Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định
lượt xem 5
download
Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố đối với tội hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự và các quy định của pháp luật liên quan đến tội hủy hoại rừng. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của luận văn này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI VĂN LÀNH THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN HỦY HOẠI RỪNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BÙI VĂN LÀNH THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN HỦY HOẠI RỪNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8. 38. 01. 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐỨC HẠNH HÀ NỘI, năm 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm về “Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả Bùi Văn Lành
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN HỦY HOẠI RỪNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .............................................................................. 9 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ........................................................................................ 9 1.2. Chủ thể, phạm vi, nội dung của thực hành quyền công tố các vụ án hình sự . 14 1.3. Đặc điểm của các vụ án hủy hoại rừng và đặc trưng của thực hành quyền công tố các vụ án hủy hoại rừng .................................................................................... 18 1.4. Mối quan hệ giữa hoạt động thực hành quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong vụ án hủy hoại rừng ................. 23 CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CÁC VỤ ÁN HỦY HOẠI RỪNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH ................................................................ 26 2.1. Quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố các vụ án hủy hoại rừng .............................................................................................. 26 2.2. Thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố các vụ án hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Bình Định ................................................................................................ 32 2.3. Một số khó khăn vướng mắc và nguyên nhân của khó khăn, vướng mắc đối với công tác thực hành quyền công tố các vụ án hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Bình Định ............................................................................................................. 60 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN HỦY HOẠI RỪNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH ................................................... 66 3.1. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và thể chế ............................................ 66 3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Bình Định ................. 69 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra ĐTV Điều tra viên KSĐT Kiểm sát điều tra KSV Kiểm sát viên THQCT Thực hành quyền công tố TTHS Tố tụng hình sự VAHS Vụ án hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân TAND Tòa án nhân dân HĐXX Hội đồng xét xử
- DANH MỤC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Diện tích rừng toàn tỉnh tính đến ngày 31.12.2016 35 Số liệu thụ lý THQCT trong giải quyết nguồn tin về tội 2.2 phạm hủy hoại rừng và khởi tố, không khởi tố vụ án/bị 41 can Số vụ, số bị can tội Hủy hoại rừng từ năm 2014 đến năm 2.3 45 2018, so với các tội khác Bảng thống kê đối tượng bị can trong vụ án hủy hoại 2.4 46 rừng ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Số liệu THQCT trong giai đoạn điều tra, các vụ án Hủy 2.5 52 hoại rừng Số vụ, số bị can tội Hủy hoại rừng được thụ lý, đã truy tố 2.6 53 và đình chỉ trong giai đoạn truy tố 2.7 Số vụ, số bị cáo tội Hủy hoại rừng đã được xét xử 55
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Như chúng ta đã biết, rừng có vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống con người cũng như môi trường sinh thái: rừng giữ nước, phòng chống lũ lụt, xói mòn, thanh lọc không khí tạo ra bầu khí quyển trong lành, là nơi cứ trú của hàng triệu loài động, thực vật... Chính vì rừng có tác động rất to lớn, trực tiếp đối với cuộc sống của con người nên Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác bảo vệ và phát triển rừng, đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm tăng cường trong công tác bảo vệ phát triển rừng, hàng năm đã bỏ ngân sách nhà nước để đầu tư thực hiện các chương trình, dự án phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Mặc dù rừng có những vai trò quan trọng như vậy, nhưng hiện nay tình trạng phá rừng, hủy hoại rừng vẫn tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp, gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng, tiềm ẩn những nguy cơ làm suy vong hệ sinh thái trong hiện tại cũng như ở tương lai; diện tích rừng bị thu hẹp sẽ làm mất cân bằng hệ sinh thái, sự đa dạng sinh học, làm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con người, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, diện tích rừng cả nước nói chung và ở địa bàn tỉnh Bình Định nói riêng đang bị suy giảm nhanh cả về diện tích và chất lượng. Cùng với đó là các vụ vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng có chiều hướng gia tăng. Mới đây, vào tháng 9/2017, phát hiện vụ hủy hoại 64,18 ha rừng (trong đó có 25,87 ha rừng phòng hộ và 38,31 ha rừng sản xuất), tại Khoảnh 7 và Khoảnh 8, Tiểu khu 1, xã An Hưng, huyện An Lão, tỉnh Bình Định, cho thấy mức độ "nóng" của việc xâm phạm rừng và đặt ra sự cấp bách phải tăng cường công tác quản lý bảo vệ rừng trong thời gian đến. Trước thực trạng tình hình hủy hoại rừng tại địa phương, các cơ quan bảo vệ pháp luật trên địa bàn tỉnh Bình Định, trong đó có Viện kiểm sát đã kịp thời phối hợp xử lý nghiêm minh, góp 1
- phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Tuy nhiên, hoạt động thực hành quyền công tố đối với tội Hủy hoại rừng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định trong những năm qua còn bộc lộ một số hạn chế, tồn tại như trong giai đoạn tiếp nhận xử lý tin báo tội phạm, giai đoạn khởi tố vụ án nhưng đề ra yêu cầu điều tra không kịp thời, chưa thực hiện đúng chủ trương "tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra", vẫn còn tình trạng Tòa án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm hủy án để điều xét xử lại do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, do bỏ lọt tội phạm... Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đây là nội dung được nêu rõ trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Nội dung này đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2013 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, một trong những chức năng, nhiệm vụ của VKSND là thực hành quyền công tố. Vì thế, thực hành quyền công tố là một hoạt động quan trọng đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung cũng như tội phạm hủy hoại rừng nói riêng. Vì vậy, hoạt động thực hành quyền công tố luôn phải được đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội và không làm oan người vô tội. Song, đến nay có nhiều quan điểm về khái niệm thực hành quyền công tố cũng như thực hành quyền công tố. Chất lượng thực hành quyền công tố đối với tội phạm liên quan đến rừng chưa tương xứng so với yêu cầu đặt ra. Hành vi hủy hoại rừng tại tỉnh Bình Định vẫn còn đang diễn biến phức tạp, từ sự cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn nêu trên, học viên đã lựa chọn đề tài “Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật học. 2
- 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đề tài thực hành quyền công tố rất được quan tâm trong khoa học tố tụng hình sự và khoa học kiểm sát, nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài có thể khái quát một số như: Cuốn sách "Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (trong giai đoạn điều tra)" của tác giả TS. Lê Hữu Thể, chủ biên, NXB Tư pháp phát hành năm 2005. Cuốn sách này nghiên cứu về cơ sở lý luận của quyền công tố, cũng như thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự của VKS, kết quả nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố của một số nước trên thế giới. Song, cuốn sách này chú trọng nhiều đến hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát và so sánh với mô hình tố tụng của nhiều nước trên thế giới nên chưa tập trung phân tích, đánh giá sâu về hoạt động thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố, xét xử nói riêng. Cuốn sách "Cơ sở lý luận, thực trạng của điều tra và truy tố các tội phạm ma túy" của TS. Nguyễn Thị Mai Nga. Sách này, chủ yếu đề cập đến những kinh nghiệm rút ra trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về tội phạm ma túy, chưa phản ánh thực trạng của hoạt động thực hành quyền công tố đối với tội hủy hoại rừng. Cuốn sách "Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp" của TS. Nguyễn Hải Phong, đề cập đến nội dung tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, tập trung đề cập chủ yếu đến các giải pháp nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. 3
- Các công trình nghiên cứu nêu trên tuy có đề cập đến các vấn đề lý luận và thực trạng thực hành quyền công tố nhưng chủ yếu chủ yếu đề cập ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự hoặc có nội dung đề cập đến các giai đoạn truy tố, xét xử nhưng chỉ đối với vụ án hình sự nói chung mà chưa đề cập đến một tội phạm cụ thể. Luận văn thạc sĩ luật học: Thực hành quyền công tố đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi của Lý Tường Vy. Đề tài này, tuy nghiên cứu về thực hành quyền công tố nhưng đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chưa nghiên cứu đến thực hành quyền công tố đối với tội hủy hoại rừng, mang những đặc trưng khác biệt. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết các tác giả trên các tạp chí khoa học pháp lý cũng bàn về quyền công tố và chức năng thực hành quyền công tố của VKS như: Bài viết của GS.TS Lê Cảm (2011), “Viện kiểm sát Việt Nam”, đã đề cập một cách sâu sắc chức năng, nhiệm vụ, thiết chế về Viện Công tố, Viện kiểm sát nhân dân các nước trên thế giới; vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước ta; phân tích sự cần thiết phải tiếp tục duy trì các chức năng của Viện kiểm sát nhân dân như quy định của Hiến pháp hiện hành; sách chuyên khảo do TS. Lê Hữu Thể làm chủ biên (năm 2008), “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”, Nhà xuất bản Tư pháp, đã đề cập các quan điểm và lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đối tượng, phạm vi quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự trong giai đoạn điều tra; đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị” năm 2002 của Viện Khoa học Kiểm sát - VKSNDTC; các bài 4
- nghiên cứu “Nâng cao chất lượng công tác công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp” của Phạm Xuân Khánh trên Tạp chí Kiểm sát số 5/1999, “Những biện pháp chủ yếu về nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và THQCT trong năm 2002” của Hoàng Công Huấn trên Tạp chí Kiểm sát số 2/2002… Tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu một hoặc một số nội dung của công tác thực hành quyền công tố theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn khởi tố - điều tra của tố tụng hình sự. Hiện nay, đối với đề tài thực hành quyền công tố đối với tội hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ở một địa phương là địa bàn tỉnh Bình Định thì chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, đặc biệt ở bậc cao học. Do vậy, có thể coi đề tài “Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” là một công trình nghiên cứu chuyên sâu không trùng lắp với các công trình đã nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố đối với tội hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự và các quy định của pháp luật liên quan đến tội hủy hoại rừng. Bên cạnh đó, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự từ thực trạng, số liệu khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử đối với tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Bình Định, luận văn tập trung đánh giá kết quả đạt được, nêu ra những hạn chế, để từ đó hướng tới góp ý một số giải pháp và đề xuất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu vấn đề lý luận cơ bản thực hành quyền công tố đối với tội 5
- hủy hoại rừng theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam. Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố đối với tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Bình Định, từ đó rút ra những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của hoạt động thực hành quyền công tố theo pháp luật trong các vụ án liên quan đến loại tội phạm này. Xuất phát từ những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót đã phát hiện để đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố đối với tội hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến công tác thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, theo BLTTHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Bình Định. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các vấn đề về thực hành quyền công tố trong các giai đoạn giải quyết tố giác tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố (giai đoạn khởi tố), giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với tội hủy hoại rừng (quy định tại Điều 189 BLHS năm 1999), có đối chiếu so sánh với tội hủy hoại rừng (quy định tại Điều 243 BLHS năm 2015), thuộc phạm vi cấp huyện và cấp tỉnh, trên địa bàn tỉnh Bình Định, trong thời gian 5 năm (từ năm 2014 đến năm 2018). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác – Lênin, tư tưởng 6
- Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách pháp luật của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đấu tranh và phòng ngừa tội phạm ở nước ta. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp sử dụng để nghiên cứu luận văn bao gồm: phương pháp, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê và phương pháp xã hội học kết hợp tư duy logic. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Thông qua các nội dung nghiên cứu, luận văn "Thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định" góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận cơ bản về thực hành quyền công tố nói chung cũng như thực hành quyền công tố đối với tội phạm hủy hoại rừng. Trên cơ sở khảo sát thực tế đề tài đánh giá, phân tích thực trạng của công tác thực hành quyền công tố đối với tội hủy hoại rừng từ thực tiễn địa bàn tỉnh Bình Định, từ đó tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng nói chung và tội hủy hoại rừng nói riêng. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và công tác nghiên cứu khoa học liên quan đến nội dung thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng cũng như đối với các nhà hoạch định chính sách pháp luật và nhất là cán bộ, kiểm sát viên Viện KSND tỉnh Bình Định trong công tác thực tiễn. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố các vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam. 7
- Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố các vụ án hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Bình Định. Chương 3: Một số giải pháp và đề xuất nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền công tố các vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 8
- CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN HỦY HOẠI RỪNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm quyền công tố Quyền công tố là một phạm trù lịch sử, là sản phẩm của xã hội loài người khi phát triển đến một giai đoạn nhất định, quyền công tố xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước. Trên thế giới, do có sự khác biệt về thể chế chính trị và các điều kiện lịch sử, truyền thống văn hóa, tôn giáo ...nên chế định công tố cũng có sự khác biệt nhất định trong cơ chế vận hành, song quá trình diễn biến của nó vẫn thể hiện rõ quy luật tất yếu chung của sự phát triển lịch sử. Đó là quyền công tố luôn luôn gắn liền với bản chất của Nhà nước và là một bộ phận cấu thành không thể tách rời khỏi Nhà nước. Theo từ điển Tiếng Việt, "công" có nghĩa là "thuộc về nhà nước, thuộc về tập thể, trái với tư", còn "tố" nghĩa là "nói về sự sai phạm và tội lỗi của người khác một cách công khai, trước người có thẩm quyền", còn "công tố" nghĩa là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước tòa án" [53, tr.1056]; hiểu theo thuật ngữ pháp lý phổ thông: Hoạt động của Kiểm sát viên và những người khác theo quy định của pháp luật có nhiệm vụ vạch mặt kẻ phạm tội, xác định các căn cứ để kết tội và để áp dụng hình phạt đối với người phạm tội … Như vậy, công tố có mối liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự. Bất kỳ Nhà nước nào ở thế chế chính trị nào cũng quan tâm đến lĩnh vực hình sự, bởi vì chính pháp luật hình sự là phương tiện để cai trị hữu hiệu nhất của Nhà nước. Bởi khi một hành vi bị coi là tội 9
- phạm nó sẽ làm phát sinh một mối quan hệ pháp luật giữa một bên là Nhà nước và phía bên kia là người phạm tội. Trong mối quan hệ này, Nhà nước chính là chủ thể quyền lực (quyền lực công) và là người thực hiện sự buộc tội, còn đối tượng bị nhà nước cáo buộc chính là người đã thực hiện hành vi phạm tội. Công tố, chính vì thế được hiểu là sự buộc tội thay mặt cho Nhà nước đối với người đã thực hiện hành vi bị coi là phạm tội trước Tòa án để xét xử một người là có tội hay không có tội và hình phạt áp dụng. Quyền công tố và thực hành quyền công tố là hai khái niệm điển hình trong LTTHS ở nước ta khi nói đến chức năng của VKS. Đối với khoa học tố tụng hình sự, việc xác định khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Nhất là, trong giai đoạn hiện nay, việc giải quyết tốt vấn đề này giúp cho việc xác định chính xác vai trò, vị trí của VKS nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng; xác định được chức năng của VKS; từ đó có những quyết định đúng đắn về tổ chức của VKS. Ngoài ra, việc giải quyết những vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố giúp cho việc xác định chính xác vai trò, vị trí cũng như trách nhiệm của VKS trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Có nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố như: Quan điểm thứ nhất: Công tố không phải là chức năng độc lập của VKS mà chỉ là hình thức để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [11]. Theo tác giả đây là hai dạng hoạt động có nội dung hoàn toàn độc lập với nhau. Quan điểm thứ hai: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, thi hành án hình sự người phạm tội [52,tr.204]. Đó là hoạt động của ĐTV, KSV và những người khác được pháp luật quy định có trách nhiệm xác định 10
- người phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội. Quan điểm này, không chỉ có VKS, CQĐT mà cả Tòa án, Cơ quan thi hành án hình sự đều là chủ thể thực hành quyền công tố. Quan điểm thứ ba: Quyền công tố là quyền của Nhà nước đưa các việc làm phạm pháp liên quan đến lợi ích chung ra Tòa án xét xử vì Nhà nước nhân danh xã hội duy trì trật tự chung bằng pháp luật. Sự can thiệp của Nhà nước vào các việc phạm pháp nói trên là do nhu cầu duy trì mọi xung đột xã hội gắn với trật tự công cộng mà trách nhiệm của Nhà nước phải đứng ra điều hòa - đó là bản chất của quyền lực công. Quyền công tố là quyền lực công, đòi hỏi phải xử lý các vụ việc xâm phạm lợi ích chung một cách công khai bằng con đường Tòa án, vì thế quyền công tố thường gắn liền với quyền tài phán của Tòa án [33]. Theo quan điểm này, phạm vi hoạt động của quyền công tố là quá rộng, chưa phù hợp với thực tiễn là phải coi trọng quyền quyết định và tự định đoạt của công dân trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động. Thời gian gần đây, các công trình nghiên cứu về quyền công tố, quy định tại BLTTHS năm 2003 và đặc biệt là BLTTHS năm 2015 đã tiếp cận gần hơn, rõ ràng và chính xác với quan niệm chung về quyền công tố. Tác giả đồng tình với quan điểm của TS. Lê Hữu Thể: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công tố được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là VKS), có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử bằng bản cáo trạng và thực hiện việc buộc tội tại phiên tòa. Vì vậy quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự với đối tượng tội phạm và người phạm tội [26, tr40]. 1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố Văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta đưa ra thuật ngữ "thực hành 11
- quyền công tố" là Hiến pháp năm 1980, tại Điều 138, khi xác định chức năng của VKS. Thuật ngữ ngữ này cũng được nhắc lại ở Điều 1 và Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1980. Như vậy, trong hoạt động của VKSND, bên cạnh khái niệm "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" có khái niệm "thực hành quyền công tố". Quy định này cũng được nhắc lại trong Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2013. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND thì các văn bản tố tụng hình sự khác cũng có quy định tương tự. Theo từ điển Tiếng Việt thì "thực hành" có nghĩa là "làm để áp dụng lý thuyết vào thực tiễn", "thực hành" đồng nghĩa với "thực hiện" [31]. Để thực hiện quyền công tố thì VKS phải sử dụng tất cả những quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Do đó, tác giả thống nhất với quan điểm cho rằng: "Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử". Nội dung quyền công tố là sự buộc tội của Nhà nước đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội [32]. Cách hiểu về khái niệm thực hành quyền công tố nêu trên cũng là cách hiểu được thể hiện tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đó là: "Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự"[20,tr.8]. 1.1.3. Khái niệm vụ án hủy hoại rừng Để làm rõ khái niệm vụ án hủy hoại rừng, cần làm rõ thuật ngữ "hủy 12
- hoại rừng". Thuật ngữ "hủy hoại" theo từ điển Từ và ngữ Việt Nam của tác giả Nguyễn Lân [16], từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì có nghĩa là làm cho hư hỏng đi, phá đi, cho tan nát. Để hiểu như thế nào là hủy hoại rừng, cần làm rõ khái niệm "hủy hoại tài sản", bởi rừng củng được xem là một loại tài sản theo quy định của pháp luật nước ta. Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường đại học luật Hà Nội, định nghĩa "hủy hoại tài sản" là cố ý làm cho tài sản mất giá trị sử dụng ở mức độ không còn hoặc khó có khả năng khôi phục lại được. Hủy hoại tài sản có thể qua hành động (đập, đốt...) hoặc không hành động (cố ý không tắt máy, không ngắt điện khi có sự cố dẫn đến máy bị hư hỏng hoàn toàn...). Theo đó "hủy hoại rừng" là cố ý làm hư hỏng tài nguyên rừng, dẫn tới cây rừng bị hủy hoại, bị chết hàng loạt. Hành vi hủy hoại rừng là những hành vi cố ý đốt, phá rừng trái phép hoặc có những hành vi khác làm cho rừng tan nát, hư hỏng và cây rừng chết hành loạt. Trong khoa học pháp lý hình sự "tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật và phải chịu hình phạt". Dựa trên khái niệm trên, có thể đưa ra khái niệm về tội hủy hoại rừng như sau "Tội hủy hoại rừng là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do cá nhân hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý như đốt, phá rừng trái phép hoặc hành vi khác, làm cho rừng mất hoàn toàn hoặc giảm một cách đáng kể giá trị, xâm phạm các quan hệ xã hội về bảo vệ rừng của Nhà nước, gây thiệt hại cho môi trường sinh thái, được quy định trong Bộ luật hình sự và phải chịu hình phạt". 1.1.4. Khái niệm thực hành quyền công tố các vụ án hủy hoại rừng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Từ các khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố, vụ án hủy 13
- hoại rừng nêu trên, có thể khái niệm thực hành quyền công tố các vụ án hủy hoại rừng như sau: Khái niệm thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát đối với các vụ án Hủy hoại rừng là hoạt động nhân danh Nhà nước của Viện kiểm sát để thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội Hủy hoại rừng có căn cứ, đúng pháp luật bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện đều phải được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, kịp thời, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội. 1.2. Chủ thể, phạm vi, nội dung của thực hành quyền công tố các vụ án hình sự 1.2.1. Chủ thể, phạm vi thực hành quyền công tố các vụ án hình sự - Chủ thể thực hành quyền công tố Mốc đánh dấu sự ra đời của Chủ thể thực hành quyền công tố là Sắc lệnh số 33c ngày 13/9/1945 của Chính phủ, về việc thành lập Tòa án Quân sự - đây là cơ sở pháp lý đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân đánh dấu sự ra đời của hệ thống Tòa án, cũng là văn bản pháp lý đầu tiên quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan Công tố - tiền thân của VKSND trong bộ máy nhà nước ta. Về chức năng công tố, được quy định tại Điều V, Sắc lệnh 33c là "Đứng buộc tội là một Ủy viên quân sự hay một Ủy viên trinh sát". Như vậy, lần đầu tiên chức năng công tố nhà nước được quy định bằng một văn bản pháp lý do người đứng đầu Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành. Sự hiện diện đầu tiên của tổ chức công tố và quyền công tố là ở Tòa án Quân sự. Theo đó, nội dung của quyền công tố là đưa một người phạm tội ra xét xử tại Tòa án và thực hiện việc buộc tội trước Tòa án. Bên cạnh việc thiết lập hệ thống Tòa án quân sự và Tòa án binh để xét xử những tội phạm phản cách mạng, những vi phạm trật tự quân đội, vi phạm kỷ luật của nhà binh, cần thiết phải thiết lập hệ thống Tòa án thường để xét xử 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 73 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 105 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 123 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 66 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn