intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân- Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội

Chia sẻ: Hoababytrang | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

39
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn dưới góc độ Luật Hiến pháp và luật Hành chính nhằm làm sáng tỏ lý luận về tổ chức và hoạt động của TAND từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND từ thực tiễn Tòa cấp cao tại Hà Nội, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm công tác tổ chức và chất lượng hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung và TAND cấp cao trong hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt nam hiện nay

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và Luật hành chính: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân- Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM ANH TUẤN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN - TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số : 8 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI - NĂM 2022 1
  2. DANH MỤC CÁC CHŨ VIÉT TẮT Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS Bộ luật hình sự BLHS Bộ luật dân sự BLDS Bộ luật Tố tụng dân sự BLTTDS Luật tố tụng hành chính TTHC Luật tổ chức TAND TCTAND Tòa án nhân dân TAND Xã hội chủ nghĩa XHCN Viện kiểm sát nhân dân VKSND Bổ trợ Tư pháp BTTP 2
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận văn Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định Tòa án là: “Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phấm của công dân. Nghị Quyết đề ra nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, với mục tiêu là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 qui định Tòa án là "Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp ” Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XII của Đảng đề ra mục tiêu đối với Tòa án: “Cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định về chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và hoạt động xét xử. Tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử; bảo đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương sự”. Đồng thời Đại hội XII nhấn mạnh 5 nhiệm vụ cải cách tư pháp cơ bản đối với Tòa án, trong đó nhấn mạnh vai trò của hoạt động xây dựng pháp luật, bảo đảm Tòa án thực sự là cơ quan xét xử và thực hiện quyền tư pháp mà Hiến pháp đã quy định. Đồng thời, Tòa án phải được tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và bảo đảm ba nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là độc lập trong xét xử, tranh tụng trong xét xử và bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, của đương sự. Nhấn mạnh nguyên tắc xét xử theo thẩm quyền của tòa án mà không phụ 3
  4. thuộc vào đơn vị hành chính lãnh thổ. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định "Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân". Các quan điểm, định hướng nêu trên đều khẳng định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống cơ quan tư pháp và trọng tâm của công tác xét xử. Vì vậy, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp được coi là một nhiệm vụ trọng tâm của quá trình cải cách tư pháp. Tuy nhiên, việc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân cấp cao nói riêng theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 cũng đặt ra những vấn đề cần giải quyết cả về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong bối cảnh chuẩn bị tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị, sơ kết việc thực hiện Luật Tổ chức TAND năm 2014. Trong thời gian qua công tác tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã đạt được những kết quả nhất định, là một cấp Tòa án thực hiện chức năng xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, được tổ chức theo thẩm quyền xét xử, đảm bảo tính độc lập của Tòa án, tổ chức và hoạt động của TAND cấp cao đã từng bước đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN). Tuy nhiên vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động dẫn đến công tác tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao chưa tương xứng được với yêu cầu trong tình hình hiện nay. Từ những thực tế nếu trên, việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao, nhằm đánh giá thực trạng, nêu ra nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm hiệu quả tổ chức và hoạt động có tính cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Do đó học viên chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân- Từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội" làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn 4
  5. Là một thiết chế quan trọng trong hệ thống chính trị nên tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp được các nhà khoa học pháp lý quan tâm, là vấn đề mang tính cấp thiết ở nước ta hiện nay. Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều cấp độ như: Những công trình là đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sỹ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt Nam có liên quan đến Tòa án nhân dân, các bài viết trên các tạp chí, website: Cụ thể: - Công trình khoa học cấp nhà nước: + Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX.04.06 "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân". - Các luận án, luận văn: + Luận án tiến sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà nội "Những vấn để lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan Tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền" của tác giả Đồ Thị Ngọc Tuyết năm 2005. + Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội “Đối mới tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam” của tác giải Nguyễn Minh Sử năm 2011. - Sách, bài viết của các nhà khoa học: + Sách “ Hệ thống Tòa án của một số nước trên thế giới” của tác Trương Hòa Bình, Ngô cường NXB Thế Giới năm 2014. + Sách “ Xây dựng Tòa án nhân dân xứng đáng là biểu tượng của công lý, lẽ phải, niềm tin” của PGS.TS Nguyễn Hòa Bình, Nxb Chính trị quốc gia sự thật năm 2019. + “Những vấn đề chủ yếu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt nam” của TSKH.PGS Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân dân số 3 năm 2006; + “Cải cách tư pháp trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước” của tác giả 5
  6. Nguyền Đăng Dung đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề 2011; + “Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc tổ chức Tòa án theo tiêu chí chức năng, thẩm quyền” của tác giả Nguyễn Ngọc đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 2011; + “Kiến nghị nhằm nâng cao vị thế độc lập của Thấm phán trong hoạt động xét xử” của tác giả Nguyễn Minh Sử đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số tháng 7, 2011. + “Một vài ý kiến về hoàn thiện hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta” của tác già Nguyễn Minh Sử đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật, số tháng 7, 2011. + "Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng" của tác giả Nguyễn Mạnh Kháng, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10. + Bài viết về: Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ “Tòa án là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” của Đồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao năm 2013 + Bài viết về: “Hoạt động của Tòa án nhân dân trong thời kỳ mới” của Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Tưởng Duy Lượng năm 2014. + Bài viết về “Cải cách tư pháp nâng tầm vị thế của Hệ thống Tòa án nhân dân” của Tiến sĩ Lưu Bình Nhưỡng, Phó Chánh Văn phòng, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương năm 2014. Tuy vậy các công trình, bài viết trên chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu chung nhất về tổ chức quyền lực Nhà nước, mối quan hệ trong thực hiện quyền lực nhà nước, về cơ cấu, tổ chức, có công trình nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Tòa án, nhưng khác về phạm vi nghiên cứu (cấp tỉnh, cấp huyện) và thời điểm nghiên cứu. Mặt khác Tòa án nhân dân cấp cao được thành lập theo qui định của Luật tổ chức TAND năm 2014 với những chức năng, nhiệm vụ mới, thẩm quyền rộng hơn nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao hiện nay... Bởi vậy, luận văn tập trung nghiên 6
  7. cứu về tổ chức và hoạt động của TAND từ thực tiễn TAND cấp cao tại Hà Nội theo hướng có hệ thống và toàn diện hơn, làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá trình đổi mới, đảm bảo tính độc lập, thực hiện tốt chức năng, vai trò Toà án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm của tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn dưới góc độ Luật Hiến pháp và luật Hành chính nhằm làm sáng tỏ lý luận về tổ chức và hoạt động của TAND từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND từ thực tiễn Tòa cấp cao tại Hà Nội, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm công tác tổ chức và chất lượng hoạt động của Tòa án nhân dân nói chung và TAND cấp cao trong hệ thống Tòa án nhân dân ở Việt nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên luận văn đặt ra các nhiệm vụ cần nghiên cứu như sau: Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, phân tích, làm rõ vị trí, vai trò, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án trong bộ máy nhà nước. Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND cấp cao tại Hà Nội, mối quan hệ về tổ chức và hoạt động của TAND cấp cao tại Hà Nội. Đánh giá những kết quả đạt được trong tổ chức và hoạt động, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân trong tổ chức và hoạt động của TAND nói chung và TAND cấp cao nói riêng. Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm bảo đảm công tác tổ chức và 7
  8. nâng cao chất lượng hoạt động của TAND đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của TAND cấp cao tại Hà Nội. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của TAND cấp cao tại Hà Nội 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Nghiên cứu công tác tổ chức và hoạt động của TAND cấp cao tại Hà Nội - Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2015 (năm đầu thực hiện Luật Tổ chức TAND) đến năm 2020. - Về nội dung: Lý luận, cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động, thực trạng và để ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và chất lượng hoạt động của TAND từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng để nêu, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn. Phương pháp so sánh, thống kê được sử dụng để cung cấp các số liệu cần thiết , đối chiếu, so sánh, làm rõ các nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu Phương pháp mô tả để làm rõ những vần đề về hình thức tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân nói chung và Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội 8
  9. Phương pháp lịch sử dùng để phân tích, đánh giá, bình luận về thực trạng của công tác tổ chức và hoạt động của Tòa án cấp cao tại Hà Nội Phương pháp khái quát hóa được dùng để nêu ra và phân tích, đánh giá những thành tựu kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động. Quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp với các phương pháp và sử dụng các phương pháp khác như: khảo sát thực tiễn, nghiên cứu luật, các báo cáo tổng kết, hồ sơ, bản án các vụ án đã được Tòa cấp cao xét xử từ năm 2015 đến nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của TAND từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Góp phần bổ sung vào lý luận về tổ chức và hoạt động của Hệ thống Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân cấp cao nói riêng. Đề tài cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là tư liệu tham khảo trong việc lập kế hoạch, thực hiện việc chỉ đạo điều hành công tác tổ chức và hoạt động của các Tòa án nhân dân, nhằm nâng cao và phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân cấp cao. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao. Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. 9
  10. Chương 1 CƠ SƠ LÝ LUẬN VỀ TỐ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO 1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân 10
  11. 1.1.1. Vị trí, vai trò, nhiệm vụ, chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước Học thuyết Mác - Lenin cho rằng khi chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được thì Nhà nước ra đời. Nhà nước ra đời đã trở thành công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, nhằm đàn áp, cai trị giai cấp khác. Giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thống trị về kinh tế, nắm giữ quyền lực chính trị, quản lý xã hội, thể hiện ý chí giai cấp mình thành pháp luật và buộc các giai cấp khác trong xã hội phải tuân thủ. Để ý chí của giai cấp thống trị đi vào cuộc sống, trở thành ý chí chung của toàn xã hội thì nhà nước phải tổ chức ra bộ máy đề thực hiện nhiệm vụ này, đó chính là bộ máy hành pháp với lực lượng đàn áp, cưỡng chế là quân đội và cảnh sát. Đồng thời, để cho pháp luật - ý chí của giai cấp thống trị được tuân thủ trong đời sống xã hội, đòi hỏi phải hình thành một hệ thống cơ quan bảo đảm việc giám sát, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, đó là cơ quan xét xử. Hệ thống cơ quan nhân danh Nhà nước để xét xử các hành vi vi phạm pháp luật chính là Tòa án. Như vậy, với sự ra đời của Nhà nước thì quyền lực nhà nước được thề hiện bởi: Quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; trong đó quyền tư pháp là quyền xét xử do Tòa án thực hiện và chức năng xét xử không thể tách rời khỏi Nhà nước. Ở chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, Nhà nước chủ yếu được tổ chức theo hình thức quân chủ, nên quyền lập pháp, hành pháp và xét xử đều tập trung vào giai cấp chủ nô và phong kiến. Vì vậy, Tòa án chưa được tổ chức thành hệ thống rõ nét và hoạt động độc lập với các tổ chức khác trong bộ máy nhà nước chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Khi giai cấp tư sản và nhà nước tư sản ra đời. Các học giả tư sản trong thời kỳ này đã đưa ra các luận điểm cho rằng cần phải có sự tách bạch quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó điển hình là tư tưởng của John Locce, Montesquieu... Theo Montesquieu, quyền lực nhà nước được phân chia thành 11
  12. quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và tư tưởng phân chia quyền lực này đã trở thành hạt nhân của học thuyết "Tam quyền phân lập". Ông cho rằng để có một Nhà Nước pháp quyền theo quan niệm phân lập quyền lực của Nhà nước tư sản, cũng như các cơ quan nhà nước khác, thì Tòa án phải được tổ chức độc lập, có sự tham gia đối trọng và chế ước, kiểm soát với nhánh quyền lập pháp và hành pháp. Theo quan điểm của giai cấp tư sản thì Tòa án là cơ quan bảo vệ pháp luật quan trọng nhất, bảo vệ công lý và là người trọng tài vô tư, khách quan để đánh giá các hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thực tiễn đời sống xã hội. Muốn vậy, hoạt động của Tòa án phải được quy định để không chì giới hạn ở việc xét xử đối với hành vi của các cá nhân mà còn đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hay nói cách khác, sự độc lập của Tòa án với cơ quan lập pháp và hành pháp là đảm bảo quan trọng nhất cho việc bảo vệ các quyền con người, hạn chế sự lạm quyền, xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Tuy nhiên, tính độc lập của Tòa án trong Nhà nước tư sản cũng phụ thuộc rất nhiều vào cách thức tổ chức hình thức chính thể, nhưng cho dù được tổ chức theo hình thức chính thể nào thì sự độc lập của Tòa án chính là yếu tố quan trọng nhất để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích Nhà nước, tổ chức và cá nhân. Ngay từ khi Nhà nước ra đời thì chức năng chung của Nhà nước là quản lý xã hội, biến ý chí của giai cấp thống trị thành pháp luật và dùng các công cụ, biện pháp quyền lực để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện. Để quản lý Nhà nước, quyền lực nhà nước được thể hiện dưới các hình thức là xây dựng pháp luật, tố chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Các hình thức này tương ứng với ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tư pháp là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích của các chủ thể pháp luật. Như vậy, nói đến tư pháp là nói đến việc xét xử theo pháp luật và quyền tư pháp do hệ 12
  13. thống Tòa án độc lập thực hiện với chức năng đặc trưng là xét xử, là một phương thức thực thi quyền lực nhà nước. Tòa án là cơ quan nhân danh Nhà nước thực hiện việc xét xử, bảo vệ công lý; hiệu lực, hiệu quả xét xử của Tòa án là thước đo tính dân chủ, công bằng và lòng tin của nhân dân. Bản chất hoạt động xét xử của Tòa án là áp dụng pháp luật và thông qua đó Tòa án chuyển tải, thể hiện quyền lực nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị vào đời sống xã hội. Vì vậy, nếu Tòa án hoạt động không minh bạch, khách quan thì công lý không được bảo vệ, trật tự an toàn xã hội không được bảo đảm. Đồng thời, thông qua hoạt động xét xử, các quy định pháp luật còn được chuyển tải đến các đối tượng khác trong xã hội, giúp họ nhận thức, nâng cao ý thức pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Như vậy, xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tòa án. Khi đảm nhận chức năng xét xử, Tòa án có vai trò, vị trí nhất định trong bộ máy nhà nước. Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước để xem xét, đánh giá và phán quyết về tính đúng đắn của hành vi theo pháp luật hay tính công bằng trong các tranh chấp giữa các bên liên quan. Đặc trưng cơ bản của hoạt động xét xử là Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước và sự nhân danh quyền lực nhà nước đã làm cho các bản án, quyết định do Tòa án ban hành được bảo đảm thực thi bởi Nhà nước thông qua các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tuy nhiên, ở mỗi hình thái kinh tế xã hội, kiểu Nhà nước với chế độ chính trị khác nhau, bộ máy nhà nước được tổ chức khác nhau, trong đó Tòa án có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ cũng khác nhau. Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp [25]. Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Tòa án nhân dân. Do vậy, Tòa án nhân dân có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà nước; 13
  14. Tòa án thực hiện quyền tư pháp, là nơi thể hiện công lý trong bộ máy nhà nước. Hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp là thước đo sự công bằng trong xã hội. Hoạt động xét xử được coi là hoạt động trọng tâm trong việc thực hiện quyền tư pháp và chức năng xét xử được Hiến pháp quy định là chức năng riêng Tòa án, bởi vậy, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân được quy định tương đối cụ thể trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.[25], Bằng quy định này, lần đầu tiên trong Hiến pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp ở Việt Nam được khẳng định là Tòa án nhân dân trong đó hoạt động xét xử là biểu hiện tập trung nhất của quyền tư pháp. Về nội hàm của quyền tư pháp và cơ quan thực hiện quyền tư pháp hiên nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau như: Quyền tư pháp được hiểu là hoạt động xét xử của Tòa án và những hoạt động của các cơ quan, tổ chức khác trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp chế, trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội. Có quan điểm Quyền tư pháp là quyền mà Nhà nước giao cho các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động,. theo trình tự, thủ tục tố tụng tư pháp, bao gồm các thủ tục tố tụng hình sự, thủ tục tố tụng dân sự, thủ tục tố tụng hành chính. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), Tòa án nhân dân, Cơ quan thi hành án đều thực hiện quyền tư pháp theo những mức độ khác nhau. Theo quan điểm của cá nhân, quyền tư pháp được hiểu: Quyền tư pháp là quyền lực nhà nước giao cho tòa án thực hiện, bao gồm trước hết là quyền xét xử và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; áp dụng, kiểm tra, hoặc hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước hạn chế quyền con người, quyền công dân; áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản của 14
  15. công dân theo quy định của pháp luật; quyết định, giám sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án; hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật; kiểm soát hoạt động tư pháp, hoạt động của cơ quan hành pháp theo cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước và các quyền khác bảo đảm để Tòa án thực thi quyền lực tư pháp theo quy định của pháp luật. Với việc thực hiện chức năng xét xử, Tòa án nhân dân có vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [24] Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân được xác định : Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác[24]. Tòa án nhân danh nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam xét xử, những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính; giải quyết những việc dân sự, giài quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; xem xét và kết luận cuộc đình công hợp pháp hay không hợp pháp. Ngoài ra, Tòa án còn có thẩm quyền giải quyết những việc khác theo quy định cúa pháp luật như: Ra quyết định thi hành án hình sự; hoãn 15
  16. hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; ra quyết định miễn chấp hành hình phạt hoặc giảm mức hình phạt đã tuyên, giảm, miễn các khoản thu nộp ngân sách nhà nước; ra quyết định xoá án tích, áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Trong quá trình xét xử vụ án Tòa án phát hiện và kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của quốc hội pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc Hội[24]. 1.1.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân Với tư cách là một trong các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, để thực hiện vai trò của cơ quan có chức năng xét xử, bảo đảm công lý, tổ chức và hoạt động của Tòa án phải được tổ chức trên cơ sở những nguyên tắc chung đã được Hiến pháp ghi nhận như nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ. Với chức năng riêng của mình so với các cơ quan Nhà nước khác, TAND còn được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù: - Các tòa án được tổ chức độc lập theo theo thẩm quyền xét xử: Nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về TAND, ngày 24/11/2014 Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân (Luật TC TAND 2014). Theo đó, các nội dung hiến định mang tính chất cơ bản, nền tảng có liên quan đến TAND và hoạt động xét xử đều được cụ thể hóa trong Luật. Tuy nhiên, Luật TC TAND 2014 không chỉ cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 2013, mà còn đặt ra quy định mới, mang tính chất nguyên tắc cho tổ chức TAND. Cụ thể, quy định của Điều 5 “Các TAND được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử” [24]là một quy định mới chưa được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và các bản hiến pháp trước đây. Tinh thần chủ đạo của nguyên tắc được xác định trong Luật TC TAND 2014 là việc tổ chức TAND phải độc lập, bao gồm các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài. Yếu tố bên trong yêu cầu về tính độc lập của thẩm phán, trong khi đó yếu tố bên ngoài đòi hỏi sự độc lập về tổ chức của TAND. Trước 16
  17. đây, trong các quy định về TAND, chúng ta chỉ mới đặt ra nguyên tắc độc lập mang tính chất bên trong có liên quan đến Hội đồng xét xử, khi yêu cầu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Với vai trò đó, có thể nói, quy định của Điều 5 Luật TCTAND 2014 là một sự hoàn thiện lớn lao đối với tổ chức của TAND, tạo ra cơ chế hợp lý, hữu hiệu trong việc bảo vệ các thẩm phán trước những tác động từ bên ngoài trong quá trình thực thi công lý. Nguyên tắc tổ chức độc lập sẽ là nền tảng pháp lý vững chắc giúp nâng tầm vị trí của TAND và Thẩm phán trong mối quan hệ với các cơ quan khác. Ngoài ra việc thực hiện hiệu quả nguyên tắc này sẽ đưa nền tư pháp Việt Nam tiệm cận hơn với nền tư pháp thế giới. - Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia trừ xét xử theo thủ tục rút gọn; khi xét xử Hội thấm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán. Đây là một nguyên tắc đã được ghi nhận tại khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013. Điều 8 Luật Tổ chức TAND 2014 đã qui định vấn đề này. Theo nguyên tắc đó, khi xét xử sơ thẩm các vụ án thì trong thành phần Hội đồng xét xử có sự tham gia của các Hội thẩm (Hội thẩm nhân dân hoặc Hội thẩm quân nhân). Đây là thành phần đại diện cho nhân dân khi xem xét các khía cạnh của vụ việc, góp phần bảo đảm việc xét xử có lý và có tình. Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao trình độ pháp lý, trình độ chuyên môn cho các Hội thẩm nhân dân thì điều quan trọng, người Hội thẩm phải là người đại diện, nói được tiếng nói đại diện cho dư luận xã hội tại nơi và thời điểm xảy ra vụ án. Với nguyên tắc hai cấp xét xử, sự tham gia của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử là bắt buộc trong trình tự xét xử sơ thẩm và mang tính tuỳ nghi (khi thấy cần thiết) trong Hội đồng xét xử phúc thẩm. Để đảm bảo tính khách quan, pháp luật đã qui định, khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nói cách khác là Hội thẩm có quyền độc lập so với Thẩm phán. Pháp luật về tố tụng đã cụ thể hoá nội dung này bằng cách qui định, khi các thành viên Hội đồng xét 17
  18. xử nghị án, biểu quyết về từng vấn đề cụ thể của vụ án thì các Hội thẩm phải biểu quyết trước, ý kiến khác của thành viên HĐXX được ghi trong biên bản nghị án. Cũng chính vì Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán nên khi xét xử, mặc dù Thẩm phán được giao chủ toạ phiên tòa nhưng Hội thẩm vẫn có quyền tham gia vào tất cả các trình tự, thủ tục xét xử tại phiên tòa. - Thẩm phán, Hội thẩm xét xứ độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Nguyên tắc này cũng đã được ghi nhận tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013 và được cụ thể hoá tại Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 2014. Nguyên tắc này qui định khi xét xử, giữa các thành viên Hội đồng xét xử (Thẩm phán và Hội thẩm) và mỗi thành viên Hội đồng xét xử đều có quyền độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp luật. Cho dù Chánh án hoặc Phó Chánh án là một thành viên Hội đồng xét xử thì khi đó, Chánh án hoặc Phó Chánh án cũng chỉ là một người có quyền độc lập với thành viên khác, không có quyền “chỉ đạo” thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ toạ cũng chỉ quyền điều hành phiên tòa theo trình tự do luật định, không có quyền tố tụng cao hơn thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị tác động bởi bất cứ áp lực nào từ phía các cơ quan Đảng, chính quyền hoặc sự can thiệp của bất cứ cá nhân, tổ chức nào. Khi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chứ không chịu sự chỉ đạo, điều hành của Tòa án cấp trên. Khi xét xử, ngoại trừ bị tác động và chi phối bởi “giới hạn cùa việc xét xử” ở trình tự xét xử sơ thẩm và “phạm vi xét xử phúc thẩm”, các thành viên trong Hội đồng xét xử không bị phụ thuộc bởi những quan điểm, những luận cứ của Viện kiểm sát, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác. Các thành viên Hội đồng xét xử có quyền phán xét độc lập trên cơ sở pháp luật và chứng cứ, trên cơ sở đó, họ ban hành các quyết định pháp lý giải quyết vụ án. Xét xử là quá trình áp dụng pháp luật để xử lý, giải quyết các tranh chấp, hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo công lý. Bản chất của hoạt động xét xử - 18
  19. tài phán là hoạt động đòi hỏi phải độc lập để đảm bảo công bằng, nếu hoạt động xét xử không độc lập thì việc xét xử sẽ không khách quan, sự độc lập của Tòa án được thể hiện cơ bản qua sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Để đảm bảo nguyên tắc trên Hiến pháp và Luật tổ chức TAND cũng quy định “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” hành vi can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm nhân dân tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy Thẩm phán độc lập, không bị ràng buộc bởi ý kiến của bất cứ ai, không bị chi phối bởi ý kiến của ai; không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của Thẩm phán. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, nhưng phải tuân theo pháp luật. Thẩm phán, hội thẩm phải căn cứ vào các quy định cúa pháp luật để đưa ra ý kiến, quyết định của mình về từng vấn đề của vụ án, không được tuỳ tiện hay bằng cảm tính. Do đó, để đảm bảo sự độc lập của Tòa án, pháp luật cần có sự quy định rõ ràng trách nhiệm của Tòa án, của thẩm phán và cơ chế đảm bảo không có sự tham gia, can thiệp trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Là một nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của Tòa án do vậy các quy định của luật khác (luật hình thức, nội dung) liên quan đều chứa đựng các quy phạm nhằm cụ thể và đảm bảo nguyên tắc được áp dụng trên thực tiễn như qui định về mô hình tổ chức hệ thống tòa án, quy định về thay đổi, từ chối tiến hành tố tụng, về đảm bảo chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm, về mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp. Để có sự độc lập của Thẩm phán, hội thẩm ngoài việc quy định trách nhiệm của Tòa án và Thẩm phán và các cá nhân, tổ chức khác thì pháp luật cũng đặt ra yêu cầu đối với Thẩm phán được lựa chọn, bổ nhiệm phải là những người có trình độ chuyên môn, có hiểu biết pháp luật cao, có kinh nghiệm thực tiễn và sự công tâm, trách nhiệm trong việc thực thi nhiệm 19
  20. vụ bảo vệ công lý, những điều kiện đảm bảo chế độ đãi ngộ về lương, điều kiện làm việc, đảm bảo về danh dự, sức khỏe, tính mạng. - Nguyên tắc Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số Đây là nguyên tắc đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 103 và được Luật Tổ chức TAND năm 2014 cụ thể hoá tại các Điều 10. Xét xử tập thể là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Tòa án. Nguyên tắc này thể hiện việc xét xử thông qua hội đồng (tùy vào cấp xét xử và tính chất vụ việc) nhằm phát huy trí tuệ tập thể, đảm bảo tính dân chủ, thận trọng, khách quan khi Tòa án đưa ra phán quyết. Việc thực hiện nguyên tắc xét xử tập thể sẽ góp phần tạo ra sự đồng thuận, thống nhất về quan điểm, cách thức giải quyết vụ việc từ nhiều góc độ để đảm bảo tính khách quan, đúng pháp luật và đảm bảo quyên và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Đồng thời, việc xét xử theo nguyên tắc tập thể còn là cơ chế để tạo ra sự vô tư trong hoạt động xét xử, ngăn ngừa sự tùy tiện, thiên vị trong xét xử và điều này sẽ tạo được niềm tin cho công chúng trong việc tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án. Nguyên tắc này ở một chừng mực nào đó cũng là rào cản để ngăn ngừa sự can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử từ những cơ quan, tồ chức, cá nhân bên ngoài, giảm áp lực cho Thẩm phán trong hoạt động xét xử. Khi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử phải xem xét tập thể đối với từng vấn đề của vụ án và khi biểu quyết, ý kiến của đa số sẽ có hiệu lực pháp lý, đồng thời ý kiến thiểu số cũng được bảo lưu, ghi vào biên bản và được coi là một trong các cơ sở để kiểm tra, xem xét lại bản án của Tòa án khi cần thiết. Cũng chính vì nguyên tắc nói trên, pháp luật tố tụng qui định số lượng thành viên Hội đồng xét xử luôn luôn là số lẻ (ba hoặc 5 thành viên trong Hội đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm). - Nguyên tắc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Đây là các nguyên tắc đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại khoản 6 Điều 103. Nguyên tắc này được qui định rõ tại Điều 6 Luật Tổ chức TAND 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2