intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

31
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bố cục luận văn gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và được chia làm ba Chương: Chương 1 - Những vấn đề lý luận về tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam; Chương 2 - Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội phạm chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam; Chương 3 - Giải pháp đảm bảo quả áp dụng đúng các quy định pháp luật về tội chống người thi hành công vụ. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN HOÀNG VŨ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN HOÀNG VŨ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ MÃ SỐ: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM CÔNG NGUYÊN HÀ NỘI, năm 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đề tài luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Hoàng Vũ
  4. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ BLHS Bộ luật Hình sự CQĐT Cơ quan điều tra QĐHP Quyết định hình phạt TTHS Tố tụng Hình sự TAND Tòa án nhân dân THTT Tiến hành tố tụng VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  5. DANH MỤC BẢNG BIỂU Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Tổng hợp tình hình tội chống người thi hành công vụ PL tại tỉnh Quảng Nam (từ năm 2015 đến tháng 6/2019) 2.2 Thống kê số bị can phạm tội chống người thi hành PL công vụ tại tỉnh Quảng Nam (từ năm 2015 đến tháng 6/2019)
  6. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 01 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ...................................................... 07 1.1. Những vấn đề lý luận về tội chống người thi hành công vụ ........................ 07 1.2. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội chống người thi hành công vụ ...................... 31 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG TẠI TỈNH QUẢNG NAM .................................................................................................. 38 2.1. Định tội danh chống người thi hành công vụ ............................................... 38 2.2. Quyết định hình phạt đối với tội chống người thi hành công vụ ................. 47 2.3. Nhận xét, đánh giá trong thực tiễn định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam ................................ 56 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ ....................................................................................................................... 67 3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm chống người thi hành công vụ và hướng dẫn áp dụng pháp luật về tội phạm chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam ............................................ 67 3.2. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội chống người thi hành công vụ ................................................................................................................ 69 3.3. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự về tội chống người thi hành công vụ ....................................................................................... 69 3.4. Các giải pháp, kiến nghị khác ..................................................................... 70 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 74 DANH MỤC TÀI LIỆUTHAM KHẢO PHỤ LỤC
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kể từ khi Đảng ta đưa ra chính sách đổi mới vào năm 1986, lãnh đạo tập trung thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển. Nền kinh tế có những bước đột phá vượt bậc. Văn hoá - xã hội từng bước phát triển, bộ mặt nông thôn mới ngày càng khởi sắc, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh đảm bảo. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những tiêu cực, tồn tại, hạn chế như: tình hình tội phạm nói chung và tội phạm chống người thi hành công vụ nói riêng diễn ra ngày càng phức tạp, gây bức xúc trong nhân dân. Tỉnh Quảng Nam với điều kiện thuận lợi về kinh tế, văn hóa, xã hội khi có khu kinh tế mở Chu Lai và hai di sản văn hóa thế giới là Hội An và Mỹ Sơn đã góp phần phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó, cũng còn những hạn chế liên quan đến công tác phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm chống người thi hành công vụ. Trong thời gian qua, tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ngày càng gia tăng, diễn biến phức tạp, khó lường. Theo thống kê của cơ quan chức năng, từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2019 đã xét xử 64 vụ án/ 87 bị cáo về tội chống người thi hành công vụ. Qua nghiên cứu các vụ án cho thấy, hành vi chống người thi hành công vụ của các đối tượng ngày càng tinh vi, thể hiện sự chủ động, trắng trợn và có chuẩn bị trước. Các đối tượng dùng nhiều biện pháp rất côn đồ, hung hãn, chủ động tấn 1
  8. công các lực lượng khi đang xử lý vụ việc. Có nhiều trường hợp, sau khi bị bắt giữ, xử lý, đối tượng lên kế hoạch, tìm cách tấn công lại lực lượng chức năng bằng vũ khí, công cụ rất nguy hiểm, làm ảnh hưởng đến tính mạng của người thi hành công vụ. Để ngăn chặn tình trạng này, thời gian qua các Cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) tại tỉnh Quảng Nam đã không ngừng tăng cường các giải pháp nhằm đấu tranh ngăn chặn hành vi phạm tội chống người thi hành công vụ, góp phần ngăn chặn loại tội phạm này. Tuy nhiên, hiệu quả trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này chưa cao, còn có những hạn chế nhất định, làm ảnh hưởng đến công tác phòng chống tội phạm nói riêng, tình hình an ninh chính trị nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”. Với mong muốn là đề tài này sẽ góp phần nâng cao nhận thức trong các cấp, các ngành, các địa phương về phương pháp tiếp cận các lý luận về tội chống người thi hành công vụ; đồng thời, qua nghiên cứu việc áp dụng pháp luật hình sự về tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam sẽ đánh giá kết quả đã đạt được, đồng thời rút ra được những mặt còn hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong việc xử lý tội chống người thi hành công vụ. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm chống người thi hành công vụ thời gian đến ở tỉnh Quảng Nam và sẽ đóng góp thêm kinh nghiệm cho các địa phương khác trên cả nước. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Luận văn đã tập trung nghiên cứu những nội dung lý luận của tội chống người thi hành công vụ, dựa trên những thông tin từ thực tiễn của tỉnh Quảng 2
  9. Nam (từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2019) để làm rõ thêm một số vấn đề trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt (QĐHP) đối với loại tội phạm này, nhằm góp phần giúp các Cơ quan THTT tại địa phương có được bức tranh toàn cảnh về định tội danh và QĐHP đối với tội chống người thi hành công vụ. Từ đó, có những định hướng, giải pháp trong việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội này, góp phần đem lại niềm tin cho nhân dân và chính quyền tỉnh Quảng Nam trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo trật tự - an toàn xã hội. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi về nội dung: Chuyên ngành Luật hình sự. + Phạm vi về tội danh và hình phạt: Đề tài luận văn nghiên cứu tội chống người thi hành công vụ quy định tại Điều 330 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) gọi chung là BLHS năm 2015. + Phạm vi về địa bàn: Đề tài luận văn nghiên cứu khoa học về tội chống người thi hành công vụ trên phạm vi tỉnh Quảng Nam. + Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu của đề tài luận văn giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 6/2019, gồm số liệu thống kê xét xử hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) và Tòa án nhân dân (TAND) hai cấp tỉnh Quảng Nam và 30 bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Mục đích nghiên cứu: Nhằm bổ sung, hoàn thiện lý luận về định tội danh và QĐHP của tội chống người thi hành công vụ. Từ đó, xem xét kết quả 3
  10. thực hiện, đánh giá ưu điểm, những hạn chế, bất cập, nguyên nhân ưu, khuyết điểm và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm này trong thời gian đến. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Tác giả tập trung xem xét, giải quyết các vấn đề sau: + Nghiên cứu, phân tích làm rõ và bổ sung hoàn thiện lý luận tội chống người thi hành công vụ. + Phân tích, đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định hình đối với tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện nay, làm rõ kết quả đã đạt được, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót. + Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống và xử lý loại tội phạm này 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; pháp luật của Nhà nước và phương pháp luận của khoa học Hình sự; khoa học Tố tụng Hình sự, các quy định của ngành Công an, Kiểm sát, Toà án trong đấu tranh phòng chống tội phạm này. - Một số phương pháp nghiên cứu,cụ thể như sau: + Phương pháp khảo sát thực tiễn: Phỏng vấn sâu 10 cán bộ công chức đang thực hiện công tác phòng, chống người thi hành công vụ ở tỉnh Quảng Nam. + Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu thứ cấp: Thu thập số liệu các vụ án về tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2019. 4
  11. Số liệu sơ cấp: Tự thu thập qua điều tra thực tế. + Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu Bộ Luật, Nghị định, Thông tư, Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước quy định về tội chống người thi hành công vụ và các công trình nghiên cứu khoa học khác liên quan đến tội chống người thi hành công vụ. + Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn sử dụng phương pháp này để nghiên cứu, phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm liên quan đến tội chống người thi hành công vụ trên cơ sở quy định tại các Bộ Luật, Nghị định, Thông tư hướng dẫn, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, Bộ, ngành ở Trung ương và tỉnh Quảng Nam liên quan đến loại tội phạm này; trên cơ sở đó tổng hợp, xem xét hình thức xử lý đảm bảo theo đúng quy trình, quy định. + Phương pháp chuyên gia: Chọn chuyên gia có năng lực chuyên môn về tội chống người thi hành công vụ để tham khảo, trưng cầu ý kiến, làm cơ sở để có xem xét, nhận định và tìm ra giải pháp cho nội dung của luận văn. + Phương pháp trao đổi khoa học và nghiên cứu điển hình: Nghiên cứu các hồ sơ vụ án khởi tố, điều tra, truy tố tội chống người thi hành công vụ từ năm 2015 đến hết tháng 6 năm 2019. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lý luận: Góp phần bổ sung hoàn thiện hệ thống lý luận về tội chống người thi hành công vụ. Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn là tư liệu cho công tác nghiên cứu, giảng dạy đào tạo chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự trong trường Học viện khoa học xã hội, đặc biệt giúp cho các nhà nghiên cứu xây dựng, bổ sung hoàn thiện các quy phạm pháp luật trong công tác phòng chống, đấu tranh chống loại tội phạm này. 5
  12. - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài, trước hết là góp phần nâng cao nhận thức đối với các đồng chí lãnh đạo chính quyền, các hội, đoàn thể các cấp từ tỉnh, huyện đến cơ sở hiểu rõ hơn về lý luận tội chống người thi hành công vụ ở Việt Nam, xem xét giữa lý luận và thực tiễn từ kết quả thực hiện pháp luật về tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam, từ đó định hướng góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm chống người thi hành công vụ thời gian đến. Kết quả đề tài luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ thuộc Cơ quan THTT tại tỉnh Quảng Nam. 7. Bố cục luận văn Luận văn gồm có phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và được chia làm ba Chương. Chương 1. Những vấn đề lý luận về tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam Chương 2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội phạm chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam Chương 3. Giải pháp đảm bảo quả áp dụng đúng các quy định pháp luật về tội chống người thi hành công vụ 6
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ 1.1. Những vấn đề lý luận về tội chống người thi hành công vụ 1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ 1.1.1.1. Khái niệm tội chống người thi hành công vụ Đến nay, thuật ngữ “công vụ” còn gây nhiều tranh cãi, chưa có khái niệm thống nhất. Theo cách hiểu chung nhất, “công vụ” là công việc vì lợi ích chung của Nhà nước. Một số văn bản pháp luật cũng đề cập đến thuật ngữ này như sau: Ngày 29/11/1986, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ có nội dung như sau: “Công vụ là một công việc mà cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội giao cho một người thực hiện” [Mục 1, Chương 2]. Ta có thể thấy, quy định này được hiểu theo nghĩa rộng, không có việc giới hạn phạm vi trong lĩnh vực công vụ và không giới hạn về phạm vi chủ thể của công vụ. Đối với Luật cán bộ, công chức năm 2008 được quy định như sau: “Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan” [22, Điều 2]. Quy định này đã chỉ ra những đặc điểm quan trọng của công vụ và giới hạn phạm vi chủ thể của hoạt động công vụ. Công vụ là hoạt động được tiến hành trên cơ sở pháp luật để thực hiện công việc do Nhà nước giao. Do đó, tính tuân theo pháp luật là đặc điểm quan trọng nhất của 7
  14. “công vụ”. Định nghĩa này cũng giới hạn phạm vi đối tượng là cán bộ, công chức. Đối với Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ban hành năm 2017: Luật này không quy định trực tiếp về công vụ nhưng lại có nội dung xác định người thi hành công vụ. Nội dung như sau: “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và pháp luật có liên quan vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án” [21, Điều 3]. Quy định này đã giới hạn phạm vi lĩnh vực của công vụ là trong quản lý hành chính, tố tụng và trong thi hành án. Việc giới hạn phạm vi của công vụ chỉ trong ba lĩnh vực, gồm: quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án là hoàn toàn phù hợp. Hoạt động quản lý nhà nước trong những lĩnh vực này thông qua các quyết định mang tính chất cá biệt, có tính chất mệnh lệnh - phục tùng và tác động tới từng cá nhân cụ thể. Cũng chính vì vậy, chủ thể của các hoạt động này cũng dễ bị các cá nhân tác động của công vụ chống lại, gây thiệt hại. Từ một số định nghĩa nêu trên, có thể thấy đặc điểm của công vụ là tính đúng pháp luật và được giới hạn trong phạm vi nhất định bao gồm giới hạn về phạm vi chủ thể của công vụ và giới hạn về phạm vi lĩnh vực của công vụ. Theo đó, công vụ phải là hoạt động quản lý nhà nước và phải thực hiện theo đúng pháp luật, tức là những hoạt động được thực hiện dựa trên quy định của pháp luật bao gồm pháp luật nội dung và pháp luật hình thức. Phạm vi lĩnh vực của hoạt động công vụ được giới hạn trong ba lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Chủ đề của công vụ là người thuộc các cơ quan 8
  15. Nhà nước hoặc được cơ quan Nhà nước giao quyền thực hiện những nhiệm vụ cụ thể. Với cách hiểu như vừa nêu ở trên về công vụ thì đặc điểm quan trọng nhất của công vụ là tính đúng pháp luật. Muốn được coi là công vụ thì hoạt động phải đúng pháp luật, đúng quy trình, thủ tục thực hiện đúng pháp luật và người thực hiện được giao thẩm quyền theo đúng pháp luật. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật được coi là một trong các nguyên tắc của hoạt động công vụ. Hoạt động không đúng pháp luật là hoạt động “làm trái công vụ” và rõ ràng không phải là công vụ. Như vậy, trong trường hợp người thi hành công vụ có hoạt động làm trái công vụ thì hành vi không được xem là hành vi thực hiện công vụ và dẫn đến thực hiện cũng không được coi là người thi hành công vụ. Việc xác định chính xác thế nào là hoạt động “công vụ” có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định dấu hiệu “người thi hành công vụ”. Do chưa có khái niệm chưa thống nhất về “công vụ” nên khái niệm về “người thi hành công vụ” nên cũng chưa thống nhất về khái niệm “người thi hành công vụ” trong các văn bản pháp luật. Ngày 29/11/1986 Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ban hành Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS quy định như sau: “Người thi hành công vụ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội, thực hiện chức năng, nghiệp vụ của mình và cũng có thể là những công dân được huy động làm nghiệp vụ (như: tuần tra, canh gác…) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của nhà nước, của xã hội”. Từ quy định trên, người thi hành công vụ là những người có chức vụ và quyền hạn trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội mà các cơ quan này thực hiện 9
  16. chức năng, nhiệm vụ của mình hoặc những công dân được huy động làm nhiệm vụ theo kế hoạch của các cơ quan có thẩm quyền. Đối với Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước năm 2017 quy định như sau: “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án” [21, Điều 3]. Theo Nghị định 208/2013/NĐ-CP ngày 17/12/2013 được Chính phủ quy định về các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi chống người thi hành công vụ xác định người thi hành công vụ “…là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân được cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhân dân và xã hội” [3, Điều 3]. Từ những khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm của tội chống người thi hành công vụ như sau: - Thứ nhất: Người thi hành công vụ là người được giao nhiệm vụ để thực hiện công vụ nhất định, tư cách pháp lý là điều kiện để cá nhân trở thành người thi hành công vụ và quyền hạn là cơ sở, điều kiện để thực hiện công vụ nhất định. Trong đó, quyền hạn được hiểu là quyền lực pháp lý của Nhà nước trong một phạm vi nhất định được trao cho các tổ chức, cá nhân để thực thi công vụ. Nói cách khác, đó là quyền đã được xác định về nội dung, mức độ và phải gắn liền với công việc được giao. Quyền hạn này có thể phát sinh từ vị trí công tác thường xuyên của người thi hành công vụ và trên cơ sở phù hợp với công vụ cụ thể được giao thực hiện. Nếu công vụ được giao cho người thi 10
  17. hành công vụ mà không kèm theo các quyền hạn thì sẽ có một số công vụ không được thực hiện và ngược lại khi có nhiều quyền hạn mà quá ít công vụ phải thựu hiện thì có thể xảy ra những trường hợp lạm quyền. - Thứ hai, người thi hành công vụ phải đang thực hiện một nhiệm vụ cụ thể, nhất định. Một người được xác định là người thi hành công vụ không chỉ vì người đó có thẩm quyền trong việc thực hiện công vụ mà còn phải đang làm nhiệm vụ được giao. Nội dung này chỉ khẳng định một người có thể là người thi hành công vụ vì họ có vị trí công tác có thẩm quyền tiến hành công vụ. Như vậy, người thi hành công vụ luôn gắn liền với công vụ cụ thể, việc xác định người thi hành công vụ đặt ra yêu cầu cần xác định sự tồn tại của một công vụ thực tế và công vụ đó đang thực hiện một cách đúng pháp luật bởi một chủ thể theo đúng thẩm quyền được giao. - Thứ ba, việc thực hiện công vụ của cá nhân phải theo đúng quy định của pháp luật. Đặc điểm này xuất phát từ bản chất của công vụ. Người thi hành công vụ theo đúng nghĩa phải là người thực hiện hoạt động đúng pháp luật cả về nội dung, hình thức và thẩm quyền. Từ những nội dung được phân tích nêu trên, tác giả định nghĩa tội chống người thi hành công vụ như sau: Tội chống người thi hành công vụ là hành vi cố ý cản trở, gây khó khăn cho người thi hành công vụ trong khi người đó đang thực hiện nhiệm vụ thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về hành chính, tố tụng và thi hành án. Từ định nghĩa này, có thể đưa ra một số đặc điểm của tội chống người thi hành công vụ như sau: Thứ nhất, tội chống người thi hành công vụ xâm phạm hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính, tố tụng và thi hành án, xâm phạm hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước, làm giảm hiệu quả quản lý của các 11
  18. cơ quan này. Quan hệ xã hội bị tội chống người thi hành công vụ xâm hại là quan hệ liên quan trực tiếp đến các hoạt động “công vụ”, là hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Tội chống người thi hành công vụ xâm hại đến các quan hệ xã hội trên thông qua việc tác động trực tiếp đến người đang thi hành công vụ. Thứ hai, chủ thể của tội chống người thi hành công vụ phải đủ điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự (đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của luật và không thuộc trường hợp trong tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển do mắc bệnh). Thứ ba, hành vi phạm tội của tội này là hành vi cố ý có khả năng cản trở, gây khó khăn cho người thi hành công vụ trong khi người đó đang thực hiện công vụ của họ. Trong đó, “cản trở người thi hành công vụ” có thể hiểu là: Làm họ không thực hiện được công vụ hoặc làm họ thực hiện hành vi trái với công vụ. Việc cản trở này có thể được thực hiện bằng các thủ đoạn như dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác có khả năng cản trở, gây kho khăn cho người thi hành công vụ. Trong đó: Dùng vũ lực được hiểu là có sự tác động vào cơ thể của người thi hành công vụ (có hoặc không sử dụng công cụ, phương tiện) như đấm, đá, trói hoặc đánh bằng gậy, chém bằng dao…; đe dọa dùng vũ lực được hiểu là sự tác động bằng cử chỉ, lời nói có tính răng đe, uy hiếp tinh thần để làm cho người thi hành công vụ lo sợ vũ lực sẽ xảy ra…; hoặc thủ đoạn khác được hiểu là các thủ đoạn tuy không phải là dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực nhưng vẫn có thể uy hiếp được tinh thần người thi hành công vụ như đe dọa sẽ công bố những tin tức, tài liệu bất lợi cho người thi hành công vụ hoặc cho người thân thích của họ, đe dọa hủy hoại tài sản, 12
  19. cởi bỏ quần áo trước người đang thi hành công vụ; tự gây thương tích hoặc giả gây thương tích để vu khống bị người thi hành công vụ hành hung… Người phạm tội chống người thi hàh công vụ mặc dù hiểu và nhận thức được hành vi cản trở việc thực hiện công vụ của người thi hành công vụ của mình là trái pháp luặt nhưng vẫn thực hiện và tìm mọi cách để người đang thi hành công vụ không thể hoàn thành công vụ mà họ được giao. Từ các đặc điểm chung trên đây, nhà làm luật có thể xây dựng cấu thành tội của tội chống người thi hành công vụ theo các mô hình khác nhau với thời điểm hoàn thành của tội phạm khác nhau. Trong đó, có thể xây dựng hành vi là thủ đoạn dùng vũ lực, thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực và thủ đoạn khác và dấu hiệu mục đích phạm tội là “Cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ” (không thực hiện được công vụ hoặc thực hiện hành vi trái công vụ). 1.1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 quy định về tội chống người thi hành công vụ cụ thể như sau: Điều 330. Tội chống người thi hành công vụ 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a. Có tổ chức; b. Phạm tội 02 lần trở lên; 13
  20. c. Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội; d. Giây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên đ. Tái phạm nguy hiểm. Từ những quy định nêu trên, có thể khẳng định hành vi chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đến dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. - Về khung cơ bản quy định mức hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Khung cơ bản của tội này gồm những dấu hiệu đặc trưng bắt buộc đối với tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 330 BLHS năm 2015, các dấu hiệu đó phản ánh tính chất của loại tội, cho phép phân biệt nó với loại tội phạm khác. Do đó, người thực hiện hành vi dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. - Khung hình phạt tăng nặng được quy định tại Khoản 2 Điều 330 BLHS năm 2015: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”. Khung hình phạt tăng nặng của tội chống người thi hành công vụ gồm 05 tình tiết thể hiện tính nguy hiểm hơn của hành vi phạm tội so với trường hợp phạm tội thông thường. Thứ nhất, “Phạm tội có tổ chức”. Tình tiết “phạm tội có tổ chức” được hiểu là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người (đồng phạm), cùng thực hiện tội phạm này. Sự cấu kết ở đây thể hiện sự liên kết chặt chẽ về mặt chủ quan, sự phân hóa vai trò về mặt khách quan của người phạm tội. Nghĩa là có từ hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm và trước 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1