Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
lượt xem 20
download
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cũng như việc áp dụng trong thực tiễn tại VKS nhân dân tại tỉnh Quảng Nam. Qua đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn, góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NGỌC TỈNH THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NGỌC TỈNH THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, năm 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan rằng luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự của tôi là kết quả của quá trình học tập và nghiên cứu của tự bản thân. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong thực hiện đề tài là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm lời cam đoan của mình./. Tác giả Nguyễn Ngọc Tỉnh
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIÊN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ............................................................................................................................7 1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của viện kiểm sát nhân dân ........................7 1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ...................................................................16 1.3. Các yếu tố tác động đến thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ...................................................................27 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ TẠI TỈNH QUẢNG NAM ...................................................................30 2.1. Thực trạng các yếu tố tác động đến công tác thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ở tỉnh Quảng Nam ......30 2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam................37 CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ...................53 3.1. Dự báo các yếu tố tác động đến hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới .................................................................................53 3.2. Các giải pháp tăng cường thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân .....................57 KẾT LUẬN ..............................................................................................................71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ Luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra ĐTV : Điều tra viên KSV : Kiểm sát viên TAND : Tòa án nhân dân THQCT : Thực hành quyền công tố VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
- DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Số tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ năm 2015 - 2018 .......................................................................................37 Bảng 2.2: Số vụ án hình sự khởi tố, không khởi tố, tạm đình chỉ và số viện kiểm sát kiến nghị khởi tố qua THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ năm 2015 - 2018 ........................................................38 Bảng 2.3: Số tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố chưa giải quyết và quá hạn từ năm 2015 - 2018 ......................................................................................38
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, bộ máy Nhà nước đang trong quá trình cải cách nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng. Việc nghiên cứu để hoàn thiện các cơ chế bảo vệ pháp luật, trong đó có vấn đề THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong pháp luật tố tụng hình sự là một trong những nhiệm vụ cấp thiết. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND 2014, VKSND là cơ quan thuộc hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. VKS nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần bảo vệ công lý, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này được ghi nhận cụ thể tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “VKS nhân dân THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp”, Điều 2 Luật tổ chức VKS nhân dân 2014 quy định: “VKS nhân dân là cơ quan THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, theo đó VKSND vẫn giữ chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm. Với tư cách là cơ quan THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, một trong những chức năng quan trọng của VKSND là THQCT trong giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đây là hoạt động đầu tiên của quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm kịp thời phát hiện hành vi phạm tội, các cơ quan tố tụng có trách nhiệm sẽ dựa trên cơ sở đó để xác định việc có dấu hiệu tội phạm hay không nhằm quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. 1
- Trong những năm vừa qua, trên cơ sở quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của VKSND, công tác THQCT và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của ngành Kiểm sát cả nước nói chung và ngành Kiểm sát ở tỉnh Quảng Nam nói riêng đã đạt được những kết quả nhất định như đã hạn chế tình trạng truy tố oan sai, đã phát hiện, khởi tố, xử lý kịp thời các hành vi phạm tội và tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân góp phần hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy công tác thực hành quyền công tố ở tỉnh Quảng Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập như: vẫn còn một số vụ án truy tố oan, sai gây bức xúc trong nhân dân, tình trạng bỏ lọt tội phạm, còn để xảy ra án trả hồ sơ điều tra bổ sung có liên quan đến trách nhiệm Viện kiểm sát;... Trước sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội, các loại tội phạm mới xuất hiện đặt ra yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong giai đoạn tiếp theo thì việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về công tác THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là hết sức cần thiết. Với những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ Luật học là “Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự được quy định thành một nguyên tắc tố tụng, việc nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề liên quan về nguyên tắc này ở các mức độ khác nhau đã được một số nhà khoa học pháp lý, các chuyên gia lý luận và thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Trong những năm vừa qua, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề này, cụ thể như: Nguyễn Quang Thành (2015), “Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và khởi tố, điều tra vụ án hình sự của VKS nhân dân theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014”, Tạp chí Kiểm sát; Vũ Việt Hùng 2
- (2009), “Quy định của pháp luật về việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố - Thực trạng và một số đề xuất, kiến nghị”, Tạp chí kiểm sát; Nguyễn Hải Phong (2006), Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Tất Viễn (2003), "Hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư pháp", Kỷ yếu đề tài cấp bộ: Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Hà Nội; Nguyễn Duy Hồng (2009), Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Tạp chí kiểm sát; Nguyễn Đình Trung (2012), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Tạp chí kiểm sát; Nông Xuân Trường (2014), Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thực trạng và một số giải pháp, Trang thông tin điện tử VKSND tối cao, Hà Nội; Nguyễn Đăng Khoa (2014), Bàn về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, Tạp chí kiểm sát; " thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra", của Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, 2005; Luận án tiến sĩ Luật học "Quyền công tố ở Việt Nam", của Lê Thị Tuyết Hoa, 2002; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử của VKS nhân dân thành phố Hồ Chí Minh", của Trần Văn Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội", của Hà Thị Minh Hạnh, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2007... Những công trình khoa học, những bài viết trên đã tập trung nghiên cứu về tổ chức, hoạt động, nhiệm vụ và quyền hạn của VKS nhân dân nói chung và một số công trình, bài viết nghiên cứu về chức năng hoạt động của VKS trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu tổng thể nội dung của nguyên 3
- tắc THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Hơn nữa, trong cả lý luận và thực tiễn hiện nay, xung quanh vấn đề này còn chưa thực sự thống nhất về khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; chưa có sự phân định cụ thể, rõ ràng giữa hai chức năng và đánh giá mối quan hệ biện chứng giữa hai chức năng này. Vì thế, cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa những nội dung xoay quanh nguyên tắc này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cũng như việc áp dụng trong thực tiễn tại VKS nhân dân tại tỉnh Quảng Nam. Qua đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn, góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được các mục đích nghiên cứu, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, cụ thể: - Phân tích cơ sở lý luận, khái niệm, thẩm quyền, căn cứ pháp luật giải quyết về tố giác, tin báo về tội phạm; nội dung hoạt động THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. - Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, quy định của pháp luật về THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trên cơ sở đó đánh giá thực tiễn thực hiện vấn đề THQCT trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKS nhân dân tại tỉnh Quảng Nam, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của tồn tại, hạn chế đó. - Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt này trong thực tiễn công tác của VKSND. 4
- 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn THQCT trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của VKSND trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 4.2.Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chức năng THQCT trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKS nhân dân, các quy định của BLTTHS và những văn bản hướng dẫn khác có liên quan, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn thực hiện công tác trên của VKSND tại tỉnh Quảng Nam. Thông qua đó, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả thực hiện trong thực tiễn. Về phạm vi nghiên cứu thực tiễn: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện công tác thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong 04 năm (01/12/2014 – 01/12/2018) trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5. 1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn có sự kế thừa những kết quả nghiên cứu liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của các công trình nghiên cứu trước. Tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong luận văn như: Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử cụ thể, thống kê số liệu, hệ thống. 5
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Giải quyết về mặt lý luận tổng thể, toàn diện nội dung thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự trong thực tiễn hiện nay, cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm có liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học, cũng như góp phần phục vụ hoạt động lập pháp, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết án hình sự. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân. Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại tỉnh Quảng Nam. Chương 3: Các giải pháp tăng cường thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân. 6
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIÊN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của viện kiểm sát nhân dân 1.1.1. Khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm và thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của viện kiểm sát nhân dân 1.1.1.1. Khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố Pháp luật quy định tố giác và tin báo về tội phạm là những cơ sở để xác định có dấu hiệu tội phạm hay không. Đây chính là một trong những nguồn thông tin quan trọng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện dấu hiệu của tội phạm, trên cơ sở đó kịp thời tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh để có căn cứ tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Trong mỗi thời kỳ khác nhau và trong mỗi giai đoạn khác nhau, tội phạm trong xã hội luôn có sự biến đổi cả về nội dung lẫn hình thức và mỗi quốc gia khác nhau thì cũng có những quan niệm khác nhau về tội phạm. Tại Việt Nam, khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS 2015 trong đó xác định“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện…”. Để có căn cứ xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội có được coi là tội phạm hay không phải dựa trên kết quả xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. BLTTHS năm 2003 quy định: " Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây: 1. Tố giác của công dân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức; 3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;..." [14]. Bên cạnh đó là sự ra đời của Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP- BTC-BNN& PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013. Theo đó, tố giác tội phạm là 7
- những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kiến nghị CQĐT xem xét khởi tố vụ án hình sự [1]. Tuy nhiên, việc đưa ra khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm như quy định tại Thông tư liên tịch 06/2013 phần nào đó vẫn chưa đảm bảo tính chính xác, chưa phản ánh được bản chất của tố giác, tin báo về tội phạm. Vì nếu theo cách giải thích từ ngữ tại Thông tư này thì tất cả các thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp thì đều được coi là tố giác về tội phạm, chứ không coi là tin báo về tội phạm và cá nhân cũng có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Nhận thức được vấn đề trên, BLTTHS năm 2015 đã kế thừa các quy định của BLTTHS năm 2003 và Thông tư liên tịch số 06, quy định rõ các khái niệm: Nguồn tin về tội phạm gồm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lời khai của người phạm tội tự thú và thông tin về tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện; Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền; Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho CQĐT, VKS có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm [15]. Từ những quy định cụ thể vừa nêu có thể thấy, về bản chất tố giác, tin báo về tội phạm đều là những thông tin chứa đựng những dấu hiệu tội phạm mà các cơ quan tiến hành tố tụng có được thông tin. 8
- Qua những phân tích trên có thể hiểu: - Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu về các tội phạm được quy định trong Bộ Luật hình sự, do công dân có tên, tuổi, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan hoặc cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết. Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật hình sự với các cơ quan, tổ chức đó là quyền và nghĩa vụ của công dân. Công dân có quyền tố cáo về tội phạm với mọi cơ quan, tổ chức và sự tố cáo của công dân về tội phạm đều được coi là tố giác. Tố giác tội phạm có thể thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như: thông qua điện thoại, văn bản hoặc có thể tố cáo trực tiếp bằng miệng … Trường hợp người bị hại trình báo và yêu cầu khởi tố thì bản chất của sự việc cũng là sự tố giác về tội phạm, chính vì thế điều luật không quy định riêng một khoản độc lập. - Tin báo về tội phạm là toàn bộ thông tin về những hành vi chứa đựng dấu hiệu về các tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết. Tố giác tội phạm là hành vi của công dân là đối với một cơ quan, tổ chức bất kỳ nào đó. Tin báo là sự phản ánh mối liên hệ giữa một bên truyền tin đi với một cơ quan có quyền khởi tố vụ án hình sự. Trong đó, tin báo tội phạm có thể là sự chuyển tiếp những thông tin mà cơ quan, tổ chức đã nhận được từ tố giác tội phạm của công dân. Cũng có thể là những thông tin thu được từ hoạt động nghiệp vụ của ngay chính tổ chức đó (ví dụ, qua thanh tra, kiểm tra) hoặc được phản ánh bằng chính hoạt động truyền thông theo chức năng nghề nghiệp (các cơ quan thông tin đại chúng). Căn cứ vào Điều 144 của BLTTHS năm 2015 thì tin báo tội phạm có thể được phân thành hai loại: Tin báo tội phạm có thể là tin do cơ quan, tổ chức gửi đến cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự (khoản 2) trực tiếp phản ánh về tội phạm; tin báo có thể được chính thức thông báo hoặc phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng mà các cơ quan chuyên trách đấu tranh với tội phạm có thẩm quyền phải xem xét, nghiên cứu để rút ra những kết luận (Khoản 3). - Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, VKS có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm. 9
- Kiến nghị khởi tố chính là việc các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, kinh tế thông qua công tác kiểm tra, thanh tra và khi thực hiện các nhiệm vụ, công tác khác phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, người có hành vi phạm tội và có văn bản, kèm theo tài liệu liên quan, kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét, khởi tố vụ án hình sự, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội để điều tra, xử lý. 1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm công tác thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân VKSND có chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Chức năng của VKSND được thể hiện tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “ Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” và Điều 2 Luật Tổ chức Viện KSND năm 2014: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[20]. Xác định khái niệm quyền công tố và theo đó là THQCT sẽ làm rõ hơn vai trò, vị trí của VKS trong hệ thống cơ quan nhà nước, đặc biệt là trong các cơ quan tư pháp; xác định rõ chức năng của VKS, nhất là trong TTHS. Vấn đề khái niệm quyền công tố và THQCT đã được đề cập nhiều trong khoa học pháp lí nước ta với các mức độ khác nhau và nó vẫn đang là vấn đề với nhiều ý kiến khác nhau. Có quan điểm cho rằng: Quyền công tố là quyền của VKS thay mặt nhà nước bảo vệ lợi ích công (nhà nước, xã hội và công dân) khi có các vi phạm pháp luật. Vì vậy, VKS THQCT không chỉ trong TTHS mà cả trong lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, kinh tế và các hoạt động tư pháp khác [5]. Có quan điểm khác cho rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho các cơ quan nhất định khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước tòa án để xét xử và thực hiện việc buộc tội trước phiên tòa [23]. Có quan điểm khác lại cho rằng: Công tố không phải là chức năng độc lập của VKS mà chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng chúng đều ít nhiều có sự hợp lý, bởi các quan điểm này đều dựa trên quy định của pháp luật và thực tiễn. Từ những phân tích trên, khái niệm quyền công tố được hiểu như sau: Quyền 10
- công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc về Nhà nước, cơ quan được nhà nước giao cho quyền này (ở nước ta là VKSND) thực hiện các hoạt động nhằm phát hiện, điều tra tội phạm, truy tố người phạm tội trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Như vậy, THQCT thực chất là hoạt động đưa những quy định của pháp luật về quyền công tố thuộc chức năng của VKS vào thực tế nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Tuy còn nhiều quan điểm khác nhau về THQCT, nhưng qua nghiên cứu tổng hợp các quan điểm khoa học về THQCT, cũng như thực tiễn quy định của pháp luật về THQCT, chúng tôi đưa ra khái niệm về THQCT như sau: “Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng các quyền năng pháp lý mà pháp luật quy định để đưa người (và pháp nhân thương mại) phạm tội ra truy tố và buộc tội trước Tòa án”. Nội dung THQCT được BLTTHS năm 2015 quy định kể từ khi tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp hạn chế quyền công dân, quyền con người. Thời điểm này là ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm. Bản chất việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, nhất là việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp và việc phê chuẩn bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chính là việc bắt và tạm giữ hình sự. Việc pháp luật quy định VKS tham gia vào quá trình này chính là sự khẳng định chức năng THQCT của VKS trong việc phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm. Xuất phát từ khái niệm THQCT đã được phân tích ở trên, tác giả đưa ra khái niệm THQCT trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm như sau: "Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự". Đặc điểm của công tác THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được thể hiện thông qua các hoạt động cụ thể: 11
- - Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; - Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; - Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện; - Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được khắc phục; - Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác để THQCT theo quy định của BLTTHS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội; 1.1.1.3. Ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân VKS có hai chức năng độc lập, nhưng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau là THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp. Việc VKS thực hiện đồng thời hai chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình là mang tính khách quan, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật Để mọi hành vi phạm tội được phát hiện xử lý xử lý đúng quy định pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội thì việc xác định căn cứ cho việc khởi tố vụ án hình sự rất là quan trọng nhằm mở đầu cho những giai đoạn tố tụng tiếp theo. Tuy nhiên, để có được những căn cứ khởi tố vụ án cần phải có những thông tin ban đầu được tiếp nhận, xác minh theo những trình tự thủ tục nhất định được pháp luật quy định. - Pháp luật tố tụng hình sự quy định cho các cơ quan tiến hành tố tụng được phép tiến hành kiểm tra xác minh nguồn tin, thu thập tài liệu chứng cứ và được ra một số quyết định tố tụng trước khi khởi tố vụ án hình sự. Để có cơ sở tiến hành các biện pháp nói trên thì trách nhiệm của VKS trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin 12
- báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có ý nghĩa rất quan trọng. Quy định chức năng THQCT của VKS trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố góp phần đảm bảo các quyết định tố tụng, hoạt động tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đúng theo quy định của pháp luật, các chứng cứ, tài liệu được thu thập theo một trình tự thủ tục khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác tạo tiền đề vững chắc cho quá trình điều tra vụ án; những vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố sẽ được phát hiện kịp thời, khắc phục và xử lý nghiêm minh. 1.1.2. Nội dung của thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân 1.1.2.1. Chủ thể có quyền thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố Bộ luật TTHS 2015 quy định chủ thể có quyền thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố bao gồm: Cơ quan điều tra, VKS tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; cơ quan tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Mọi tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời; cơ quan tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận không được từ chối tiếp nhận tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố[15]. Bộ luật TTHS cũng quy định cụ thể thủ tục tiếp nhận theo từng nhóm chủ thể. - Thủ tục tiếp nhận của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành lập biên bản tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận (có thể ghi âm, ghi hình việc tiếp nhận); nếu tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố được gửi qua dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào sổ tiếp nhận. Sau đó, VKS cần chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền kèm theo tài liệu có liên quan đã tiếp nhận. - Thủ tục tiếp nhận của Công an phường, thị trấn, đồn Công an, Công an xã: Công an phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều 13
- tra có thẩm quyền. Công an xã có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. - Đối với cá nhân, tổ chức khác: sau khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm thì chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Trường hợp khẩn cấp thì có thể báo tin trực tiếp qua điện thoại hoặc hình thức khác cho Cơ quan điều tra nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản. 1.1.2.2. Đối tượng và phạm vi của hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là một trong những nội dung cụ thể của THQCT trong tố tụng hình sự nên đối tượng của THQCT trong giai đoạn này cũng chính là đối tượng của THQCT trong tố tụng hình sự.Với ý nghĩa là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý nhằm mục đích truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, truy tố họ ra trước Tòa án để xét xử, đối tượng của hoạt động THQCT là tội phạm và người phạm tội. Phạm vi của hoạt động THQCT: Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2014 và BLTTHS năm 2015 đã quy định KSV là người đại diện cho VKS THQCT, vì vậy, ngay từ trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố KSV đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Các giai đoạn của THQCT cũng đã được phân định một cách rõ ràng trong các văn bản luật thực định của nước ta, từ THQCT trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT trong giai đoạn điều tra; THQCT trong giai đoạn truy tố; THQCT trong giai đoạn xét xử. Như vậy, THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là một phần của hoạt động THQCT trong tố tụng hình sự nói chung. Theo Điều 2 Quy chế THQCT & KSĐT xác định: THQCT thì thời điểm phát sinh hoạt động THQCT phải là thời điểm được sử dụng các quyền năng pháp lý công khai để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, tức là sau khi tội phạm đã được phát hiện (xác định có dấu hiệu của tội phạm) và có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thời điểm kết thúc hoạt động THQCT có sự trùng khớp với thời điểm kết thúc quyền công tố, đó là khi vụ án 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 329 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 80 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 190 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Chứng cứ điện tử trong tố tụng hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 108 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 140 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 140 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 181 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 119 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 47 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 126 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ thực tiễn Quân khu 7, Việt Nam
91 p | 56 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
70 p | 80 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 48 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 41 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 68 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 61 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 57 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng án treo từ thực tiễn thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
76 p | 73 | 10
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn