intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:81

36
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự "Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục; Thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục tại tỉnh Đồng Nai; Một số giải pháp bảo đảm quyết định hình phạt đúng đối với các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- TRỊNH THỊ QUYÊN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- TRỊNH THỊ QUYÊN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS TRƯƠNG QUANG VINH Hà Nội, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn Thạc sỹ Luật học “Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trương Quang Vinh. Các số liệu, ví dụ và kết quả nghiên cứu trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Các thông tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Đồng Nai, ngày tháng năm 2021. Người cam đoan Trịnh Thị Quyên
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC ........................................................................................................................... 6 1.1. Khái niệm hình phạt và quyết định hình phạt ..................................................... 6 1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục đúng ............................................................................................................ 12 1.3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục ........ 14 1.4. Các căn cứ quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục ............... 22 Chương 2 THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TẠI TỈNH ĐỒNG NAI ............................................. 33 2.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai .................................................................................................... 33 2.2. Kết quả thực hiện các quy định pháp luật về quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai .................................................. 39 2.3. Một số hạn chế, thiếu sót trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và nguyên nhân..................................... 49 Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI .................................................................................................. 59 3.1. Các yêu cầu bảo đảm quyết định hình phạt đúng đối với các tội xâm phạm tình dục ..................................................................................................................... 59 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật ................................................................... 61 3.3. Một số giải pháp khác ....................................................................................... 63 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 67 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 69 PHỤ LỤC ................................................................................................................ 74
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bộ luật Hình sự : BLHS Quyết định hình phạt : QĐHP Tòa án nhân dân : TAND Trách nhiệm hình sự : TNHS Xâm phạm tình dục : XPTD
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Danh mục hình Trang Hình 2.1. Số vụ án và số bị cáo đã thụ lý giải quyết về các tội xâm 34 phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 – 2020 Hình 2.2. Cơ cấu các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng 36 Nai (giai đoạn 2015 – 2020) Hình 2.3. Kết quả áp dụng hình phạt đối với số bị cáo bị xét xử về các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (giai đoạn 2015 – 42 2020) Danh mục Bảng Trang Bảng 2.1. Số vụ án và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về các tội xâm phạm 40 tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (giai đoạn 2015 – 2020) Bảng 2.2. Số vụ án và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về từng tội cụ thể trong các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (giai đoạn 40 2015 – 2020) Bảng 2.3. Thống kê kết quả quyết định hình phạt theo từng tội danh cụ thể trong các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (giai 43 đoạn 2015 – 2020)
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Những năm gần đây, tỉ lệ tội phạm xâm phạm tình dục (XPTD) trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có xu hướng gia tăng, gây tác động xấu cho xã hội và ảnh hưởng rất lớn đến tâm sinh lý của nạn nhân. Căn cứ Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, các tội phạm xâm phạm tình dục tội quy định từ Điều 141 đến Điều 147 gồm: Tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm. Những tội phạm này đều bị xử lý với những khung hình phạt khác nhau. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án sẽ quyết định hình phạt tương ứng với từng tội phạm và mức độ phân hóa trách nhiệm hình sự của từng đối tượng vi phạm. Quyết định hình phạt (QĐHP) là công việc trọng tâm, cốt lõi trong hoạt động xét xử của Tòa án và có vai trò vô cùng to lớn. Nếu hình phạt được quyết định một cách chính xác sẽ góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhưng ngược lại, nếu việc quyết định hình phạt được thực hiện không đúng sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với các cơ quan tư pháp. Suy cho cùng, các hoạt động tố tụng hình sự từ khởi tố, điều tra, truy tố, kể cả việc tranh tụng tại phiên toà sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu Toà án không làm tốt việc quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt đúng còn là một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng của hoạt động xét xử cũng như đánh giá năng lực và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Tòa án nhân dân (TAND) hai cấp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã có những đóng góp tích cực trong việc đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm tình dục thông qua hoạt động xét xử và quyết định hình phạt đối với từng vụ án cụ thể. Mặc dù vậy, hoạt động quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục nói riêng của Tòa án nhân dân hai cấp tại tỉnh Đồng Nai vẫn còn có những hạn chế, thiếu sót. 1
  8. Trước tình trạng các tội phạm xâm phạm tình dục vẫn đang diễn biến phức tạp, gây mất an ninh, trật tự, ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội của người dân, việc nghiên cứu một cách khoa học để tìm ra những tồn tại, hạn chế, phân tích các nguyên nhân và đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là đòi hỏi mang tính cấp thiết. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” để nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua, ở Việt Nam, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các đề tài liên quan đến việc quyết định hình phạt được công bố như: - Sách chuyên khảo “Định tội danh và quyết định hình phạt” của tác giả Dương Tuyết Miên, nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2007. - Sách chuyên khảo “Các tội xâm phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Linh, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, năm 2019. - Luận văn thạc sĩ luật học “Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật Hình sự Việt Nam” của Phạm Thị Thanh Hoan năm 2015; - Luận văn thạc sĩ luật học “Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng)” của tác giả Nguyễn Thế Văn, năm 2015; - Luận văn thạc sĩ luật học “Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tham ô tài sản trong luật Hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền, năm 2015; - Luận văn thạc sĩ luật học “Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai” của tác giả Nguyễn Hữu Biên, năm 2015; - Luận văn thạc sĩ luật học “Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Chu Xuân Quyền, năm 2016; 2
  9. - Luận văn thạc sĩ luật học “Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” của tác giả Lê Văn Nhàn, năm 2016; - Luận văn thạc sĩ luật học “Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Thùy, năm 2017. Về các công trình có liên quan được công bố trên các tạp chí khoa học như: - Đinh Văn Quế, Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 14/2018. - Đinh Văn Quế, Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và việc áp dụng khi quyết định hình phạt, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 16/2018. - Nguyễn Bích Thủy, Một số điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 về hình phạt và quyết định hình phạt, Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp, Số 5/2016. - Đinh Minh Lượng, “Một số điểm chưa hợp lý trong quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng”, Tạp chí Tòa án nhân dân (điện tử), năm 2020. - Thiều Văn Thịnh, “Một số lưu ý khi quyết định áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt”, Tạp chí Tòa án nhân dân (điện tử), năm 2020. Những đề tài, công trình nghiên cứu nêu trên đã khái quát được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt. Tuy nhiên, những đề tài, công trình nghiên cứu này hoặc nghiên cứu quyết định hình phạt ở những khía cạnh khác nhau như: quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) khi quyết định hình phạt; hoặc chỉ nghiên cứu về quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu, tham ô tài sản, vi phạm các quy định về sử dụng đất đai,… mà chưa có công trình, đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu về thực tiễn và đề xuất các giải 3
  10. pháp cụ thể nhằm khắc phục những vi phạm, sai lầm trong việc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp luật về quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục và thực tiễn hoạt động quyết định hình phạt đối với các tội phạm xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Luận văn đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự và bảo đảm hiệu quả quyết định hình phạt đối với các tội phạm này trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên đây, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Phân tích các khái niệm về hình phạt, quyết định hình phạt và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục; nguyên tắc, căn cứ quyết định hình phạt; vai trò và ý nghĩa của quyết định hình phạt đúng đối với các tội phạm xâm phạm tình dục. - Đánh giá thực tiễn hoạt động quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, chỉ ra những điểm mạnh cũng như những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm tình dục và lý luận về QĐHP đối với các tội xâm phạm tình dục; những quy định của BLHS năm 2015 về quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục và thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội phạm này. Phạm vi nghiên cứu: - Địa điểm nghiên cứu: Trên trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; - Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2015 đến năm 2020. 4
  11. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước về quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp phân tích diễn dịch, quy nạp, thống kê, tổng hợp được sử dụng xuyên suốt luận văn để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu. - Phương pháp thống kê, so sánh và nghiên cứu bản án điển hình được sử dụng để giải quyết, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị giải pháp hoàn thiện. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận và hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu trong Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện công tác xét xử và quyết định hình phạt đúng đối với các tội xâm phạm tình dục nói chung và trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng. Kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên đang học tập tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật, cho những người nghiên cứu cũng như những người làm công tác thực tiễn và tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục Chương 2: Thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục tại tỉnh Đồng Nai Chương 3: Một số giải pháp bảo đảm quyết định hình phạt đúng đối với các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. 5
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC 1.1. Khái niệm hình phạt và quyết định hình phạt 1.1.1. Khái niệm hình phạt Hình phạt là một trong những khái niệm cơ bản của luật hình sự. Dưới góc độ lập pháp, khái niệm hình phạt lần đầu tiên được định nghĩa trong Bộ luật Hình sự năm 1999 tại Điều 26 như sau: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định”. Hiện nay, khái niệm hình phạt đã được BLHS năm 2015 hoàn thiện hơn khi bổ sung chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại. Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.” Xuất phát từ khái niệm trên, có thể thấy hình phạt có những dấu hiệu sau: - Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất Trong các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ hình phạt tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người hoặc pháp nhân thương mại bị kết án. Đồng thời, hình phạt còn để lại cho người hoặc pháp nhân thương mại bị kết án một hậu quả pháp lý đó là án tích trong một thời gian nhất định [8, tr.283]. - Hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự Bộ luật Hình sự quy định về hình phạt ở cả phần chung và các phần các tội phạm. Phần chung của BLHS quy định các vấn đề mang tính nguyên tắc về hình phạt, trong khi đó, phần các tội phạm quy định các loại hình phạt và mức 6
  13. hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể. Hệ thống hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, được quy định khác nhau đối với người phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội. Đối với người phạm tội, các hình phạt chính như: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền và trục xuất khi không áp dụng là hình phạt chính (Điều 32 BLHS năm 2015). Đối với pháp nhân thương mại phạm tội, hình phạt chính gồm: Phạt tiền, đình chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn; phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính (Điều 33 BLHS năm 2015). Do vậy, trong mọi trường hợp, tòa án không được áp dụng một loại hình phạt nào đó không quy định trong BLHS, cũng như không được áp dụng hình phạt đối với những hành vi không được BLHS quy định là tội phạm. - Hình phạt do Tòa án quyết định áp dụng Khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước áp dụng hình phạt. Ngoài Tòa án, không một cơ quan nào khác có quyền quyết định hình phạt. Toà án thông qua quá trình xét xử ra các bản án để xác định hình phạt cụ thể đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. - Hình phạt chỉ áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội Về nguyên tắc, hình phạt chỉ áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. BLHS không cho phép áp dụng hình phạt đối với người thân của người phạm tội hoặc chấp hành hình phạt thay cho người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội cho dù sự chấp hành thay này là hoàn toàn tự nguyện [8, tr.286]. 7
  14. Như vậy, hình phạt là một hình thức phổ biến nhất của trách nhiệm hình sự, là phương tiện để đạt được mục đích của trách nhiệm hình sự [13, tr.7] và là cách thức thể hiện sự xử sự của Nhà nước đối với các hành vi phạm tội. Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; đồng thời giáo dục những người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm (Điều 31 BLHS năm 2015). 1.1.2. Khái niệm quyết định hình phạt Bên cạnh các khái niệm cơ bản của luật hình sự như tội phạm, hình phạt thì “quyết định hình phạt” cũng được xem là một trong những khái niệm quan trọng, thể hiện tập trung nhất chính sách hình sự của Nhà nước. Quyết định hình phạt có căn cứ, đúng pháp luật, công bằng không chỉ là tiền đề, điều kiện để đạt được mục đích của hình phạt mà còn góp phần tích cực vào công cuộc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Mặc dù là một khái niệm quan trọng nhưng cho tới nay, khái niệm “quyết định hình phạt” mới chỉ được nghiên cứu dưới góc độ khoa học luật hình sự mà chưa được định nghĩa chính thống trong các văn bản pháp luật hình sự. Tác giả Đinh Văn Quế cho rằng: “Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức hình phạt bao nhiêu phải tuân thủ theo những quy định của Bộ luật hình sự” [21, tr.88]. Tương tự, các tác giả của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng đưa ra định nghĩa về quyết định hình phạt như sau: “Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt (đối với loại hình phạt có các mức khác nhau) trong phạm vi luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự” [8, tr.315]. Do đó, quyết định hình phạt này chỉ đặt ra đối với các trường hợp cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với chủ thể chịu trách nhiệm 8
  15. hình sự, không áp dụng đối với các trường hợp chủ thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt. Bên cạnh việc định nghĩa nội dung quyết định hình phạt dưới góc độ luật hình sự, khái niệm này còn được giải thích dưới khía cạnh luật tố tụng hình sự. Tác giả Chu Thị Trang Vân cho rằng: “Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự tương ứng với cấu thành tội phạm cụ thể để áp dụng với người phạm tội, thể hiện trong các bản án phạm tội” [39, tr.73]. Có nghĩa là, quyết định hình phạt trong phạm vi luật tố tụng hình sự được xem là hoạt động của Tòa án trong giai đoạn xét xử. Như vậy, mặc dù có những cách định nghĩa khác nhau nhưng khái niệm quyết định hình phạt vẫn bao hàm nội dung cơ bản là việc lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. Nếu khung hình phạt quy định nhiều loại hình phạt khác nhau thì quyết định hình phạt là sự lựa chọn một hình phạt cụ thể trong phạm vi pháp luật cho phép để áp dụng đối với người phạm tội. Chẳng hạn, trong trường hợp điều luật quy định hình phạt chính là tù chung thân hoặc tử hình thì quyết định hình phạt lúc này thực chất là việc lựa chọn một loại hình phạt cụ thể để áp dụng chứ không phải chọn mức hình phạt cụ thể trong khung hình phạt. Ngược lại, nếu chế tài được quy định chỉ có một loại hình phạt và có các mức khác nhau thì quyết định hình phạt trong trường hợp này là xác định mức hình phạt trong phạm vi khung hình phạt được quy định. Ví dụ, khoản 1 Điều 141 BLHS năm 2015 quy định “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”. Trong trường hợp một người phạm tội hiếp dâm theo quy định này thì quyết định hình phạt lúc này thực chất là lựa chọn mức hình phạt cụ thể trong khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm để áp dụng đối với người đó sao cho 9
  16. phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội. Quyết định hình phạt bao gồm cả việc quyết định hình phạt chính và quyết định hình phạt bổ sung, tuy nhiên, nội dung quan trọng trong quyết định hình phạt của Tòa án vẫn là quyết định hình phạt chính. Như vậy, trên cơ sở nghiên cứu nội dung, bản chất quyết định hình phạt và các quan điểm của các nhà khoa học khác nhau, tác giả luận văn đưa ra khái niệm về quyết định hình phạt như sau: “Quyết định hình phạt là hoạt động của Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung) trong phạm vi luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu trách nhiệm hình sự”. 1.1.3. Khái niệm quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục Từ những phân tích về khái niệm quyết định hình phạt, có thể khẳng định rằng giữa hình phạt và quyết định hình phạt luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quyết định hình phạt là nhân tố quan trọng đóng vai trò cầu nối giữa tội phạm và hình phạt. Việc định tội danh đúng sẽ tạo tiền đề cho quyết định hình phạt đúng và quyết định hình phạt đúng sẽ tạo cơ sở để đạt được mục đích của hình phạt. Hiện nay, trong BLHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành không đưa ra định nghĩa về các tội xâm phạm tình dục. Tuy nhiên, theo Từ điển tiếng Việt, xâm phạm là “động chạm đến quyền lợi của người khác” [40, tr.1144], còn tình dục là “nhu cầu phát triển tự nhiên của con người có tính giao” [40, tr.996]. Như vậy, xét về mặt từ vựng, xâm phạm tình dục là hành vi động chạm đến quyền tự do, quyền phát triển tự nhiên của con người về quan hệ có tính giao. Do đó, “các tội xâm phạm tình dục là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm và tự do tình dục của con người, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt tương xứng” [15, tr.18]. 10
  17. Trong BLHS năm 2015, các tội xâm phạm tình dục được quy định từ Điều 141 đến Điều 147 Chương XIV với 7 tội danh gồm: Tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm. So với BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì quy định về các tội xâm phạm tình dục của BLHS năm 2015 đã quy định thêm 01 tội danh đó là tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147). Bên cạnh đó, quy định của BLHS năm 2015 cũng có nhiều điểm tiến bộ hơn khi cụ thể hóa độ tuổi của nạn nhân ngay tại tên điều luật. Đó là việc sửa đổi tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112 BLHS 1999) thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); sửa đổi tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114 BLHS 1999) thành tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); sửa đổi tội giao cấu với trẻ em (Điều 115 BLHS 1999) thành tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); và sửa đổi tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116 BLHS 1999) thành tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146). Bên cạnh đó, một điểm đặc thù của các tội xâm phạm tình dục là chủ thể chịu trách nhiệm hình sự phải là người phạm tội chứ không thể là pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 76 BLHS năm 2015). Căn cứ theo quy định về hệ thống hình phạt trong phần chung và các Điều 141 đến Điều 147 của BLHS năm 2015, hình phạt chính đối với các tội xâm phạm tình dục chủ yếu là hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt thấp nhất là 6 tháng tù (Điều 146, 147) và cao nhất lên đến 20 năm tù. Một số tội có tính chất nguy hiểm cao có thể bị áp dụng hình phạt tù chung thân như tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và thậm chí là chung thân hoặc tử hình như tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Như vậy, đối với các tội xâm phạm tình dục, cảnh cáo, phạt tiền, và cải tạo không giam giữ không được quy định làm hình phạt chính và chỉ có hình phạt tử hình ở duy nhất tội hiếp dâm người 11
  18. dưới 16 tuổi. Ngoài ra, người phạm các tội xâm phạm tình dục còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định với thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Nếu là người nước ngoài phạm tội thì có thể bị áp dụng hình phạt trục xuất theo Điều 37 BLHS năm 2015. Như vậy, quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục là hoạt động của Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung) trong phạm vi quy định tại các Điều 141 đến Điều 147 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để áp dụng đối với người phạm tội phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. 1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục đúng Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án được thực hiện sau khi đã xác định được tội danh để định ra biện pháp xử lý tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị cáo đã thực hiện [18, tr.63]. Vì vậy, hoạt động quyết định hình phạt có liên quan chặt chẽ với việc định tội danh. Xác định đúng tội danh đối với các hành vi xâm phạm tình dục là tiền đề căn bản cho việc quyết định hình phạt đúng. Bởi lẽ, khi định tội danh đúng tức là đã xác định được loại hình phạt cần áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Cho nên, quyết định hình phạt đúng không chỉ là cơ sở để đạt được mục đích của hình phạt mà còn có ý nghĩa quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống các tội phạm xâm phạm tình dục. Thứ nhất, quyết định hình phạt đúng là cơ sở để đạt được mục đích của hình phạt Điều 31 BLHS năm 2015 quy định: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”. Do đó, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử phải 12
  19. cân nhắc để lựa chọn được loại hình phạt và mức hình phạt tương xứng vừa bảo đảm mục đích trừng trị lẫn mục đích giáo dục của hình phạt. Nếu hình phạt được áp dụng chỉ thiên về mục đích trừng trị có thể làm người phạm tội nảy sinh tâm lý tiêu cực khi chấp hành, không thực sự nhận thức được lỗi lầm để có thái độ cải tạo. Ngược lại, nếu hình phạt được áp dụng mang nặng tính giáo dục mà không có tính trừng trị thì sẽ làm cho người phạm tội có thái độ coi thường pháp luật, không thể hiện được sự răn đe, phòng ngừa đối với những người có ý định phạm tội và làm suy giảm niềm tin của quần chúng nhân dân. Vì thế, Tòa án không được đề cao hay coi nhẹ bất kỳ mục đích nào của hình phạt mà phải đặt trong mối liên hệ tổng quát với các căn cứ quyết định hình phạt để có thể đưa ra một hình phạt cụ thể, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Thứ hai, quyết định hình phạt đúng có ý nghĩa tích cực đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm Đối với các tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm tình dục nói riêng, quyết định hình phạt đúng không chỉ là cơ sở để đạt được mục đích của hình phạt mà còn tác động tích cực tới công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Hai yếu tố quan trọng nhất để đạt được mục đích của hình phạt là hoạt động lập pháp và hoạt động áp dụng pháp luật (tức là định tội danh và quyết định hình phạt). Các quy định của BLHS dù có hoàn thiện đến đâu cũng chỉ có ý nghĩa khi các hình phạt trong thực tế được quyết định đúng và việc Tòa án quyết định hình phạt đúng sẽ là tiền đề cho việc chấp hành hình phạt. Nếu Tòa án quyết định một hình phạt thỏa đáng, hợp tình, hợp lý đối với người phạm tội thì sẽ có tác dụng giáo dục sâu rộng trong quần chúng nhân dân, làm cho quần chúng thấy được sự nghiêm minh của pháp luật để từ đó tự giác tuân thủ pháp luật, tham gia tích cực vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Ngược lại, nếu Tòa án quyết định hình phạt không đúng, không tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội hoặc không phù hợp với các tình tiết nhân thân người phạm tội thì sẽ tạo nên dư luận xã hội không tốt, làm giảm niềm tin của quần chúng nhân 13
  20. dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, không phát huy được sự tham gia của quần chúng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là đối với các tội xâm phạm tình dục. 1.3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục Ngành luật hình sự được xây dựng dựa trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là những tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Hiện nay, có những quan điểm còn khác nhau về hệ thống các nguyên tắc của ngành luật hình sự [8, tr.22-23] tuy nhiên, đa số những quan điểm này đều xác định những nguyên tắc cơ bản của ngành luật hình sự như: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, nguyên tắc nhân đạo và nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự... Việc tuân thủ chặt chẽ những nguyên tắc trên sẽ giúp cho ngành luật hình sự thực hiện được các chức năng của mình. Quyết định hình phạt là một hoạt động quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Do đó, hoạt động quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục nói riêng đòi hỏi Tòa án cũng phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự, bao gồm: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự. Việc tuân thủ các nguyên tắc này không chỉ đảm bảo cho Tòa án thực hiện hoạt động quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục không chỉ công minh, đúng pháp luật và đạt được mục đích của hình phạt mà còn góp phần nâng cao uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật. 1.3.1. Nguyên tắc pháp chế Nguyên tắc pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt của cả hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và ngành luật hình sự nói riêng. Nội dung của nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự thể hiện ở chỗ tất cả những vấn đề liên quan đến tội phạm và hình phạt đều phải được quy định cụ thể, rõ ràng trong văn bản quy phạm pháp luật hình sự; việc xác định tội phạm và hình 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2