng cáo. Tuy nhiên, khái niệm chỉ mới đề cập đến đối tượng kháng cáo là bản án hoặc quyết định của Tòa án mà không có điều kiện phải là bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Tác giả dùng từ “mình” khi nói về chủ thể có quyền kháng cáo và không thể xác định một cách cụ thể là ai có quyền kháng cáo; Thẩm quyền xét xử phúc thẩm theo khái niệm mà tác giả Đinh Văn Quế đã đưa 8
  14. ra là thuộc về “Tòa án cấp trên” là chưa cụ thể. Hệ thống Tòa án nước ta hiện ta hiện nay theo Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 gồm bốn cấp xét xử gồm: Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, Tòa án cấp trên của Tòa án đã xét xử sơ thẩm là Tòa án có thẩm quyền, theo cách hiểu này là chưa chuẩn xác vì Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm theo quy định hiện hành phải là Tòa án cấp trên trực tiếp. Theo giáo trình Luật Tố tụng hình sự của trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh: “Quyền kháng cáo là quyền của những chủ thể theo quy định của pháp luật được đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ”. Từ khái niệm trên có thể khái quát một số đặc điểm của kháng cáo như sau: Thứ nhất, quyền kháng cáo là quyền mà công dân thể hiện sự không đồng ý đối với những bản án, quyết định của Tòa án thông qua việc yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại đối với vụ án, xem xét lại quyết định. Ở Việt Nam thì Tòa án cấp phúc thẩm phải là Tòa án cấp trên trực tiếp. Như vậy, kháng cáo là quyền của công dân chống lại bản án, quyết định của Tòa án, yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại. Quyền kháng cáo được ghi nhận trong Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966, Nghị định thư số 7, Công ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của cộng đồng Châu Âu hay Công ước Châu Mỹ về nhân quyền. Thứ hai, không phải tất cả những người tham gia tố tụng đều có quyền kháng cáo bởi vì chủ thể kháng cáo là những chủ thể tham gia tố tụng mà quyền lợi bị ảnh hưởng bởi bản án, quyết định của Tòa án, những chủ thể này thực 9
  15. hiện quyền kháng cáo là để tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước những phán quyết của Tòa án mà theo họ là không hợp lý, không đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, chỉ những người tham gia tố tụng mà quyền và lợi ích bị ảnh hưởng bởi những phán quyết của Tòa án thì mới có quyền thể hiện sự bất đồng của mình thông qua việc thực hiện quyền kháng cáo. Thứ ba, theo quy định tại Điều 330 BLTTHS năm 2015 quy định: “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị”. Sau khi xét xử sơ thẩm thì bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm chưa phát sinh hiệu lực ngay mà có một thời gian nhất định để bị cáo thực hiện quyền kháng cáo nên đối tượng của kháng cáo là những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp kháng cáo quá hạn. Điều này có thể khẳng định rằng bản án, quyết định của Tòa án đã phát sinh hiệu lực thì không thể là đối tượng kháng cáo để phát sinh thủ tục phúc thẩm, trường hợp cần xem xét lại vì có vi phạm thì sẽ xem xét theo thủ tục Giám đốc thẩm hoặc thủ tục Tái thẩm. Thứ tư, căn cứ để Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án hoặc xem xét lại quyết định của Tòa án sơ thẩm trên cơ sở nội dung đơn kháng cáo của bị cáo, như vậy quyền kháng cáo được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền vì thế kháng cáo là cơ sở, là nội dung của xét xử phúc thẩm. Theo đó kháng cáo là căn cứ để Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định của Tòa án sơ thẩm. Tại Điều 345 BLTTHS năm 2015 quy định: “ Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo,…” quyền kháng cáo là quyền của bị cáo, quyền này sẽ được đảm bảo thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền, để thực hiện quyền kháng cáo đúng thời hạn, thủ tục luật định thì bị cáo phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật, có như vậy mới làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp đối với 10
  16. bị cáo. Từ những phân tích nêu trên, khái niệm về quyền kháng cáo của bị cáo được khái quát như sau: “Kháng cáo là hành vi của chủ thể tham gia tố tụng theo luật định, đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại bản án hoặc xét lại quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn luật định khi cho rằng bản án, quyết định sơ thẩm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của chủ thể mà mình đại diện, bào chữa hoặc bảo vệ”. 1.1.2. Đặc điểm quyền kháng cáo của bị cáo Thứ nhất, quyền kháng cáo là quyền cơ bản của bị cáo trong lĩnh vực tư pháp hình sự, là phương tiện để bị cáo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Để bảo đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, pháp luật quy định cho bị cáo nhiều quyền lợi và một trong những quyền cơ bản đó là quyền kháng cáo của bị cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật, đây chính là quyền của bị cáo bày tỏ sự không đồng ý với phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm và yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền của mình nhằm thực hiện quyền tư pháp, đây là hoạt động đặc thù vì nó tác động trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân. Nguy cơ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng từ phía những cá nhân, cơ quan có thẩm quyền đặc biệt là bị cáo. Đối với những vụ án có luật sư tham gia pháp luật quy định sự có mặt của luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử như quá trình hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh tụng tại Tòa án,…mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo. 11
  17. Thứ hai, quyền kháng cáo của bị cáo là quyền gắn liền với một xã hội mang tính dân chủ. Ở Việt Nam, tổ chức bộ máy Nhà nước hiện nay theo nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tòa án là cơ quan thực hiện hoạt động tư pháp - hoạt động nhân danh công lý và dựa vào công lý thì Tòa án phải xét xử như một người đứng giữa, trung lập, không phụ thuộc vào bên nào, chỉ xét xử độc lập và tuân theo pháp luật thì Tòa án mới tồn tại đúng với bản chất của mình là một cơ quan bảo vệ công lý. Mặt khác, nguyên tắc này hình thành còn xuất phát từ chế độ dân chủ nhân dân ở nước ta. Việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia đã được hiến pháp và pháp luật quy định, đó là một trong những nguyên tắc thể hiện rõ tư tưởng “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Pháp luật giao trọng trách cho Hội thẩm nhân dân thay mặt nhân dân tham gia xét xử, giám sát, chế ước, hạn chế tiêu cực trong hoạt động của Tòa án, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Giúp cho việc xét xử của Tòa án được rõ ràng, chính xác, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Vì vậy xuất phát từ một xã hội dân chủ thì quyền con người càng được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, một trong những mục tiêu cơ bản của nhà nước ta là bảo đảm quyền con người trong đó có bị cáo, vì vậy nhà nước luôn tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng quy định của luật pháp. Gắn liền với sự hình thành và phát triển các tư tưởng và các nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, công bằng, nhân đạo, suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo thì quyền kháng cáo của bị cáo ra đời như một tất yếu khách quan khi các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự ngày càng hướng đến việc bảo vệ hiệu quả quyền con người. Thông qua quyền kháng cáo giúp 12
  18. bị cáo nói lên được tiếng nói của mình, thể hiện thái độ không đồng tình với những phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, qua đó góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo thông qua thủ tục xét xử phúc thẩm. Điều này khẳng định trong chế độ có nền dân chủ, tôn trọng quyền con người thì quyền kháng cáo mới được bảo vệ hiệu quả. Thứ ba, quyền kháng cáo của bị cáo là quyền mang tính quốc tế Không chỉ pháp luật Việt Nam mà trong các văn kiện pháp lý quốc tế quyền kháng cáo được quy định tại Khoản 5 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị quy định: “Bất kỳ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật”. Trong Công ước Châu Mỹ về nhân quyền; Quyền kháng cáo được quy định tại Khoản 2 Điều 8 của Công ước: "... Trong tố tụng, bất kì ai cũng đều hoàn toàn bình đẳng trong việc bảo đảm những điều tối thiểu sau đây: Quyền kháng cáo bản án lên tòa cấp cao hơn…”. Trong các văn kiện quốc tế về quyền con người thì quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và các Công ước về quyền con người trong các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội (đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về quyền chính trị và dân sự năm 1966). Vì quyền con người không chỉ là quyền tự nhiên vốn có mà nó còn được ghi nhận trên quan điểm pháp lý, vì vậy vấn đề quyền con người được các quốc gia trên thế giới quan tâm vì vậy quyền kháng cáo không chỉ quy định trong pháp luật Việt Nam mà còn được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Thứ tư, quyền kháng cáo của bị cáo có mối liên hệ với quyền được xét xử công bằng. 13
  19. Với trách nhiệm là chủ thể bảo đảm quyền công dân, Nhà nước có trách nhiệm ngăn chặn sự vi phạm quyền công dân từ phía các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị – xã hội và cá nhân, đồng thời Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho công dân thực hiện được và tự bảo vệ các quyền công dân của mình trong các lĩnh vực. Nhằm bảo đảm cho hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện khách quan, thì quyền được xét xử công bằng là một trong những quyền cơ bản, thực hiện hiệu quả nguyên tắc này có có vai trò bảo đảm tính đúng đắn, hợp pháp góp phần bảo đảm quyền con người, quyền của bị cáo. Cốt lõi của quyền được xét xử công bằng là quyền bình đẳng trước Tòa án; xét xử độc lập, công bằng, tuân theo pháp luật; xét xử công khai, minh bạch Sự bình đẳng, ngang bằng về quyền giữa các bên tham gia tố tụng, mặt khác khi xét xử, Tòa án cần đảm bảo tính độc lập, độc lập giữa thẩm phán và Hội thẩm, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, với các đặc điểm về nhân thân của người phạm tội, với các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự...,mặt khác quyền được xét xử công bằng còn thể hiện không phải trong những điều kiện và hoàn cảnh phạm tội giống nhau thì người phạm tội phải bị kết án và xử phạt như nhau. Vì vậy trên cơ sở chứng cứ và các quy định của pháp luật, thẩm phán chủ toạ phiên tòa đưa ra phán quyết chính xác, khách quan và đúng quy định của pháp luật. Thông qua thủ tục phúc thẩm, công tác kiểm tra được thực hiện và tính chính xác của các phán quyết sẽ cao hơn, đó chính là sự đảm bảo quyền được xét xử công bằng. Quyền kháng cáo giúp cho Thẩm phán làm việc một cách có trách nhiệm và tránh các sai sót xảy ra đối với bị cáo, ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo vì vậy quyền kháng cáo của bị cáo có mối liên hệ với quyền được xét xử công bằng. 14
  20. Thứ năm, quyền kháng cáo của bị cáo có mối liên hệ với quyền bào chữa Trong các đạo luật của mỗi quốc gia luôn đề cập đến quyền bào chữa vì quyền này là một trong những quyền quan trọng của công dân khi tham gia tố tụng. Ở Việt Nam, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc hiến định trong tố tụng hình sự. Mục đích của việc ghi nhận và thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác và khách quan. Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta năm 1946 lần đầu tiên quy định quyền bào chữa: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư”. Tiếp theo đó trên cơ sở kế thừa và phát huy tinh hoa của bản hiến pháp trước Hiến pháp năm 2013 quy định rõ hơn về quyền bào chữa của công dân. Tại khoản 4, Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Phạm vi đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa được mở rộng, quy định này không chỉ có bị cáo có quyền bào chữa như các bản Hiến pháp trước đây, mà ngay từ khi bị bắt, đã phát sinh quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc người khác bào chữa đối với họ. Pháp luật đã quy định để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa dễ dàng, hiệu quả bằng nhiều cách thức khác nhau như: Bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa, có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, trình bày tranh tụng tại Tòa án, … Cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện thẩm quyền của mình như đưa ra những phán quyết đối với bị cáo, còn bị cáo có quyền bào chữa, phản bác lại những suy luận không đúng, áp đặt cho bị cáo vì vậy quyền bào chữa đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự được dân chủ, khách quan, giúp cho bị cáo thực hiện đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nhằm làm giảm nhẹ trách 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2