Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên
lượt xem 6
download
Luận văn nghiên cứu về những vấn đề lý luận và pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm; Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên (2016 – 2020); Các giải pháp bảo đảm quyết định đúng hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM ĐÕ VĂN MƯỜI HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ VĂN MƯỜI LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ KHÓA x Hà Nội, 1năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ VĂN MƯỜI QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN ĐIỆP Hà Nội, năm 2021 2
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của luận văn chưa từng được công bố trong các công trình khác. Ngày 08 tháng 02 năm 2021 Tác giả luận văn 3
- MỤC LỤC Trang Phần Mở đầu 7 1. Tính cấp thiết của đề tài 7 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 9 10 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 11 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 11 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 11 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 12 7. Kết cấu luận văn 12 Chương 1 Những vấn đề lý luận và pháp luật về hình phạt trong trường hợp đồng phạm 12 1.1. Những vấn đề lý luận về hình phạt trong trường hợp 13 đồng phạm 1.1.1. Khái niệm hình phạt trong trường hợp đồng phạm 13 1.1.1.1. Khái niệm về hình phạt 13 1.1.1.2. Khái niệm vụ án đồng phạm 15 1.1.2 Đặc điểm của quyết định hình phạt 21 1.1.2.1. Hình phạt trong trường hợp đồng phạm là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước do Tòa án nhân dân tiến 21 hành mà trực tiếp là Hội đồng xét xử. 1.1.2.2. Việc tuyên hình phạt trong trường hợp đồng phạm phải được quyết định tại phiên tòa xét sử sơ thẩm vụ án hình 22 sự 1.1.2.3. Việc áp dụng hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự của Tòa án được tiến 23 hành theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ 1.1.2.4. Kết quả áp dụng hình phạt trong trường hợp đồng phạm khi đã có hiệu lực pháp luật, có tính bắt buộc thực hiện, 23 được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước 1.1.3. Ý nghĩa của hình phạt trong trường hợp đồng phạm 23 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các hình phạt trong trường hợp đồng phạm 24 1.2.1. Quy định về thẩm quyền quyết định hình phạt trong 24 trường hợp đồng phạm của Tòa án nhân dân cấp huyện 1.2.2. Quy định của pháp luật hình sụ về loại người đồng 25 4
- phạm 1.2.3. Quy định về nguyên tắc áp dụng hình phạt trong 31 trường hợp đồng phạm 38 Kết luận chương 1 Chương 2 Thực tiễn áp dụng hình phạt trong trường 39 hợp đồng phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên 2.1. Khái quát công tác thụ lý xét xử các vụ án hình sự có 39 đồng phạm của Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên 2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Văn 39 Lâm 2.1.2. Công tác thụ lý xét xử các vụ án hình sự có đồng 40 phạm của Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên 2.2. Thực trạng quyết định hình phạt các trường hợp đồng 49 phạm 54 2.2.1. Kết quả đạt được 62 2.2.2. Hạn chế, thiếu sót 63 2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiết sót 65 Kết luận chương 2 Chương 3 Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt 65 trong trường hợp đồng phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên 65 3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật 71 3.2. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật 72 3.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn xét xử 3.4. Nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt trong trường 73 hợp đồng phạm của Hội đồng xét xử 3.5. Các giải pháp khác 76 Kết luận Chương 3 77 Kết luận 77 5
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCT : Bộ Chính trị BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CP : Chính phủ CT : Chỉ thị ĐCS : Đảng Cộng sản HĐXX : Hội đồng xét xử HP : Hình phạt KSV : Kiểm sát viên KSXX : Kiểm sát xét xử NN : Nhà nước PL : Pháp luật TAND : Toà án nhân dân TP : Thẩm phán VAĐP : Vụ án đồng phạm VAHS : Vụ án hình sự VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa XXST : Xét xử sơ thẩm 6
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm nói riêng là một trong những hoạt động tố tụng đặc biệt quan trọng, vì đây là kết thúc tất cả các giai đoạn tố tụng, từ khởi tố, điều tra; truy tố và xét xử trong vụ án hình sự. Quyết định hình phạt đúng là góp phần xây dựng nền tư pháp văn minh, tiến bộ, dân chủ, vì công lý, vì con người; góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra. Những năm qua, công tác xét xử của Tòa án các cấp nói chung đã có những chuyển biến tích cực. Về cơ bản, hệ thống Tòa án nhân dân đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, chất lượng hoạt động xét xử đã được nâng lên, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ chung của hệ thống Tòa án, Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên đã thực hiện tốt các chính sách của Đảng, quy định của pháp luật, đặc biệt là trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự có đồng phạm. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó có hạn chế về quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm nói riêng, cụ thể như đánh giá chưa đúng tính chất và vai trò của các trường hợp đồng phạm trong vụ án hình sự dẫn đến bị cáo giữ vai trò đầu cho hưởng án treo, bị cáo giữ vai trò thứ yếu lại áp dụng hình phạt tù; quyết định hình phạt đối với bị cáo quá nhẹ hoặc quá nặng; phạt tù nhưng cho hưởng án treo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tiền ... quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt chưa đúng quy định của pháp luật; một số vụ án đồng phạm đã bị hủy, bị cải sửa, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của bị cáo, bị hại của các chủ thể tham gia tố tụng khác cũng như ảnh hưởng tới uy tín của Tòa án. 7
- Để nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự nói chung, quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm nói riêng, không xử oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia tố tụng, đáp ứng được yêu cầu về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi cần phải làm rõ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan. Đặc biệt là những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng hình phạt trong xét xử các vụ án hình sự có đồng phạm. Việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động áp dụng và xây dựng pháp luật. Từ những lý do trên học viên chọn Đề tài “Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên” làm luận văn thạc sĩ là có tính cấp thiết, thời sự khoa học và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Học viên đã nghiên cứu và tham khảo một số công trình khoa học như sau: Luận án tiến sĩ luật học: Đồng phạm trong luật Hình sự Việt Nam, của tác giả Trần Quang Tiệp, trường Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2000. Luận án tiến sĩ luật học: Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm theo luật Hình sự Việt Nam, của tác giả Phí Thành Chung, trường Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2016. Luận văn thạc sĩ luật học: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, của tác giả Lê Văn Nhàn, Học viện Khoa học xã hội 2016. Luận án tiến sĩ luật học: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của các Tòa án quân sự, của tác giả Trương Đức Thuận, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội 2020. 8
- Luận văn thạc sĩ luật học: Quyết định hình phạt trong đồng phạm, của tác giả Nguyễn Thị Bình, trường Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2010. Luận văn thạc sĩ luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo Luật hình sự Việt Nam, của tác giả Phí Thành Chung, trường Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2010. Luận văn thạc sĩ luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những loại người đồng phạm trong luật Hình sự Việt Nam, của tác giả Mai Lan Ngọc, trường Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2012. Luận văn thạc sĩ luật học: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật Hình sự Việt Nam, trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội, của tác giả Lê Thị Loan, trường Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2015 Luận văn thạc sĩ luật học: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật Hình sự Việt Nam, trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang, của tác giả Nguyễn Thị Quý, trường Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa luật – 2016. Thông qua công tác nghiên cứu, tổng hợp các công trình khoa học nêu trên, học viên nhận thấy các kết quả nghiên cứu của những đề tài nêu trên mới chỉ đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt trong xét xử các vụ án hình sự đồng phạm theo vai trò của từng trường hợp đồng phạm như: Người thực hành, Người giúp sức ... hoặc các vụ án có đồng phạm về từng tội danh đơn lẻ như Tội trộm cắp tài sản ... chưa đi sâu nghiên cứu việc áp dụng hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở TAND cấp huyện. Đồng thời chưa có đề tài nào đề cập đến địa bàn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Vì vậy, đề tài “Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên” là đề tài mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có đồng 9
- phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong vụ án đồng phạm theo pháp luật hình sự nước ta; Nêu và phân tích thực tiễn áp dụng hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Thông qua đó đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quyết định hình phạt trong vụ án đồng phạm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Học viên nghiên cứu các cơ sở, các luận điểm, quan điểm khoa học và các quy định của pháp luật hình sự, cũng như thực tiễn quyết định hình phạt đối với các trường hợp đồng phạm trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có đồng phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự, gồm luật hình sự và tố tụng hình sự. - Nghiên cứu việc quyết định hình phạt trong các vụ án hình sự có đồng phạm được xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn 2016 - 2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 10
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, trong đó chủ yếu là các phương pháp phân tích - tổng hợp, điều tra, khảo sát thực tế và phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần thống nhất nhận thức những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại Tòa án nhân dân nói chung và tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên nói riêng. 6.2. Về ý nghĩa thực tiễn - Luận văn góp phần củng cố lý luận áp dụng pháp luật về hình phạt nói chung và hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Tòa án nhân dân cấp huyện. - Luận văn làm sáng tỏ thực trạng áp dụng pháp luật về hình phạt trong xét xử các vụ án hình sự có đồng phạm của Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, rút ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế. - Xác định quan điểm và giải pháp cơ bản, khả thi nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hình phạt trong các trường hợp đồng phạm tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung và ở Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết. Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm. Chương 2: Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên (2016 – 2020). 11
- Chương 3: Các giải pháp bảo đảm quyết định đúng hình phạt trong trường hợp đồng phạm tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM 1.1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm 1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm 1.1.1.1. Khái niệm về quyết định hình phạt Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính nguy hiểm cao trong xã hội, tồn tại trong xã hội, mang tính lịch sử và bản chất giai cấp sâu sắc, đấu tranh với tội phạm là nhiệm vụ tất yếu khách quan đặt ra cho mọi nhà nước, cho dù nhà nước đó là kiểu nhà nước nào. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của được nhà nước áp dụng và nó trở thành công cụ hữu hiệu trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, tuy nhiên việc quyết định hình phạt loại nào, mức độ bao nhiêu phải căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi và quy định của pháp luật. Tại Điều 50 BLHS năm 2015 quy định: “1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. 2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội”. Tại Điều 58 BLHS năm 2015 quy định: “Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó”. 12
- Trong BLHS 1999 và BLHS 2015 đều không quy định khái niệm quyết định hình phạt là thế nào, các văn bản hướng dẫn BLHS cũng không nêu khái niệm mà chỉ quy định các căn cứ để quyết định hình phạt. Trong lý luận của pháp luật hình sự có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, nội dung và mục đích của quyết định hình phạt. Tuy nhiên, về cơ bản quyết định hình phạt được coi là lựa chọn hình phạt - công cụ để đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Đây là một quan niệm tiến bộ và nhân đạo, lựa chọn hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm mục đích giáo dục, cải tạo và ngăn ngừa tội phạm. Quan niệm này về quyết định hình phạt thể hiện rõ nét phương châm kết hợp cưỡng chế và giáo dục cải tạo trong chính sách hình sự, cưỡng chế là không thể thiếu nhưng giáo dục, thuyết phục cũng có vai trò rất quan trọng, nó có ưu thế hơn cưỡng chế ở khả năng làm cho con người có thể tự nguyện tuân theo và trao cơ hội cho họ sửa chữa những lỗi lầm vi phạm, như vậy sự đồng tình đó mới thực sự bền vững. Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nguyên tắc nhân đạo XHCN, kế thừa truyền thống văn hoá, đạo đức dân tộc, tiếp thu những tinh hoa tiến bộ của luật hình sự thế giới; đồng thời, có xét đến thực trạng và yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, lựa chọn loại và mức độ hình phạt, biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước do Toà án áp dụng đối với người phạm tội. Theo Điều 30 BLHS năm 2015: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”. Theo đó, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, có nhiều biện pháp cưỡng chế như xử phạt hành chính, buộc bồi thường thiệt hại về tài sản, xử lý kỷ luật... Tuy nhiên, so với các biện pháp cưỡng chế khác thì hình phạt trong hình sự là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, vì: hình phạt đánh vào lợi ích kinh tế, hình phạt hạn chế hoặc tước bỏ quyền tự do thân thể, hình phạt được ghi vào lý lịch tư 13
- pháp, đặc biệt hơn là hình phạt còn có thể loại bỏ quyền được sống của người phạm tội (quyền quan trọng nhất của con người). Về bản chất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế do cơ quan có thẩm quyền quyết định là Tòa án. Thông qua bản án, quyết định của Tòa án, đối tượng phải chấp hành hình phạt là người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, những đối tượng này sẽ bị tước bỏ hoặc bị hạn chế quyền, lợi ích của mình. Chỉ có chế tài hình sự thì một người mới bị bắt giam, bị tước quyền tự do, bị cải tạo hoặc bị tước cả quyền sống của mình. Cơ quan có thẩm quyền quyết định hình phạt là Tòa án. Tòa án ở đây được hiểu là Tòa án có thẩm quyền đối với từng vụ án cụ thể theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Vì những tính chất đặc thù của tội phạm (chỉ được quy định trong Bộ luật Hình sự) nên việc áp dụng chế tài hình phạt so với các chế tài khác không nhiều. Do đó, quá trình để quyết định hình phạt cụ thể đối với tội phạm thường khó khăn, phức tạp hơn so với quá trình áp dụng những chế tài khác. Ngoài quy định trong Bộ luật Hình sự thì không có bất kì một đạo luật nào được quy định về tội phạm, hình phạt và quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt đó phải tương xứng với tính chất hoặc mức độ nguy hiểm cho xã hội của người hoặc pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, các nhà làm luật quy định các loại hình phạt khác nhau cho mỗi hành vi phạm tội khác nhau và nhiều khi ngay trong cùng một tội cũng có các hình phạt khác nhau và quy định các căn cứ quyết định hình phạt để áp dụng tương ứng với các mức độ cụ thể. Từ những phân tích đánh giá nêu trên, theo học viên Khái niệm quyết định hình phạt là: Quyết định hình phạt là lựa chọn loại và mức độ biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân phạm tội. 1.1.1.2. Khái niệm vụ án đồng phạm 14
- Theo từ điển tiếng Việt: “Đồng”, có nghĩa là cùng như nhau, không thể khác được; Còn “Phạm”, nghĩa là làm tổn hại đến cái cần tôn trọng, mắc phải điều cần tránh. Và “Đồng phạm” nghĩa là cùng phạm tội. Qua nghiên cứu, tổng hợp, pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, học viên thấy: Tại đất nước Thụy Điển, quy định về người đồng phạm là người phối hợp với người khác cùng thực hiện một hành vi phạm tội hoặc một người tìm cách xúi giục người khác phạm tội hoặc đề nghị người khác phạm tội. “Khi xét xử từng người đồng phạm phải căn cứ vào việc người đó tham gia thực hiện tội phạm do cố ý hay vô ý” (Điều 4 - Chương 23 BLHS Thụy Điển). Theo đó luật hình sự Thụy Điển, xác định đồng phạm có cả trong những tội phạm thực hiện do lỗi vô ý. Trong khi Bộ luật hình sự nước Cộng hòa Pháp lại có quy định về chính phạm và đồng phạm (tòng phạm). Trong đó, chính phạm là người thực hiện các hành vi bị coi là tội phạm hoặc chuẩn bị thực hiện một trọng tội hoặc khinh tội trong trường hợp luật quy định (Điều 121.4). Người có ý thức giúp đỡ hoặc trợ lực và đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị hoặc thực hiện tội phạm bị coi là đồng phạm của một trọng tội hoặc khinh tội. Người dùng tặng vật, hứa hẹn, đe dọa, dùng mệnh lệnh, lạm dụng chức vụ hoặc quyền hạn để xúi giục hoặc có các chỉ dẫn để cho người khác thực hiện tội phạm cũng bị coi là đồng phạm (Điều 121.7). Theo Luật hình sự Trung Quốc năm 1979 tại Điều 22 lại quy định: “Hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm”. Tại Điều 33 Luật hình sự của nước Nga năm 1996 cũng có quy định: “Hai hay nhiều người cùng cố ý thực hiện một tội cố ý là đồng phạm” [1998), “Luật hình sự của một số nước trên thế giới”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (Chuyên đề). Cũng giống như các nước, nêu ở phần trên, pháp luật hình sự cũng có những quy định và cách hiểu về Đồng phạm theo giai đoạn lịch sử khác nhau, cụ thể: 15
- Theo Quốc triều hình luật năm 1428 (thời nhà Lê – Lê Thánh Tông), sau này được gọi là Luật Hồng Đức và Lê triều hình luật, có dùng thuật ngữ Đồng mưu, để nói về Đồng phạm: Đồng mưu đánh người bị thương thì kẻ nào đánh nhiều đòn nặng là thủ phạm; kẻ chủ mưu cũng phải cùng một tội; còn người tòng phạm thì được giảm một bậc; đánh đến chết thì xem xét chết vì thương tích nào, kẻ đánh thương tích ấy nặng tội. Nếu không xét được rõ ràng thì kẻ hạ thủ sau cùng xử nặng tội. Nếu đánh loạn xạ không biết ai đánh trước sau, nhiều ít thì kẻ chủ mưu nặng tội nhất, còn kẻ khác đều xử giảm tội một bậc [NXB Chính trị quốc gia 1995, tr. 170-171]. Tại Sắc lệnh số 223-SL ngày 17/11/1946 quy định: “Người phạm tội đưa hối lộ và nhận hối lộ có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là 3/4 tài sản. Những người đồng phạm khác cũng bị xử phạt như trên’’. Tại thời điểm này mặc dù các nhà làm luật chưa dùng thuật ngữ đồng phạm nhưng các nhà làm luật đã giải thích: khi xét xử cần phân biệt giữa các hình thức đồng phạm khác nhau, phân biệt giữa hành vi “oa trữ” tức là hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do chiếm đoạt được mà có là cộng phạm (nếu có hứa hẹn trước) với hành vi “oa trữ” không là cộng phạm mà là một hành vi phạm tội riêng biệt (nếu không có hứa hẹn trước). Tại Hội nghị tổng kết công tác xét xử năm 1963 do Tòa án nhân dân tối cao tổ chức tại Hà Nội có nêu: Coi là cộng phạm nếu hai hoặc nhiều người cùng chung ý chí, cùng chung hành động, nghĩa là hoặc tổ chức, hoặc xúi giục, hoặc giúp sức hoặc trực tiếp cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội để cùng đạt tới kết quả phạm tội, theo học viên tại Hội nghị này mặc dù Tòa án nhân dân tối cáo đưa ra được một số dấu hiệu của đồng phạm như: tổ chức, xúi giục, giúp sức hoặc trực tiếp cùng tham gia thực hiện hành vi phạm tội… Tuy nhiên chưa đầy đủ [Lv Bùi Thị Mong ,tr12]. Còn tại Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 lại quy định về các loại người đồng phạm và phân hóa trách nhiệm hình sự khá rõ đối với từng người người đồng phạm, tùy thuộc tính chất và mức độ tham gia 16
- phạm tội của họ. Điều 2 Pháp lệnh trên quy định nguyên tắc trừng trị bọn phản cách mạng là “nghiêm trị bọn chủ mưu, bọn cầm đầu, bọn thủ ác, bọn ngoan cố chống lại cách mạng; khoan hồng đối với những kẻ bị ép buộc, bị lừa phỉnh, lầm đường và những kẻ thật thà hối cải, giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt cho những kẻ lập công chuộc tội”. Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng đã phân hóa trách nhiệm hình sự của các loại người: chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, xúi giục, người hoạt động đắc lực, người tham gia, giúp đỡ. Một là, bọn cầm đầu, chỉ huy, bọn có tội ác nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến tù chung thân hoặc bị xử tử hình; Hai là, bọn tham gia thì bị phạt tù từ 5 năm đến 12 năm; Ba là, kẻ nào tiếp tế, chỉ đường, giúp đỡ cho bọn nói trên hoạt động thì bị phạt tù từ 2 năm đến 10 năm. Tại Bộ luật Hình sự 1985, các nhà làm luật đã có riêng 01 Điều luật để quy định về chế định đồng phạm, cụ thể tại khoản 1 Điều 17 BLHS 1985 có quy định: “Hai hoặc nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm”. Tại khoản 1 Điều 20 BLHS 1999 cũng như tại khoản 1 Điều 17 BLHS 2015 các nhà làm luật đều thống nhất và đưa ra quy định: Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Như vậy trong cả hai BLHS Việt Nam gần nhất đều xác định, đồng phạm đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều người có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Những người này phải cố ý cùng thực hiện tội phạm cụ thể. Như vậy luật hình sự Việt Nam không thừa nhận trường hợp đồng phạm có lỗi vô ý. Việc quy định “cố ý cùng” là hoàn toàn chính xác phản ánh chính xác mối liên kết, quan hệ giữa những người phạm tội, nếu quy định “cùng cố ý” thì chưa thể phản ánh chính xác được trong vụ án có đồng phạm. Ví dụ hai người cùng vào kho công ty trộm cắp tài sản nhưng không liên quan gì đến nhau, cả hai đều cùng cố ý chiếm đoạt tài sản, nhưng mỗi người thực hiện một hành vi trộm cắp 17
- riêng lẻ. Ngược lại “cố ý cùng” nghĩa là hai người trở lên đều cố ý và cùng thực hiện một tội phạm. Dấu hiệu “cùng thực hiện tội phạm" đòi hỏi mỗi người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong bốn loại hành vi sau: hành vi thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục thực hiện tội phạm và hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Tương ứng với bốn loại hành vi tham gia này là bốn loại người đồng phạm: 1) Người tổ chức là người đồng phạm giữ vai trò đặc biệt trong các vụ đồng phạm, thể hiện ở vai trò liên kết các cá nhân để hình thành nhóm phạm tội hoặc điều khiển hoạt động của nhóm phạm tội; 2) Người xúi giục là người đồng phạm có hành vi cố ý tác động đến nhận thức và ý chí của người khác, khiến người này phạm tội; 3) Người giúp sức là người đồng phạm đã cố ý tạo ra những điều kiện vật chất hay tinh thần cho việc thực hiện tội phạm; 4) Người thực hành là người đồng phạm đã trực tiếp thực hiện tội phạm. Họ có thể tự mình thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm hoặc chỉ có hành động (cố ý) tác động đến người khác để người này thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Nhưng bản thân những người bị tác động đã thực hiện hành vi đó lại không phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người đã tác động họ. Ví dụ: Thuê trẻ em chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự đốt nhà người khác; kích động người không có năng lực trách nhiệm hình sự (người bị bệnh tâm thần) đánh người khác bị thương tích nặng... dấu hiệu “cố ý cùng” đòi hỏi những người đồng phạm đều cố ý cũng như đều biết và mong muốn sự cố ý của người khác khi cùng thực hiện tội phạm. Đồng phạm của tội phạm có dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc còn đòi hỏi những người đồng phạm có cùng mục đích này. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lí xác định trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi phạm tội được mô tả trong cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm của các tội cụ thể cùng với quy định chung về phạm tội chưa đạt 18
- (Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) và về chuẩn bị phạm tội (Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) là cơ sở pháp lí xác định trách nhiệm hình sự của phạm tội chưa đạt ở các tội cụ thể và của chuẩn bị phạm tội ở một số tội cụ thể theo quy định. Ngoài các trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự như vậy, luật hình sự còn xác định trách nhiệm hình sự đối với ba loại hành vi liên quan trực tiếp với hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm của các tội cố ý. Đó là hành vi tổ chức, hành vi xúi giục và hành vi giúp sức cho hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Như vậy, đổi với các tội phạm cố ý, trách nhiệm hình sự được đặt ra cho: - Người thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội phạm) và người này được gọi là người thực hiện tội phạm; - Người có hành vi tổ chức cho người khác thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội phạm và điều luật quy định về hành vi tổ chức thực hiện tội phạm) và người này được gọi là người tổ chức (thực hiện tội phạm); - Người có hành vi xúi giục người khác thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội phạm và điều luật quy định về hành vi xúi giục thực hiện tội phạm) và người này được gọi là người xúi giục (thực hiện tội phạm); - Người có hành vi giúp sức cho người khác thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự là cấu thành tội phạm và điều luật quy định về hành vi giúp sức thực hiện tội phạm) và người này được gọi là người giúp sức (thực hiện tội phạm). Hiện tại trong BLHS nước ta năm 2015 vẫn chưa có điều luật riêng quy định trực tiếp về các hành vi liên quan với hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (CTTP) mà phải chịu trách nhiệm hình sự (hành vi tổ chức, hành vi xúi giục và hành vi giúp sức thực hiện tội phạm). Các BLHS chỉ có điều luật quy định trường hợp phạm tội dưới hình thức đồng phạm là hình thức khác với trường 19
- hợp phạm tội riêng lẻ. Trong đó, điều luật quy định dấu hiệu của trường hợp phạm tội bị coi là đồng phạm và dấu hiệu của các loại người trong vụ đồng phạm là người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức và người thực hành. Còn trên thực tế có rất nhiều vụ án các đồng phạm cùng nhau thực hiện nhiều tội phạm. Từ các phân tích đánh giá nêu trên, theo học viên khái niệm đồng phạm: là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm hoặc nhiều tội phạm do Bộ luật Hình sự quy định. Trên thực tế BLHS Việt Nam năm 2015 mới quy định mới về chủ thể phạm tội là “pháp nhân thương mại” - đây là chủ thể đặc biệt chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp được Bộ luật này quy định, nên không xác định có đồng phạm đối với chủ thể phạm tội là pháp nhân. Do vậy, theo học viên khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạt, nên hiểu là: Khái niệm Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm: Là việc Tòa án lựa chọn loại và mức độ hình phạt, nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của hai người trở lên cố ý cùng thực hiện tội phạm. 1.1.2. Quyết định hình phạt đối với các loại người đồng phạm 1.1.2.1. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước do Tòa án nhân dân tiến hành mà trực tiếp là Hội đồng xét xử. - Quyền lực Nhà nước trong quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân, nghĩa là Tòa án là chủ thể được quyền quyết định hình phạt vì: Tòa án nhân dân là cơ quan được thành lập theo quy định của Hiến pháp, hoạt động mang tính đặc thù theo một trình tự pháp lý chặt chẽ; Tòa án thực hiện quyền lực nhà nước thông qua việc tổ chức các hoạt động giải quyết án hình sự. Chủ thể áp dụng và quyết định hình phạt trong hoạt động giải quyết án hình sự là Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán và HĐXX. Các Điều 44, 45, 46 BLTTHS 2015 đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Trong đó, có thể thấy chủ thể trực tiếp áp dụng pháp luật là HĐXX. Quyết định hình phạt trong 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 339 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 86 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 197 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Chứng cứ điện tử trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 116 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 152 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 150 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 191 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 129 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 51 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 134 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ thực tiễn Quân khu 7, Việt Nam
91 p | 64 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 54 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 75 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 67 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 63 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 50 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng án treo từ thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
76 p | 79 | 10
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn