Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Bảo đảm quyền tranh tụng tại phiên tòa hình sự phúc thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
lượt xem 8
download
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự "Bảo đảm quyền tranh tụng tại phiên tòa hình sự phúc thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam; Quy định của pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT và thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh; Các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa hình sự phúc thẩm.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Bảo đảm quyền tranh tụng tại phiên tòa hình sự phúc thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- PHAN HÙNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ PHÚC THẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- PHAN HÙNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ PHÚC THẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. VÕ KHÁNH VINH Hà Nội, năm 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các số liệu nêu trong luận văn là trung thực; những kết luận của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin cam đoan: Các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được trích dẫn rõ nguồn gốc. Tôi xin chịu trách nhiệm đối với luận văn của mình. Tác giả luận văn PHAN HÙNG CƯỜNG
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ..................... 7 1.1. Khái niệm về quyền tranh tụng trong Tố tụng hình sự Việt Nam ............. 7 1.2. Khái niệm về phiên tòa hình sự phúc thẩm .............................................. 10 1.3. Khái niệm về bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa hình sự phúc thẩm . 12 1.4. Các yếu tố đảm bảo quyền tranh tụng trong phiên tòa hình sự phúc thẩm ..... 15 1.5. Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa hình sự phúc thẩm ................................................................................................................. 23 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG VÀ THỰC TIỄN TẠI CẤP TÒA PHÚC THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................ 27 2.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tham gia tranh tụng để bảo đảm quyền tranh tụng…. ............................................................................................................. 27 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về quyền tranh tụng trong phiên tòa hình sự phúc thẩm tại Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh…………………………………………………………………………37 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG TRONG PHIÊN TÒA HÌNH SỰ PHÚC THẨM……...51 3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật…………………………….........51 3.2. Nâng cao trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Người bào chữa để bảo đảm quyền tranh tụng ................................................................. 61 3.3. Các bảo đảm khác .................................................................................... 69 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử HSST Hình sự sơ thẩm HSPT Hình sự phúc thẩm KSV Kiểm sát viên NBC Người bào chữa TTHS Tố tụng hình sự TAND Tòa án Nhân dân VKS Viện Kiểm sát VKSND Viện Kiểm sát Nhân dân VKSNDTC Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao XHCN Xã hội chủ nghĩa XXST Xét xử sơ thẩm XXPT Xét xử phúc thẩm
- DANH MỤC BẢNG Bảng 2.2.1. Số liệu thống kê tổng số vụ án đã thụ lý, giải quyết và có người bào chữa tham gia từ năm 2016 đến năm 2020…………………...................44 Biểu đồ 2.2.1. Biểu đồ tỷ lệ % số vụ án giải quyết và có người bào chữa tham gia từ năm 2016 đến năm 2020……………..……….…………………….….45
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tư pháp là để hướng tới hoàn thiện pháp luật, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân và xây dựng Nhà nước pháp quyền tạo ra động lực để phát triển kinh tế, xã hội, ổn định về mặt chính trị. Chính vì vậy, cải cách tư pháp đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là một nhiệm vụ quan trọng, và trọng tâm trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong công tác cải cách tư pháp, hoàn thiện pháp luật mà Đảng ta khởi xướng, trong đó “Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm” [5]. Nghị quyết 08/NQ - TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã xác định “Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ. Ý kiến của Kiểm sát viên (KSV), của người bào chữa (NBC), bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định” [6]. Nghị quyết số 48/NQ -TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Đảng ta cũng đã xác định “…Bảo đảm chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là một khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp” [7]. Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Đảng ta cũng xác định “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là một khâu đột phá để nâng cao chất lượng 1
- hoạt động tư pháp” [5]. Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tại khoản 5 Điều 103 cũng ghi nhận “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [8]. Trong tiến trình cải cách tư pháp, hoạt động tranh tụng trong TTHS đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà lập pháp, tranh tụng là một quá trình nhận thức tư duy pháp lý và tâm lý. Để việc tranh tụng thực sự đạt được hiệu quả tốt đòi hỏi các chủ thể thực hiện trong hoạt động tranh tụng phải nắm rất rõ các quy định của pháp luật, quy luật tâm lý và phải có kỹ năng nghiệp vụ chuyên sâu về tranh tụng. Ngoài ra cũng phải có điều kiện để đảm bảo quyền tranh tụng. Như vậy, hoạt động tranh tụng là một nguyên tắc rất quan trọng trong TTHS. BLTTHS hiện hành chưa đích danh ghi nhận hoạt động tranh tụng là một nguyên tắc tố tụng cơ bản nhưng trong các quy định của Bộ luật cũng đã thể hiện được nội dung của nguyên tắc tranh tụng [27, tr.31]. Trên thực tế, hoạt động tranh tụng còn nhiều vướng mắc cả về lý luận và thực tiễn, trong tất cả các giai đoạn của tố tụng, hoạt động tranh tụng chỉ giới hạn trong hoặc ngoài phiên tòa hình sự hay nó còn cần những điều kiện gì để bảo đảm quyền tranh tụng? Do đó cần tiếp tục nghiên cứu về hoạt động tranh tụng trong TTHS và nhất là việc nghiên cứu về đảm bảo quyền tranh tụng trong TTHS tại phiên tòa HSPT là rất cần thiết và cấp bách. Những năm qua, chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa hình sự của ngành Tòa án đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực đó vẫn còn một số hạn chế nhất định ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền tranh tụng tại phiên Tòa hình sự phúc thẩm từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn Thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Tranh tụng trong hoạt động tư pháp đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử 2
- tư pháp ở các nước trên thế giới. Vấn đề tranh tụng, quyền được tranh tụng ở Việt Nam còn là một vấn đề rất mới mẻ. Bản Hiến pháp năm 2013 cũng đã kịp thời ghi nhận “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”[8], việc hiến định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp đã thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về công cuộc cải cách tư pháp, từ đó tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử và cũng là tiền đề để xây dựng về bảo đảm quyền tranh tụng trong các văn bản pháp luật tố tụng. Những vấn đề liên quan đến tranh tụng, trước đây đã có rất nhiều công trình khoa học của các tác giả đã nghiên cứu, có thể liệt kê một số công trình của các tác giả sau đây: - Luật sư Lê Thúc Anh, Một số suy nghĩ về tranh tụng tại phiên tòa trong cải cách tư pháp, Tạp chí nhân dân số 01/2008; - PGS.TS Nguyễn Hòa Bình, Những điểm mới của BLTTHS năm 2015, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Sự thật 2016; - GS.TSKH Lê Cảm, Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS, Đặc san luật học số 6/2004; - PGS.TS Trần Văn Độ, Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí khoa học pháp lý số 04/2004; - PGS.TS Phạm Hồng Hải, Chuyên đề tiến tới xây dựng TTHS ở Việt Nam theo kiểu tranh tụng hình sự, Nhà xuất bản Công an Nhân dân 2003; - TS. Nguyễn Mạnh Kháng, Cải cách tư pháp và vấn để tranh tụng, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật 2003; - Nguyễn Thúy Nga (2018), Chủ thể buộc tội trong Tố tụng hình sự; Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội; - Nguyễn Thị Mai (2018), Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội; 3
- - Thạc sĩ Đinh Văn Quế, Vai trò của Hội đồng xét xử trong việc tranh tụng tại phiên tòa, Tạp chí Tòa án nhân dân số 01/2004; - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2015), Các chức năng của Tố tụng hình sự, Hội thảo khoa học; Thuật ngữ tranh tụng trước đây đã được đề cập nhiều trong khoa học pháp lý Việt Nam từ những năm 1995. Tuy nhiên, qua nghiên cứu khoa học có hệ thống của tác giả để thực hiện đề tài về bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào, nhưng các công trình nghiên cứu trên đây là nguồn tham khảo quan trọng để tác giả có thể hoàn thành tốt công trình nghiên cứu của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu và thực tiễn bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT tại Thành phố Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền tranh tụng, từ đó đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật về tranh tụng và đảm bảo quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT theo pháp luật TTHS Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả cần phải làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về pháp luật tranh tụng và bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT theo quy định của pháp luật TTHS để giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản như: Thứ nhất, nghiên cứu để làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT. Thứ hai, làm rõ các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về tranh tụng và bảo đảm quyền tranh tụng tại phiên tòa HSPT đồng thời nêu lên việc áp dụng thủ tục tranh tụng tại các phiên tòa phúc thẩm trên địa bàn Thành phố 4
- Hồ Chí Minh, từ đó chỉ ra những kết quả đã đạt được, những bất cập còn tồn tại và làm rõ các nguyên nhân. Thứ ba, kiến nghị các giải pháp để bảo đảm quyền tranh tụng nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa HSPT theo quy định của pháp luật TTHS để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài vận dụng những quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật TTHS hiện hành và thực tiễn liên quan đến hoạt động tranh tụng và bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT tại Thành phố Hồ Chí Minh để làm đối tượng nghiên cứu; 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành LHS và TTHS về vấn đề bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT tại Thành phố Hồ Chí Minh theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành; - Về không gian: Đề tài nghiên cứu dựa trên khảo sát về các số liệu thống kê từ thực tiễn đảm bảo quyền tranh tụng trong phiên tòa hình HSPT tại Thành phố Hồ Chí Minh; - Về thời gian: Đề tài khảo sát thực trạng bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 2016 - 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Việc nghiên cứu đề tài, tác giả vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước trong công cuộc cải cách tư pháp nói chung và về pháp luật TTHS nói riêng để giải quyết vấn đề. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng 5
- hợp, thống kê, khảo sát từ thực tiễn tranh tụng và đảm bảo quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tranh tụng, bảo đảm quyền tranh tụng và được vận dụng đan xen để tạo ra kết quả nghiên cứu đề tài. Từ phương pháp này, tác giả rút ra những kết luận khoa học, những kiến nghị để hoàn thiện pháp luật TTHS về bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn nghiên cứu đề tài 6.1. Ý nghĩa lý luận Đây là một công trình nghiên cứu khoa học có hệ thống về bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT. Kết quả nghiên cứu đề tài có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập và nghiên cứu. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng, bảo đảm quyền tranh tụng, bảo đảm quyền con người trong TTHS phù hợp với xu thế tiến bộ trên thế giới. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và các từ viết tắt. Luận văn được bố cục thành 3 chương với kết cấu như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT và thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3: Các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT. 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm về quyền tranh tụng trong Tố tụng hình sự Việt Nam Trước tiên ta tìm hiểu khái niệm về “Quyền”, “Tranh tụng”là gì và “Quyền tranh tụng”trong TTHS như thế nào? Để trả lời câu hỏi “Quyền” là gì? Theo từ điển Tiếng Việt, “Quyền” được hiểu là sức mạnh được vận dụng khi thực hiện chức năng trong một lĩnh vực nhất định. Ngoài ra “Quyền” là khái niệm khoa học pháp lí dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và sẽ đảm bảo được thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân, tổ chức được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản hoặc hạn chế nó. Những dấu hiệu đặc trưng đầu tiên của “Quyền” là: Phải có sự ghi nhận về mặt pháp lí và được bảo đảm thực hiện bởi các quy định của pháp luật; Thứ nữa là phải có sự thừa nhận về mặt xã hội, gắn liền với chủ thể cá nhân, tổ chức được thể hiện một cách cụ thể trong thực tế đời sống thông qua các quan hệ xã hội cụ thể của cá nhân, tổ chức đó. Như vậy, “Quyền” là cái mà luật pháp, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu chưa có/không có/hay bị tước đoạt thì có thể đòi hỏi để giành lại… Còn “Tranh tụng” là gì? Theo tác giả, tranh tụng là một phạm trù rất rộng, nó bao hàm đến tất cả các hoạt động tố tụng xuyên suốt trong quá trình giải quyết các vụ án nói chung như: Hình sự; Dân sự; Hành chính. Riêng trong TTHS thì hoạt động tranh tụng liên quan đến quá trình tố tụng từ điều tra, truy tố và xét xử. Dưới góc độ của ngôn ngữ học thì “Tranh tụng” là một sự kết hợp giữa hai từ “Tranh luận” và “Tố tụng” theo nghĩa Hán - Việt. Vì vậy, tranh tụng có nghĩa là “Tranh - luận - trong - tố - tụng”. Trong tiếng Việt, tranh tụng là “Thưa kiện nhau để giành lẽ phải”[2, tr.1966]. Trong tiếng Anh, tranh tụng là sự kiện (litigate against one another) [3, tr.1142]. 7
- Pháp luật TTHS hiện hành chưa nêu khái niệm tranh tụng. Tuy nhiên Hiến pháp năm 2013 có ghi nhận “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”[8] và hiện nay nguyên tắc này cũng chưa được thể chế hóa trong các văn bản pháp quy. Dưới góc độ khoa học pháp lý, nếu coi tranh tụng là hoạt động tư duy, nhận thức, thì bản chất của tranh tụng phải bao hàm được các nội dung sau đây: - Tranh tụng được tiến hành trên cơ sở của tư duy logic. Các bên tham gia tranh tụng có thể áp dụng các kỹ năng tranh tụng khác nhau, để chứng minh và khẳng định cho quan điểm của mình là có cơ sở và bác bỏ các luận điểm, quan điểm hoặc thừa nhận quan điểm của bên đối tụng. - Tranh tụng không chỉ là quyền, mà còn là trách nhiệm của các bên tham gia vào hoạt động tranh tụng, từ hoạt động này làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Hay nói cách khác, tranh tụng không chỉ là phương tiện để tìm ra sự thật khách quan mà còn là một phần tất yếu của quá trình tố tụng trong pháp luật hình sự hiện đại ngày nay. Dưới góc độ pháp lý thì “Tranh tụng là các hoạt động tố tụng” được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (Bên buộc tội và bên gỡ tội cùng tham gia trong VAHS). Các bên đều có quyền bình đẳng như nhau trong việc thu thập tài liệu, đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm, lợi ích của phía đối lập [28,tr.808]. Nên hoạt động tranh tụng nhất thiết phải tuân theo các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS [9, tr.99]. Cũng có quan điểm cho rằng “Tranh tụng” có nghĩa là “Tranh luận” trong quá trình tố tụng tại phiên tòa, nhưng lại hiểu tranh luận theo nghĩa rộng hơn - tranh luận là bàn cãi để tìm ra lẽ phải. Do vậy, tranh tụng được tính từ khi “Khai mạc phiên tòa cho đến trước khi HĐXX vào nghị án” [1,tr.2-5]. Còn “Quyền tranh tụng” trong TTHS Việt Nam là “Quyền” của các chủ 8
- thể tranh tụng sử dụng các quyền năng tố tụng của mình được pháp luật TTHS quy định trong tham gia các hoạt động tố tụng nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết VAHS theo trình tự, thủ tục mà pháp luật TTHS quy định. Các quyền tranh tụng quan trọng đó là: Quyền thu thập, kiển tra, đánh giá chứng cứ, chứng minh các tình tiết vụ án; Quyền tham gia tố tụng; Quyền đưa ra các yêu cầu; Quyền xét hỏi; Quyền tranh luận tại phiên toà... “Quyền trong TTHS” cũng giống như các quyền khác, tức là khả năng thực hiện các hành vi TTHS, ra các quyết định TTHS liên quan đến quá trình giải quyết VAHS do pháp luật TTHS quy định. 1.2. Khái niệm về phiên tòa Hình sự phúc thẩm Phiên tòa HSPT là phiên tòa xét xử lại vụ án/quyết định đã được Tòa án cấp dưới XXST nhưng chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo/kháng nghị. Tính chất của phúc thẩm là xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp đối với vụ án mà bản án/quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị của VKS trong thời hạn pháp luật TTHS quy định để yêu cầu cấp Tòa phúc thẩm xem xét lại một phần hoặc toàn bộ bản án/quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên chưa có hiệu lực pháp luật theo một trình tự, thủ tục luật định quy định xuất phát nguyên tắc pháp chế, chế độ hai cấp xét xử nhằm bảo đảm tính chính xác, đúng đắn và khách quan trong phán quyết của Tòa án. Từ đó bảo đảm lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, và bảo vệ quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân. Thủ tục xét xử của phiên tòa phúc thẩm được tiến hành như thủ tục của xét xử của phiên tòa sơ thẩm, thủ tục xét xử công khai tại phiên tòa, thủ tục tranh luận, thủ tục nghị án và tuyên án…Tuy nhiên phiên tòa HSPT mang tính đặc thù đó là thủ tục mở đầu phiên tòa một thành viên của HĐXX trình bày tóm tắt toàn bộ nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên và nội dung của kháng cáo/kháng nghị. Sau đó đến thủ tục hỏi người kháng 9
- cáo/kháng nghị có thay đổi nội dung kháng cáo/kháng nghị hay không? Nếu có thì vị Chủ tọa phiên tòa yêu cầu KSV trình bày ý kiến của mình về việc có thay đổi, bổ sung, hoặc rút kháng cáo/kháng nghị hay không? Nếu có thì Chủ tọa phiên tòa yêu cầu bị cáo và những người liên quan đến kháng cáo/kháng nghị trình bày những ý kiến về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo/kháng nghị. Nếu không thì phiên tòa tiếp tục diễn ra theo một trình tự, thủ tục TTHS quy định. Thủ tục tranh tụng trong phiên tòa HSPT cũng gần giống với thủ tục tranh tụng tại phiên tòa HSST. Khi tranh tụng, KSV và các chủ thể khác có liên quan đến nội dung kháng cáo/kháng nghị được phát biểu ý kiến về nội dung kháng cáo/kháng nghị. Đồng thời KSV phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án. Chủ tọa phiên tòa HSPT bắt đầu điều hành các thủ tục cần thiết của phiên tòa hình sự, đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử và giải thích các quyền, nghĩa vụ của những chủ thể tham gia tố tụng tại phiên tòa. Trong quá trình xét hỏi, trường hợp bị cáo chưa nhận được bản cáo trạng của VKS và quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định, nếu bị cáo có yêu cầu thì HĐXX phải hoãn phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa hỏi từng người có liên quan trong vụ án, sau đó các thành viên của HĐXX tiếp tục việc hỏi, rồi đến KSV, NBC, người bảo vệ quyền lợi của đương sự được phép hỏi. Những người tham gia phiên tòa đều có quyền đề nghị HĐXX hỏi thêm về những tình tiết mà họ quan tâm và cần được làm sáng tỏ… HĐXX khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét và thẩm tra lại tại phiên tòa thì Chủ tọa phiên tòa hỏi vị đại diện VKS, bị cáo, NBC, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác xem còn có yêu cầu xét hỏi những vấn đề gì nữa không…(nếu có)…nếu họ không còn gì hỏi thêm thì Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần xét hỏi để chuyển sang phần tranh tụng. Đại diện VKS là KSV trình bày lời luận tội, NBC trình bày lời bào chữa, 10
- những người tham gia tố tụng khác như bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của pháp nhân thương mại phạm tội, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến, quan điểm để bảo vệ lợi ích của mình…Trong phần tranh tụng này Chủ tọa phiên tòa không được giới hạn thời gian tranh tụng của các bên, tạo điều kiện cho các bên được trình bầy hết ý kiến cũng như việc đưa ra các tài liệu, chứng cứ, vật chứng để chứng minh và bảo vệ cho yêu cầu, quan điểm, lập luận của mình giữa những người tham gia tố tụng. Quá trình tranh tụng này được quyền tranh luận công khai, và nếu cần thiết cũng có thể trở lại việc xét hỏi để làm rõ hơn các yêu cầu của mình. Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa được diễn ra theo đúng trình tự luật định. Các thành viên trong HĐXX thể hiện sự tôn trọng các bên tham gia tranh tụng, theo dõi sát diễn biến tại phiên tòa, ghi nhận ý kiến tranh luận của các bên, nhất là các ý kiến đối lập, các trích dẫn căn cứ khác biệt của phía NBC và bên công tố, lắng nghe ý kiến những người tham gia tố tụng khác… Như vậy, bản chất của hoạt động xét xử tại phiên tòa HSPT chính là hoạt động xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp kiểm tra, đánh giá lại các kết quả của hoạt động xét xử của cấp Tòa sơ thẩm đối với vụ án mà bản án/quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo và/hoặc bị kháng nghị trong thời hạn luật định. 1.3. Khái niệm về bảo đảm quyền tranh tụng trong phiên tòa Hình sự phúc thẩm - Khái niệm bảo đảm quyền tranh tụng trong Tố tụng hình sự Là các cách thức thực hiện để các quyền tranh tụng của các chủ thể tranh tụng được thực hiện hiệu quả trong suốt quá trình giải quyết VAHS. Theo từ điển tiếng Việt “Bảo đảm” có nghĩa là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được và/hoặc có đầy đủ những gì cần thiết. Trong vụ án HSPT khi quyền tranh tụng được bảo đảm thì quá trình chứng minh tội phạm 11
- được thực hiện một cách khách quan, đảm bảo được tính đúng đắn. Từ đó hạn chế việc xâm hại đến các quyền và lợi ích chính đáng của người bị cáo buộc là đã có hành vi phạm tội. Trong phiên tòa HSPT để bảo đảm được quyền tranh tụng của các bên tham gia cần bảo đảm các nội dung bao gồm sau đây: Bảo đảm về chủ thể tranh tụng, bảo đảm về mặt pháp lý, bảo đảm trong khâu tổ chức thực hiện và các bảo đảm khác nữa … Tuy nhiên, trong các biện pháp bảo đảm trên đây thì việc bảo đảm về mặt pháp lý và chứng cứ là quan trọng nhất. Đây là tiền đề và là cơ sở cho việc thực hiện các bảo đảm khác cũng như tạo điều kiện cho các bảo đảm khác phát huy được vai trò và hiệu quả trong việc bảo đảm quyền tranh tụng của các bên tham gia trong vụ án HSPT. Bảo đảm pháp lý về quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT là bảo đảm cho những người tham gia tranh tụng trong vụ án HSPT bằng các quy định của pháp luật, dựa trên các nguyên tắc của TTHS, và các nguyên tắc ấy phải được thực thi triệt để trên thực tiễn. Trong vụ án HSPT, sự tranh tụng phản biện của các bên để làm sáng tỏ những góc khuất, những điểm mờ, những quan điểm buộc tội, quan điểm gỡ tội, những yêu cầu của các bên đã tham gia ở phiên tòa HSST trên cơ sở của kháng cáo/kháng nghị. Từ đó, tại cấp tòa này sẽ xem xét, đánh giá lại việc kháng cáo/kháng nghị có cơ sở hay không. Từ đó, cấp Tòa phúc thẩm đưa ra phán quyết trên cơ sở tranh tụng, phản biện của tất cả các bên tham gia phiên tòa. Việc tranh tụng trong phiên tòa HSPT chính là quá trình chứng minh tính có căn cứ và hợp pháp về những cáo buộc đối với bị cáo cũng như những hoạt động của các chủ thể diễn ra tại phiên tòa HSST trước đây mà bản án/quyết định của cấp Tòa sơ thẩm đã tuyên chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo/kháng nghị. Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá lại tính xác thực, tính hợp pháp của các chứng cứ, cũng như các quan điểm, các lập luận truy tố của VKS mà bản án/quyết định của cấp Tòa sơ thẩm lấy làm căn cứ để tuyên bị 12
- cáo có tội hay không có tội, chấp nhận việc kháng cáo/kháng nghị hay không chấp nhận việc kháng cáo/kháng nghị. Khi thực hiện quyền tranh tụng và bảo đảm được quyền tranh tụng ấy thông qua những hoạt động tranh tụng, từ đó cấp Tòa phúc thẩm có cách nhìn khách quan, đa chiều và toàn diện hơn kể cả các quan điểm, lập luận, và những khuynh hướng đối lập của chủ thể bên buộc tội và chủ thể bên gỡ tội. Đây cũng là phương tiện góp phần để đạt được mục đích của TTHS là bảo đảm lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, và bảo vệ quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân. Tranh tụng và bảo đảm quyền tranh tụng dưới những góc độ nhìn nhận khác nhau, tuy nhiên theo quan điểm của tác giả, khái niệm về quyền, khái niệm về tranh tụng, khái niệm về quyền tranh tụng, khái niệm về bảo đảm quyền tranh tụng ở phiên tòa HSPT thể hiện đầy đủ bản chất và nội hàm của việc tranh tụng, tại phiên tòa này HĐXX có một cách nhìn toàn diện và bao quát hơn để trả lời cho câu hỏi: Vì sao, vì đâu mà bị cáo và các chủ thể khác liên quan đến vụ án lại kháng cáo và/hoặc: Vì sao, vì đâu mà VKS lại kháng nghị bản án. Bản án HSST còn thiếu sót chỗ nào, sai chỗ nào, chỗ nào chưa khách quan, chỗ nào cần phải làm rõ vv...và vv.. Theo đó, các chủ thể tranh tụng trong phiên tòa HSPT dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa được bình đẳng đưa ra chứng cứ cũng như những lập luận, những quan điểm, những căn cứ pháp lý theo quy định của pháp luật để chứng minh cho quyền lợi của mình tại cấp Tòa phúc thẩm. Từ yêu cầu đó HĐXX cấp Tòa phúc thẩm sẽ xem xét, đánh giá và thẩm tra lại. Dựa vào việc tranh tụng công khai, dân chủ tại phiên tòa cũng như những cơ sở mà các bên đưa ra, Tòa án sẽ phán quyết có tội hay không có tội, chấp nhận việc kháng cáo/kháng nghị hay không chấp nhận việc kháng cáo/kháng nghị. Như vậy, tranh tụng trong phiên tòa HSPT về bản chất là quá trình đi tìm sự thật khách quan, kết quả của việc tranh tụng ảnh hưởng trực tiếp đến 13
- quyền, lợi ích đến nhân thân của họ. Tuy nhiên TTHS là một quá trình phức tạp, không phải các bên tham gia đều có thể dễ dàng thực hiện được đúng và đầy đủ các quyền của mình. Trên thực tế, việc thực hiện đầy đủ các quyền này gọi chung là quyền tranh tụng, các bên tham gia phụ thuộc rất nhiều yếu tố cũng như khả năng tham gia TTHS của các chủ thể, sự hỗ trợ từ những chủ thể khác (ví dụ như NBC... chủ yếu là Luật sư bào chữa) và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Thông thường, để thực hiện được quyền tranh tụng có hiệu quả trong phiên tòa HSPT, thì các chủ thể phải nắm vững kiến thức pháp luật nhất định, phải có năng lực chủ thể, năng lực TNHS và trong những trường hợp cần thiết còn có sự giúp đỡ từ phía NBC hay những người tham gia tố tụng khác. Để bảo đảm được quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT, thì Tòa án phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật TTHS khi giải quyết VAHS, đồng thời Tòa án phải có trách nhiệm tạo mọi điều kiện cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng của mình. Từ sự phân tích trên, có thể thấy rằng: Để đảm bảo quyền tranh tụng trong phiên tòa HSPT đi vào thực chất, khách quan và không hình thức thì cần đảm bảo một số điều kiện về chủ thể, điều kiện về pháp luật, điều kiện về cơ chế và các điều kiện khác để hoạt động tranh tụng đạt được hiệu quả thiết thực. Tranh tụng trong phiên tòa HSPT là một quá trình tranh luận bình đẳng, công khai về vụ án, về các quy định của pháp luật liên quan giữa bên buộc tội và bên gỡ tội và những người tham gia tố tụng khác liên quan đến việc kháng cáo/kháng nghị. Thông qua hoạt động tranh tụng này sẽ làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án tại phiên tòa, góp phần vào phán quyết của Tòa án cấp phúc thẩm thực sự thấu tình, đạt lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Từ đó công lý sẽ được thực thi. 1.4. Các yếu tố đảm bảo quyền tranh tụng trong phiên tòa Hình sự phúc thẩm 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 76 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn