intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

41
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước" trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu; Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu và thực tiễn thi hành tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước; Yêu cầu và giải pháp nâng chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ THỊ NỞ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI – 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ THỊ NỞ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VÕ THỊ KIM OANH HÀ NỘI – 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ luật học Võ Thị Kim Oanh. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Các giải pháp nêu trong luận văn được rút ra từ những cơ sở lý luận và quá trình nghiên cứu thực tiễn. Tác giả Đỗ Thị Nở
  4. LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và qua thực tiễn công tác, được sự hướng dẫn, giảng dạy của thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện của cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành luận văn thạc sỹ luật học. Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến: Các Thầy Cô Học viện, các giảng viên đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những tri thức, kinh nghiệm quý báo trong suốt thời gian học tập. Cám ơn Thư viện Học viện đã giúp đỡ trong quá trình tra cứu các tài liệu nghiên cứu, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành đã cung cấp số liệu thực tiễn trong giải quyết các vụ án xâm phạm sở hữu. Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện luận văn này. Đặc biệt, tôi xin dành sự kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến TS. Võ Thị Kim Oanh, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này. Tác giả luận văn Đỗ Thị Nở
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU .......................................................................................................................... 10 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu ...................................................................................................... 10 1.2. Phạm vi và nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu ............................................................................................ 23 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC ........................... 32 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm .............................................................................. 32 2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước ............................................. 46 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC .................................................................................................................... 63 3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu ............................................................................... 63 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu ......................................................................... 66 3.3 . Các giải pháp khác ............................................................................................ 70 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 78
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra HĐXX : Hội đồng xét xử TAND : Tòa án nhân dân THQCT : Thực hành quyền công tố TNHS : Trách nhiệm hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XPSH : Xâm phạm sở hữu
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Tỷ lệ số vụ án XPSH đã xét xử sơ thẩm/số thụ lý Tỷ lệ số vụ án XPSH bị VKSND huyện Chơn Thành 2.2 kháng nghị phúc thẩm Tỷ lệ Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung các vụ án 2.3 XPSH/số VKS truy tố 2.4 Tỷ lệ số vụ án XPSH bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy án Tỷ lệ số vụ án XPSH bị VKSND Tỉnh Bình Phước 2.5 kháng nghị
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chơn Thành là một huyện phía Tây Nam của tỉnh Bình Phước, là nơi có tuyến đường Quốc lộ 13 và 14 đi qua, nối dài với tuyến đường Hồ Chí Minh; là đường huyết mạch nối liền Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Nguyên và các tỉnh biên giới miền Đông Nam Bộ. Ngoài hai trục đường chính, huyện Chơn Thành còn có nhiều đường liên xã, kết nối thành một mạng lưới giao thông thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa trong và ngoài huyện. Huyện Chơn Thành là một trong những huyện đi đầu trong phát triển công nghiệp của tỉnh, kinh tế của huyện chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thu hút đầu tư phát triển mạnh về công nghiệp, dịch vụ. Công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm trong những năm qua đã có những bước phát triển lớn, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp, tăng nhanh về số vụ và số đối tượng phạm tội với tính chất, phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến tình hình chính trị, an ninh trật tự ở địa phương, mà còn trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của người dân. Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử là hai chức năng hiến định của VKSND, là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Trải qua 60 năm xây dựng và trưởng thành, Ngành kiểm sát nhân dân đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ pháp luật; đấu tranh phòng, chống tội phạm; đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, phát huy quyền dân chủ của công dân. Một trong những nội dung quan trọng được thể hiện ở nhiều nghị quyết của Đảng là nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có VKSND; hoạt động THQCT và kiểm sát xét xử của VKSND nhằm mục đích chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. 1
  9. Thực tiễn những năm gần đây, tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước liên tục diễn biến phức tạp, tăng nhanh về số vụ, số người phạm tội, phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhất là các vụ án liên quan đến xâm phạm sở hữu. Trải qua 18 năm kể từ khi thành lập cho đến nay, VKSND huyện Chơn Thành đã đạt nhiều thành tích đáng khích lệ trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự nói chung, xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu nói riêng đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, so với yêu cầu của Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì việc phòng, chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Một trong những nguyên nhân của hạn chế nêu trên là do chính sách hình sự, quy định của pháp luật về tố tụng hình sự có nhiều bất cập, thiếu tính đồng bộ, chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung; KSV khi THQCT trong giai đoạn xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ, từng vấn đề liên quan đến vụ án, chưa nắm vững các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của từng tội xâm phạm sở hữu, những vấn đề cần làm rõ trong vụ án xâm phạm sở hữu, xác định tội danh, tính chất, mức độ phạm tội, mức độ thiệt hại, các tình tiết khác liên quan đến vụ án; việc chuẩn bị nội dung đề cương xét hỏi không tập trung làm rõ các vấn đề liên quan cần chứng minh trong vụ án; dự thảo luận tội còn sơ sài; hoạt động tranh tụng của KSV với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác còn nhiều mặt hạn chế nên vẫn còn tình trạng án bị trả điều tra bổ sung, án hủy có trách nhiệm của VKS. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, phức tạp của công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa vi phạm pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công dân, với trách nhiệm là một cán bộ trong ngành, học viên nhận thấy việc chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự là cần thiết về lý 2
  10. luận cũng như thực tiễn, góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu là một đề tài rộng, nhận diện các đặc điểm đặc trưng của tội xâm phạm sở hữu là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Trong thời gian qua, có nhiều nhà khoa học pháp lý và người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu hoặc đề cập đến đề tài quyền công tố và thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung và vụ án xâm phạm sở hữu nói riêng, có thể nêu một số công trình tiêu biểu đó là: - Luận án tiến sĩ Luật học, “Quyền công tố ở Việt Nam” của Lê Thị Tuyết Hoa, (2005) [18]. Đã đề cập đến những vấn đề lý luận về quyền công tố của một số nước trên thế giới và trong TTHS ở Việt Nam, nêu lên thực trạng thực hành quyền công tố trong TTHS ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động công tố ở trước Tòa án. - Luận văn thạc sỹ Luật hình sự, “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta” của Lương Thúy Hà (2012) [14]. Đã đề cập đến những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố của VKSND, pháp luật về thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện. - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)”, của Dương Thị Thu Hòa (2015) ) [20]. Đã phân tích rõ thêm một số vấn đề chung về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. 3
  11. - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)” của Lê Thanh Hưng (2015) [21]. Đã đề cập một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố trong TTHS. Đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố ở địa bản tỉnh Đăk Nông và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố. - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong các vụ án hình sự đáp ứng yêu cầu áp dụng nguyên tắc tranh tụng ở Việt Nam hiện nay” của Bùi Thúy Hằng (2016) [16]. Đề cập đến cơ sở lý luận, thực trạng vấn đề năng lực tranh tụng của KSV thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tranh tụng của KSV thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự. - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, của Phan Vạn Quốc (2016) ) [33]. Đã phân tích rõ thêm lý luận chung về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, quy định của pháp luật và thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, đề ra giải pháp đảm bảo thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu. - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định”, của Nguyễn Hữu Phước (2016) [31]. Đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đánh giá thực trạng vấn đề này tại địa phương huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định và đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nội dung này tại địa phương. - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu theo tố tụng hình sự Việt Nam”, của Nguyễn Văn Điền (2017) ) [12]. Đã phân tích rõ thêm một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố, nội dung và thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố và những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu. 4
  12. - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi”, của Phan Thị Sa (2018) [43]. Đã phân tích rõ thêm một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thực trạng pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn quận Tân Phúc, Thành phố Hồ Chí Minh”, của Lê Trung Tiến (2018) [47]. Đã phân tích rõ thêm một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, quy định của pháp luật và thực trạng pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Đánh giá chứng cứ trong các vụ án về xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh”, của Nguyễn Thị Mỹ Hiệp (2018) ) [17]. Đã phân tích đánh giá rõ thêm những vấn đề lý luận về đánh giá chứng cứ; quy định của pháp luật về đánh giá chứng cứ và thực tiễn đánh giá chứng cứ trong xét xử sơ thẩm trong các vụ án về xâm phạm sở hữu. - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giải quyết vụ án sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thị Khánh Hòa (2020) [19]. - Luận văn thạc sĩ luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, của Lương Đức Huyên (2020) [23]. - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong điều tra các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, của Nguyễn Khánh Toàn (2020) [55]. 5
  13. Các đề tài khoa học cấp nhà nước có công trình "Cải cách hệ thống tư pháp Việt Nam"; đề tài khoa học cấp bộ: "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự"; đề tài khoa học cấp bộ: "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam hiện nay"; đề tài khoa học cấp bộ: "Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp". Một số giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: Giáo trình luật TTHS Việt Nam, Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, NXB. Đại học quốc gia, Hà Nội; Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác của Viện kiểm sát nhân dân qua 55 năm tổ chức và hoạt động, VKSND tối cao chủ biên, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015; Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, TS. Lê Hữu Thể, TS. Đỗ Văn Đương, ThS. Nguyễn Thị Thủy (đồng chủ biên), NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013; Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp, VKSND tối cao chủ biên, lưu hành nội bộ, 2012; v.v. Bên cạnh đó, có những bài viết liên quan đến THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như:“Về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử” của tác giả Lý Văn Chính, tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2006; “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”của tác giả Đỗ Văn Đương, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 7/2006; “Bàn về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự” của tác giả Nguyễn Đức Mai, tạp chí Tòa án nhân dân, số 17/2007; “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS hiện hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm” của tác giả Nguyễn Đức Mai, tạp chí Luật học, số 07/2008; “Hoàn thiện nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Lê Cảm, Tạp chí Kiểm sát, số 11/2011; “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng luận tội, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Xuân Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 5/2012; “Một số vấn đề về hoàn thiện quy định của BLTTHS về thủ tục xét xử sơ thẩm” của tác giả Trần Văn Độ, 6
  14. Tạp chí Kiểm sát, số 8/2012; “Đổi mới thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm theo hướng bảo đảm nguyên tắc tranh tụng” của tác giả Vũ Gia Lâm, Tạp chí Kiểm sát, số 21/2013; “Nâng cao chất lượng xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 5/2014; “Vướng mắc khi thực hành quyền công tố trong giải quyết nguồn tin về tội phạm lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông” của tác giả Nguyễn Quốc Hân, Tạp chí Kiểm sát, số 4/2021; “Kinh nghiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của đồng tác giả Lê Thị Thùy Hương, Nguyễn Thu Quý, Tạp chí Kiểm sát số 13/2021, v.v... Trên cơ sở kết quả khảo sát cho thấy, các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ một số vấn đề liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các vấn đề lý luận, thực tiễn cũng như định hướng, giải pháp giải quyết vấn đề. Việc nghiên cứu về THQCT của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm đối với các vụ án xâm phạm sở hữu nói riêng chưa mang tính hệ thống, chưa được nghiên cứu một cách toàn diện. Thực hiện nghiên cứu về công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước là rất cần thiết, trên cơ sở đó sẽ đưa ra các giải pháp để tiếp tục tăng cường hoạt động này nhằm đáp ứng được yêu cầu của địa phương và tiến trình cải cách tư pháp hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Đề tài góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu; trên cơ sở nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, những nội dung cơ bản của hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu từ thực tiễn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, làm rõ những ưu, khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của nước ta hiện nay. 7
  15. - Nhiệm vụ nghiên cứu: + Nghiên cứu Luật Tổ chức VKSND, Bộ luật tố tụng hình sự nhằm là rõ cơ sở lý luận về quyền và chức năng công tố. + Nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV khi THQCT tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. + Đánh giá thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. + Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của việc thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung và vụ án xâm phạm sở hữu nói riêng trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và thực trạng về công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu công tác thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu theo quy định của BLTTHS về vấn đề này; thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước trong thời gian 05 năm, từ năm 2016 – 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu trên cơ sơ vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; tư tưởng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử, đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tác giả luận văn kết hợp nhiều phương pháp nghiên 8
  16. cứu như: Phương pháp phân tích – tổng hợp; phương pháp luật học so sánh; phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình, khảo sát thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thực tiễn, đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu. - Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu cho việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện thêm các quy định của pháp luật về chức năng thực hành quyền công tố của VKSND; đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ làm công tác thực thi pháp luật liên quan đến lĩnh vực này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu. Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu và thực tiễn thi hành tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. 9
  17. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án xâm phạm sở hữu 1.1.1. Khái niệm công tố 1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố Quyền công tố là quyền của Nhà nước vì lợi ích công cộng (lợi ích của Nhà nước hay của xã hội) đối với người phạm tội, đã được biết đến từ thời xa xưa của xã hội loài người, khi nhà nước xuất hiện thì quyền công tố cũng xuất hiện. Lịch sử tư pháp hình sự trên thế giới đã cho thấy, quá trình hình thành, phát triển, hoàn thiện chế định quyền công tố gắn với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Trong từng thời kỳ nhất định, mỗi quốc gia có bộ máy nhà nước được thiết lập khác nhau gắn liền với các điều kiện về tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội, con người, văn hóa. Do đó, quyền công tố cũng có những khác biệt nhất định, song song với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, thì việc hoàn thiện chế định quyền công tố cũng ngày càng thể hiện rõ nét. Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố, tôi đồng tình với quan điểm cho rằng: quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật [47, tr.86]. Trên thực tế, có nhiều quan điểm khác nhau và chưa có cách hiểu thống nhất về khái niệm quyền công tố. Theo dòng lịch sử pháp lý Việt Nam, khoa học luật pháp lý nói chung, cũng như khoa học hình sự nói riêng, chế định “quyền công tố” chưa được nghiên cứu một cách toàn diện, trước Hiến pháp năm 1959 đã tồn tại quyền công tố, từ năm 1960 đến nay do VKSND thực hiện quyền này. Quyền công tố ở nước ta được đề cập trong Hiến pháp năm 1980, chức năng THQCT của VKS được quy định tại Điều 138 Hiến pháp 1992, Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) và Điều 107 Hiến pháp 2013 đã khẳng định tại sự tồn tại của thuật ngữ quyền công tố, THQCT trong chức năng của VKSND. 10
  18. Để hiểu thế nào là “công tố”, “quyền công tố”, bản chất và nội dung nó gì là, hiện nay vẫn chưa có quan điểm, nhận thức thống nhất chung. Theo từ điển Luật học thể hiện “công tố là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội” [56, tr.188]; trong khi từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ do GS. Hoàng Phê chủ biên thì: công tố có nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án” (57, tr.204]; lại có quan điểm cho rằng “công tố là hoạt động tố tụng đối với các vụ án mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật”. Hiện nay Nhà nước chưa có văn bản pháp luật nào giải thích chính thức nội dung quyền công tố, có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung, lĩnh vực cũng như phạm vi, chủ thể tham gia thực hành quyền công tố (những yếu tố cấu thành quyền công tố) là những yếu tố không thể thay đổi ở bất kỳ quốc gia nào. Tác giả đồng tình với một số quan điểm có sự khác nhau nhưng cơ bản tập trung vào các nhóm sau: Thứ nhất, quyền công tố không phải là chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chỉ có trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, tức là kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự thì KSV THQCT để buộc tội bị cáo tại phiên tòa [79, tr.85-86]. Quan điểm này là phổ biến và cũng là quan điểm cơ bản của các nhà khoa học pháp lý Xô Viết, đã đồng nhất quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật khi xét xử hình sự tại phiên tòa, phạm vi quyền công tố bị thu hẹp, chưa thấy hết vai trò, vị trí của VKS khi thực hành quyền công tố, chức năng truy tố và buộc tội của VKS tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự chỉ là một trong các quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố. Thứ hai, quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKSND truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử [30], thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Nội dung của quyền công tố là đưa ra quan điểm, lời buộc tội những cá nhân cụ thể với các tội danh cụ thể trong bản cáo trạng đó tại phiên tòa sơ thẩm. Theo quan điểm này thấy rằng việc THQCT có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cho hoạt động của VKS. Quan điểm này quá thu hẹp khái niệm, nội dung cũng như phạm vi của quyền 11
  19. công tố, về lý luận cũng như trong thực tế, hoạt động THQCT của VKS tại Tòa án chỉ là một trong nhiều hoạt động thực hiện chức năng THQCT của VKS. Thứ ba, “Quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho VKSND nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung sử dụng để truy cứu TNHS và áp dụng các chế tài hình sự để trừng trị các pháp nhân, người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự” [45, tr.26]. Quan điểm này chưa chính xác bởi đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc tố tụng hình sự, khi người tội phạm xâm phạm đến lợi ích chung của xã hội hoặc lợi ích riêng của một cá nhân, người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị xử lý bằng các chế tài hình sự. Quan điểm này đã dẫn đến sự nhằm lẫn giữa các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự: buộc tội, bào chữa và xét xử. Thứ tư, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc trái với các quy định của pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự của pháp luật [58, tr.85-86]. Theo quan điểm này, quyền công tố ban đầu được thể hiện trong lĩnh vực hình sự. Cùng với sự phát triển của xã hội và các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động. Theo quan điểm này thì nội dung quyền công tố là tổng hợp các biện pháp pháp lý đặc trưng theo luật định mà VKS có trách nhiệm kiểm sát đối với các các cơ quan tiến hành tố tụng. Quyền công tố là một nội dung của hoạt động thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và các lĩnh vực tư pháp khác nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội đều bị phát hiện điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tăng cường pháp chế thống nhất [58, tr.88]. Đặc trưng của tố tụng dân sự được tiến hành với nguyên tắc: quyền quyết định và quyền tự định đoạt là của đương sự nên hoạt động tố tụng này phát sinh, tồn tại và chấm dứt phụ thuộc vào ý chí của đương sự. Trong khi đặc trưng của tố tụng hình sự, phát sinh, tồn tại và chấm dứt không phụ thuộc vào ý chí của những người tham gia tố tụng. Quan điểm trên đã đồng nhất quyền công tố trong lĩnh vực hình sự 12
  20. với những nhiệm vụ, quyền hạn khác của VKS trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động. Các quan điểm trên đều có hạn chế nhất định đó là không phân định rõ ràng khái niệm, bản chất, nội dung và phạm vi quyền công tố; xem quyền công tố là một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là một hoạt động độc lập của VKSND quyền lực công; đánh đồng quyền công tố với các chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS, mở rộng quyền công tố trong tố tụng hình sự sang các lĩnh vực tư pháp khác như hành chính, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động; quá thu hẹp quyền công tố, xem quyền công tố là quyền của VKS truy tố kẻ phạm tội ra trước TAND và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Để đưa ra được quan niệm đúng về quyền công tố, cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với tính đặc thù của một lĩnh vực pháp luật cụ thể “Quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực tư pháp hình sự, không thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự” [45, tr 37]. Trong tố tụng hình sự luôn tồn tại ba chức năng cơ bản đó là, chức năng buộc tội (điều tra xác minh hành vi phạm tội, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, giữ vai trò là quan trọng trong tố tụng hình sự, thu hút hoạt động của tất cả các chủ thể tham gia); chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử. Như vậy có thể hiểu, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội, hay nói cách khác là quyền nhân dân quyền lực công thực hiện việc truy tố ra trước Tòa án đối với người phạm tội. Quyền này là quyền của Nhà nước, Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở Việt Nam đó là Viện kiểm sát). Cơ quan đó phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định người phạm tội và tội phạm. Trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. [5, tr.9]. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2