intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

14
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được hoàn thành với mục tiêu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện nói chung và TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………/……… …./…. HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÂM THỊ NHƯNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐẮK LẮK - NĂM 2023
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ……./…… …../…. HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÂM THỊ NHƯNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Khuyên ĐẮK LẮK - NĂM 2023
  3. LỜI CAM ĐOAN Đề tài nghiên cứu “Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” là luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Luật hiến pháp và Luật hành chính của tôi tại Học viện Hành chính Quốc gia. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học do tôi thực hiện. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Đắk Lắk, tháng 12 năm 2022 Tên tác giả luận văn Lâm Thị Nhưng
  4. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tập tình của các thầy cô giáo, bạn bè và gia đình; sự tham gia góp ý của các cô chú, anh chị làm việc tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lăk. Đến nay, tôi đã hoàn thành Luận văn với đề tài “Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Khuyên - người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy, cô giáo Phòng Quản lý Đào tạo, Bồi dưỡng - Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện luận văn tốt nghiệp. Dù đã rất cố gắng để hoàn thành Luận văn một cách tốt nhất, song bài Luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét từ quý thầy cô để Luận văn được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
  5. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan cảm ơn i Lời cảm ơn ii Mục lục iii Danh mục các chữ viết tắt iv Danh mục các bảng v MỞ ĐẦU 1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của TAND cấp huyện 9 1.2. Cơ cấu tổ chức, chức, chức năng, nhiệm vụ của TAND cấp huyện 18 1.3. Điều kiện đảm bảo tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện 35 Tiểu kết chương 1 41 Chương 2. THỰC TRẠNG TTỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN 42 NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của TAND cấp 42 huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 2.2. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên địa bàn 45 tỉnh Đắk Lắk 2.3. Đánh giá Thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện 73 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk Tiểu kết chương 2 86 Chương 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH 87 ĐẮK LẮK 3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tổ chức và hoạt động của 87 TAND cấp huyện 3.2. Giải pháp bảo đảm tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện trên 91 địa bàn tỉnh Đắk Lắk Tiểu kết chương 3 113 KẾT LUẬN 114 TÀI LIỆU THAM KHẢO 116
  6. DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự BLDS: Bộ luật Dân sự BLHS: Bộ luật Hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử HTND: Hội thẩm nhân dân HĐTP: Hội đồng Thẩm phán TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TAND: Tòa án nhân dân TTLT: Thông tư liên tịch XHCN: Xã hội chủ nghĩa UBND: Ủy ban nhân dân HĐND: Hội đồng nhân dân VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG STT Tên bảng Trang 1 Bảng 2.1. Số lượng cán bộ công chức tại các Tòa án cấp 60 huyện 2 Bảng 2.2 Số liệu các vụ án hình sự sơ thẩm TAND cấp 64 huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết được trong các năm 2017, 2018, 2019, 2020 và 2021 3 Bảng 2.3 Số liệu các vụ án dân sự sơ thẩm TAND cấp 65 huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết trong các năm 2017, 2018, 2019, 2020 và 2021 4 Bảng 2.4 Số liệu các vụ án hành chính sơ thẩm TAND cấp 65 huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã giải quyết trong các năm 2017, 2018, 2019, 2020 và 2021
  8. MỞ ĐẦU 1.1.1 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong thời kỳ đất nước phát triển, hội nhập ngày càng sâu rộng, nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước trước yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp được coi là một nhiệm vụ trọng tâm của quá trình cải cách tư pháp. Đấu tranh, phòng và chống tội phạm ở nước ta hiện nay đặt ra yêu cầu phải đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, đây là một trong những nội dung được thể hiện nhiều trong văn kiện, Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong đó đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp đối với ngành Tòa án như “Khi xét xử, các Toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định”. Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, đã xác định Tòa án là: “Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phấm của công dân. Nghị Quyết đề ra nhiệm vụ 1
  9. đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, với mục tiêu là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [1, tr. 26]. Qua đó củng cố thêm vị trí, vai trò quan trọng của TAND trong thời kỳ mới nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn mới. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ nhằm đáp ứng yêu câu cải cách tư pháp, toàn ngành TAND đã đồng bộ thực hiện tốt hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Tuy nhiên, việc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương nói riêng theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cũng đặt ra những vấn đề cần giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong bối cảnh chuẩn bị tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị, sơ kết việc thực hiện Luật Tổ chức TAND năm 2014. Trong thời gian qua công tác tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã đạt được những kết quả nhất định, là cấp Tòa án thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm, được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, đảm bảo tính độc lập của Tòa án, tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương đã từng bước đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những bất cập trong tổ chức và hoạt động dẫn đến công tác tổ chức và hoạt động của TAND nói chung và TAND cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương nói riêng trong thời gian qua còn chậm và chưa đáp 2
  10. ứng đúng yêu cầu. Chất lượng xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương còn để xảy ra oan sai, án tồn động kéo dài, đội ngủ cán bộ nhất là đội ngủ Thẩm phán, Thư ký vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về trình độ chuyên môn nên ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của một số TAND chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là ở cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương nhiều nơi trụ sở còn rất chật chội, phương tiện làm việc vừa thiếu vừa lạc hậu; chính sách đối với cán bộ công chức chưa tương xứng với nhiệm vụ và chức trách được giao. Từ những vấn đề đặt ra cần giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn nêu trên. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những cấp độ khác nhau có liên quan đến vấn đề Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân đã được công bố thể hiện qua các đề tài nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn, các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Đồ Thị Ngọc Tuyết năm (2005), "Những vấn để lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền"[3]. Luận án đã cung cấp kịp thời về mặt lý luận và thực tiễn cũng như những giải pháp phù hợp cho việc cải cách hệ thống Tòa án trong mô hình nhà nước pháp quyền. Đồng thời phân tích cụ thể, đối chiếu với thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Tòa án, làm cho các Điều luật được giải thích rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, phần nào đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, tìm hiểu, nâng cao nhận thức và triển khai có hiệu quả Luật tổ chức TAND năm 2002 và chỉ ra những tồn tại và các giải pháp mới trong hoạt động cải cách tư pháp. 3
  11. Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, TANDTC, số 07/2014 “Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [5, tr.01]. Bài viết đã làm rõ thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND, từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế chủ yếu về tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND và đưa ra các định hướng cơ bản về việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND. Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án, giải pháp đột phá để Tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [4] đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, TANDTC, số 21/2014, ngày 29/10/2014 bài viết đã làm rõ được vị trí của tranh tụng là khâu đột phá của cải cách tư pháp, từ đó chỉ ra bản chất của tranh tụng tại Tòa án và những định hướng nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án; “ Độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho Tòa án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp”[6] đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, TANDTC, số 16/2014, tr. 01 – 14, bài viết cho cái nhìn tổng quát về xu hướng độc lập của tư pháp trên thế giới và tại Việt Nam, qua đó chỉ ra các yếu tổ để đảm bảo cho hoạt động tư pháp. Đỗ Gia Thư năm 2006 “Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán ở nước ta hiện nay” [7]. Luận án đã đưa ra các cơ sở lý luận, căn cứ pháp lý về nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán cũng như đưa ra các giải pháp hoàn thiện nâng cao chất lượng xét xử của Thẩm phán. Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu khác như các báo cáo tổng kết, những bài viết trên các tạp chí chuyên ngành có đề cập đến lĩnh vực tổ chức và hoạt động của TAND. 4
  12. Có thể thấy các công trình nghiên cứu trước đây đã đề cập những nội dung cơ bản về tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND, phân tích tính ưu việt của pháp luật Việt Nam về tổ chức, hoạt động của TAND, những điểm chưa hợp lý trong tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND hiện nay, góp phần giúp chúng ta nhìn nhận và đánh giá đúng vị trí của TAND trong hoạt động cải cách tư pháp. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu trực tiếp và có hệ thống về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ khi Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức TAND năm 2014 được triển khai, thực hiện. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn với mong muốn hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực, bảo đảm việc thực hiện pháp luật được nghiêm minh, bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện nói chung và TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau: Thứ nhất: Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương. Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy của TAND cấp huyện, hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của TAND cấp huyện, thị xã, 5
  13. thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Thứ ba: Đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Về thời gian: Từ năm 2018 đến 2022. Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của TAND mà không nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Tòa án quân sự. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Về phương pháp luận Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về tổ chức và hoạt động của TAND. 5.2. Về phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp thu thập thông tin, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp…. Các phương pháp này sử dụng đan xen, phối hợp nhằm đem lại hiệu quả trong nghiên cứu. Ngoài ra tác giả sử dụng kết hợp nghiên cứu luật và văn bản dưới luật, các báo cáo tổng kết, hồ sơ các vụ việc đã được TAND cấp huyện giải quyết, xét xử từ năm 2017 đến nay. 6
  14. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của TAND từ thực tiễn TAND cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; vai trò của TAND cấp huyện trong bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý; tuyên truyền, nâng cao hiểu biết của nhân dân về tổ chức, hoạt động của TAND nói chung và TAND cấp huyện nói riêng. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và công việc thực tiễn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp lý về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 7
  15. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí và vai trò của Toà án nhân dân cấp huyện 1.1.1. Khái niệm Tòa án nhân dân cấp huyện Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, trong đó hoạt động tư pháp là hoạt động giải quyết các tranh chấp trong xã hội, xử lý các vi phạm pháp luật. Hoạt động đó liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích của con người, của công dân được thực hiện thông qua việc phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích của các chủ thể pháp luật. Nói đến tư pháp là nói đến việc xét xử theo pháp luật và quyền tư pháp do hệ thống Tòa án độc lập thực hiện với chức năng đặc trưng là xét xử, là một phương thức thực thi quyền lực nhà nước. Từ xưa, một người có oan khuất thường tìm đến cửa quan để đánh trống kêu oan mong được minh xét. “Tòa án” lúc bấy giờ chưa được gọi là Tòa án, nhưng khái niệm về một mô hình có chức năng bảo vệ công lý như vậy thời nào cũng có và luôn được chú trọng. Ở giai đoạn sơ khai của văn minh loài người, công lý được thể hiện khá rõ nét thông qua cơ chế dĩ oán báo oán, với nguyên tắc “công bằng”: mắt đền mắt, răng đền răng. Giai đoạn tiếp theo, các hình thức bồi thường, phạt vạ xuất hiện nhằm đảm bảo tinh thần hòa hảo trong nội bộ tổ chức. Đến giai đoạn thứ ba, để duy trì hòa bình, trật tự, ổn định của toàn xã hội, thiết chế “Tòa án” đã được thành lập để thẩm định, đánh giá mức độ thiệt hại, từ đó hoà giải, điều đình cho các xung đột giữa các cá nhân trong xã hội. Công lý và tư pháp xét xử đã vững bước song hành qua các kiểu Nhà nước khác nhau. Ngay từ khi ra đời Nhà nước quản lý xã hội bằng cách biến ý chí của giai cấp thống trị thành pháp luật và dùng các công cụ, biện pháp quyền 8
  16. lực để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Tòa án là cơ quan nhân danh Nhà nước thực hiện việc xét xử, bảo vệ công lý; hiệu lực, hiệu quả xét xử của Tòa án là thước đo tính dân chủ, công bằng và lòng tin của nhân dân. Bản chất hoạt động xét xử của Tòa án là áp dụng pháp luật và thông qua đó Tòa án chuyển tải, thể hiện quyền lực nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị vào đời sống xã hội. Do đó, tổ chức và hoạt động tư pháp, nhất là của Tòa án một mặt phải hiệu quả, bảo vệ quyền con người, lợi ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Vì vậy mà TAND là nơi thể hiện công lý trong bộ máy nhà nước và không thể thiếu trong hệ thống bộ máy nhà nước. Theo Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [1, tr. 26]. Bằng quy định này, lần đầu tiên trong Hiến pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam được khẳng định là Tòa án nhân dân, theo đó, quyền tư pháp được hiểu là quyền xét xử, là quyền lực nhà nước giao cho Tòa án thực hiện, bao gồm trước hết là quyền xét xử và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; áp dụng, kiểm tra, hoặc hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước hạn chế quyền con người, quyền công dân; áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật; quyết định, giám sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án; hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật; kiểm soát hoạt động tư pháp, hoạt động của cơ quan hành pháp theo cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước và các quyền khác bảo đảm để Tòa án thực thi quyền lực tư pháp theo quy định của pháp luật. Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014 tại Điều 2 quy định rõ thẩm quyền xét xử của Tòa án: “Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn 9
  17. nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật” [2, tr.5]. Chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất được nhân danh Nhà nước xét xử, kết luận một người có tội hay không có tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội. Việc pháp luật quy định như vậy nhằm đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tránh tùy tiện trong việc kết tội một ai đó vì việc kết tội một ai đó sẽ gây hậu quả, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản, sức khỏe, tính mạng, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân. Hiến pháp 2013 đã quy định lại vị trí, chức năng của TAND theo hướng mới xây dựng nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân là phù hợp với xu hướng chung của thế giới về hoạt động tư pháp của Tòa án. Với việc thực hiện chức năng xét xử, TAND có vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là nơi nhân dân gửi gắm niềm tin trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật. Vai trò đó được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức TAND năm 2014. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý; bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [1, tr.5]. Như vậy, TAND cấp huyện là cơ quan xét xử được tổ chức ở đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, có nhiệm vụ sơ thẩm các vụ việc theo quy định của pháp luật. 1.1.2. Đặc điểm tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân cấp huyện 10
  18. Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, công cuộc cải cách tư pháp đã được các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả. Nhận thức và sự quan tâm đối với công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Đảng ta nhận định: “…Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý...”. Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành nghị quyết 49/NQ-TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết 49/NQ-TW đã thể hiện quyết tâm cao của Đảng ta nhằm cải cách cơ bản, sâu rộng nền tư pháp nước nhà. Theo đó, nền tư pháp Việt Nam là nền tư pháp Xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Đối với hệ thống Tòa án nhân dân, Nghị quyết 49/NQ-TW nêu rõ: “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp”. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo hướng: “Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính” [8]. Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định tổ chức Tòa án 4 cấp, trong đó: “Tòa án nhân dân cấp huyện có chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án theo thẩm quyền và giải quyết các việc khác theo quy định pháp luật” [9]. Kết luận 92/KL-TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực 11
  19. hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa X về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xác định về tổ chức Tòa án nhân dân: Tiếp tục thực hiện chủ trương tổ chức Tòa án nhân dân theo cấp xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Tòa án nhân dân được tổ chức 4 cấp như Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị [10]. Ngày 24/11/2014, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, được Quốc Hội nước công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua là bước ngoặt quan trọng trong cơ cấu, tổ chức của hệ thống Tòa án. Tại điều 3 của Luật TCTAND năm 2014 qui định hệ thống Tòa án nước ta sẽ được tổ chức theo 4 cấp, gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện [11]. Như vậy, TAND cấp huyện là một bộ phận của hệ thống TAND thực hiện chức năng xét xử ở phạm vi lãnh thổ cấp huyện. Đây là cấp Tòa án thực hiện xét xử thấp nhất tại địa phương đối với các vụ án được pháp luật quy định. Trong đó thẩm quyền của TAND cấp huyện trên các lĩnh vực hình sự, dân sự và các việc khác theo quy định của pháp luật ngày càng được mở rộng, cụ thể như: Một là: Về dân sự: Tại khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: “Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do TAND giải quyết” [12, 2003, Điều 136] và được mở rộng hơn như tại khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 quy định: “TAND có thẩm quyền có quyền giải quyết sơ thấm các tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này” [13, 2013, Điều 203]. 12
  20. Hai là: Về hình sự, tại khoản 1 Điều 145 của BLTTHS năm 1988 quy định: “TAND cấp huyện xét xử sơ thẩm những tội phạm mà BLHS quy định hình phạt từ bảy năm tù trở xuống” [14, 1988]; nay đã được mở rộng hơn theo quy định tại khoản 1 Điều 268 của BLTTHS năm 2015: “TAND cấp huyện xét xứ sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng…'’ [15, 2015, Điều 268] Ba là: về chức năng xét xử sơ thẩm các vụ án theo thẩm quyền và giải quyết các việc khác theo quy định pháp luật của TAND cấp huyện hiện nay được quy định tại Luật Tổ chức TAND năm 2014, BLTTDS năm 2015, BLTTHS năm 2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015 và một số văn bản pháp luật có liên quan khác. Cán bộ, công chức làm việc tại TAND cấp huyện có chế độ lương, phụ cấp theo quy định chung của hệ thống Tòa án giống như các Tòa án khác trong hệ thống TAND, chịu sự điều chỉnh của quy chế, quy định riêng về quy tắc ứng xử, về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của nội bộ hệ thống Tòa án. 1.1.3. Vai trò của Toà án nhân dân cấp huyện Nhà nước pháp quyền là Nhà nước được tổ chức và quản lý theo pháp luật, bảo đảm tính thượng tôn pháp luật và đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan Nhà nước và công chức Nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật kỷ cương, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Đó là Nhà nước mà tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, cá nhân đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp, pháp luật của 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2