Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
lượt xem 13
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sâu sắc hơn về mặt lý luận quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam hiện hành và việc áp dụng quy định này trong thực tiễn tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó xác định những bất cập để đề xuất hoàn thiện quy định của BLHS về tội phạm này và đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN PHƯỚC TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN PHƯỚC TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 8 38 01 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRỊNH TIẾN VIỆT HÀ NỘI, năm 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Nguyễn Phước
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ ........................................................................................6 1.1. Khái niệm và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam ...............................................6 1.2. Khái quát lịch sử luật hình sự Việt Nam quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ........................................14 1.3. Quy định tương tự của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ............................19 CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM ....................................................................................26 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................................................................26 2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với một số tội phạm khác..................................................................................44 2.3. Thực tiễn xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ....................................47 2.4. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản ...............................................52 CHƯƠNG 3: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG .......................................................................................................................61 3.1. Yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .........61
- 3.2. Nội dung hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................66 3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan .....................................................69 3.4. Các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .......................71 KẾT LUẬN ..............................................................................................................79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 BLHS Bộ luật hình sự 2 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự 3 CQĐT Cơ quan điều tra 4 CSHS Chính sách hình sự 5 LHS Luật hình sự 6 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao 7 TNHS TNHS 8 THTT Tiến hành tố tụng 9 VAHS Vụ án hình sự 10 VKS Viện kiểm sát 11 VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao 12 XHCN Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh 2.1 48 Quảng Nam đã được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai đoạn 2013-2018 Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, 2.2 49 tỉnh Quảng Nam đã được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai đoạn 2013-2018 Nhân thân các bị cáo đã bị Tòa án thị xã Điện Bàn xét xử về cố 2.3 ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác 50 giai đoạn 2013-2018
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Có thể nói, quyền con người mang những giá trị cao quý chung của toàn nhân loại, có tính phổ biến [23, tr.5]. Chính vì vậy, hầu hết pháp luật các nước đều có quy định ghi nhận và bảo đảm cho quyền con người. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền cơ bản và quan trọng trong quyền con người, được quy định cụ thể trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948. Trong đó, Điều 3 của Tuyên ngôn khẳng định: “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân” [14, tr.48]. Theo đó, không ai bị xâm phạm bất hợp pháp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những xâm phạm. Ở Việt Nam, quyền bất khả xâm phạm về thân thể được coi trọng và quy định trong đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất. Điều 20 Hiến pháp Việt Nam ghi nhận: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [21, tr.19]. Như vậy, có thể nói quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ. Trong những năm qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án đã tích cực đấu tranh ngăn chặn và xử lý các hành vi phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và các hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác nói riêng, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm [25, tr.6]. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác cho thấy, còn có nhiều bất cập, vướng mắc, nhiều vụ án việc định tội còn gặp mâu thuẫn, dễ dẫn đến xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm, trong đó có địa bàn thị 1
- xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra, quy định của BLHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung hoàn thiện về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác, tuy nhiên, việc áp dụng vẫn còn chưa thống nhất, chưa phù hợp với thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết. Từ những lẽ trên, việc nghiên cứu sâu sắc một số vấn đề lý luận các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và thực tiễn xét xử tội phạm này không những có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết, đặc biệt là gắn với một địa bàn cụ thể. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc tác giả chọn đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” nói riêng. Đầu tiên, đó là công trình nghiên cứu của ThS. Đinh Văn Quế: TNHS đối với hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người, Nxb Công an nhân dân, năm 1994. Tiếp đến là công trình TNHS đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1997 (tái bản năm 1999). Công trình luận văn thạc sỹ của Lê Đình Tĩnh, Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014. Gần đây, có luận án tiến sĩ luật học: “Các tội xâm phạm sức khỏe của người khác theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy Hữu, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017, tuy nhiên, tác giả làm cả nhóm tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác và mang tính tổng thể, đánh giá địa bàn cả nước về nhóm tội phạm này, qua đó, cũng là tư liệu để học viên tiếp tục nghiên cứu vấn đề này. Như vậy, các nghiên cứu trên đây của các tác giả cho thấy các công trình này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con 2
- người nói chung, mà chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể, sâu kỹ và độc lập về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong BLHS hiện hành. Mặt khác, cũng chưa có công trình nghiên cứu nào tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó chỉ ra các tồn tại, vướng mắc, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng, nên rõ ràng vấn đề này có tính thời sự cao. Tuy vậy, các công trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sâu sắc hơn về mặt lý luận quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam hiện hành và việc áp dụng quy định này trong thực tiễn tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó xác định những bất cập để đề xuất hoàn thiện quy định của BLHS về tội phạm này và đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: - Xây dựng khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác, từ đó làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội phạm này trong BLHS năm 2015. - Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng quy định BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đồng thời phân tích các tồn tại, vướng mắc, chỉ ra nguyên nhân. - Đưa ra giải pháp cụ thể hoàn thiện BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận, quy định BLHS và thực tiễn áp dụng quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. 3
- 4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài Luận văn được thực hiện dưới góc độ khoa học luật hình sự, thuộc chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự, mã số: 8.38.01.04 Phạm vi nội dung nghiên cứu: Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong Điều 134 BLHS năm 2015 và quy định BLHS một số nước, cũng như một số vấn đề lý luận về tội phạm này. Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Phạm vi về thời gian: Các số liệu thực tiễn phục vụ nghiên cứu đề tài được thu thập trong thời gian từ 2013 đến 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về quyền bất khả xâm phạm về thân thể, “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác” trong BLHS và những quy định pháp luật có liên quan. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê; v.v... của khoa học luật hình sự để luận chứng và làm sáng tỏ các vấn đề tương ứng. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nghiên cứu hồ sơ các vụ án làm cơ sở thực tiễn cho việc nghiên cứu, đồng thời đã đưa ra các giải pháp cụ thể bảo đảm áp dụng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả của luận văn góp phần làm sâu sắc hơn lý luận về tội cố ý gây 4
- thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, từ đó, kiến nghị các nội dung tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và một số quy định có liên quan, đồng thời nó có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Một số đề xuất, kiến nghị nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và hoàn thiện quy định BLHS về các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự; Chương 2: Quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và thực tiễn xét xử trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và các giải pháp bảo đảm áp dụng. 5
- CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Quyền được bảo vệ về sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của con người. Sức khỏe được hiểu “là trạng thái không có bệnh tật, cảm thấy thoải mái về thể chất, thư thái về tinh thần” [29, tr.878-879]. Như vậy, hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đã tác động làm mất đi sự “thoải mái về thể chất, thư thái về tinh thần” của người khác. Tuy nhiên, sự tác động này có tính chất, mức độ nguy hiểm cao thì mới bị coi là tội phạm. Việc đánh giá tính nguy hiểm hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được cụ thể hóa bằng các quy định của BLHS. Ở đó cho phép chúng ta nhận diện đâu là tội phạm và đâu không phải là tội phạm. Tội phạm là khái niệm được quan tâm nghiên cứu trọng tâm trong khoa học pháp lý hình sự và đã có nhiều quan điểm, định nghĩa về tội phạm. Trên cơ sở kế thừa những quy định trước đó, Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 đưa ra khái niệm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [22]. Quy định trên đã thể hiện tập trung nhất quán quan điểm của Nhà nước ta về 6
- tội phạm và trên cơ sở đó, nhà làm luật có thể xác định các dấu hiệu căn bản để phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác dựa trên các yếu tố sau: tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình phạt; đồng thời, các nhà nghiên cứu có thể tự xây dựng khái niệm đối với các tội phạm cụ thể trên cơ sở các dấu hiệu căn bản được nên trong khái niệm tội phạm. Trong BLHS, các nhà làm luật lại chia các hành vi được coi là tội phạm thành các nhóm, loại tội phạm khác nhau. Để phân biệt giữa chúng, bên cạnh các dấu hiệu chung của tội phạm, người ta đưa một hoặc một số dấu hiệu pháp lý đặc trưng riêng có của tội phạm đó. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng dựa vào nguyên lý đó mà hình thành. Trước hết, theo quan điểm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, “Các tội xâm phạm sức khỏe là những hành vi (hành động hoặc không hành động) có lỗi (cố ý hoặc vô ý) xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác” [4, tr.127]. Quan điểm trên đã bao quát toàn bộ đặc điểm các hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Khái niệm này cho thấy phạm vi các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là rất rộng. Trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 nhưng theo khái niệm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa thì ngoài tội phạm được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 còn có các tội phạm khác. Cụ thể, đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136). Có thể nói, các tội này là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong các trường hợp đặc biệt và gắn với chúng là các dấu hiệu đặc biệt. Quan điểm của PGS.TS. Trần Văn Luyện lại có chút khác biệt, theo đó, tội 7
- cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác “là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người” [30, tr.60]. Xét một cách toàn diện, quan điểm trên chứa đựng nhiều hạt nhân hợp lý khi phân tích tương đối bao quát các hành vi như thế nào được coi là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, đi sâu nghiên cứu, khái niệm này chưa phân tích mức độ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe là bao nhiêu thì đủ dấu hiệu cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Có thể thấy, trong nhiều trường hợp, người thực hiện hành vi dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác tác động lên cơ thể của người khác gây tổn hại cho sức khỏe của người đó nhưng chưa đến mức tội phạm. Cụ thể hơn, khi mức độ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe không lớn, dưới 11% và không thuộc các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 thì không coi là tội phạm. Bên cạnh đó, tại Phần các tội phạm Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, TS. Phạm Mạnh Hùng đưa ra khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là “hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên; dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội 02 lần trở lên; phạm tội đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc 8
- gây tổn hại sức khỏe do được thuê; có tính chất côn đồ; tái phạm nguy hiểm; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” [12, tr.146]. Tóm lại, các quan điểm trên đã khái quát nhiều mặt các dấu hiệu đặc trưng cơ bản để cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, việc mô tả quá chi tiết các dấu hiệu của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ làm hẹp cách hiểu về tội này. Mặt khác, đó là các dấu hiệu có tính định lượng nên việc thay đổi sẽ là tất yếu. Vì vậy, theo tác giả, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi, xâm hại đến sức khỏe của người khác đến mức bị coi là là tội phạm trong BLHS. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 góp phần hoàn thiện hệ thống các chế định về tội danh trong BLHS trên cơ sở kế thừa và phát huy các BLHS trước đó. Nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội phạm, trên cơ sở đó đề ra các phương hướng, cách thức, phương pháp tiến hành các hoạt động điều tra nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết VAHS liên quan đến tội phạm này. Cấu thành tội phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động điều tra VAHS. Bởi lẽ, các dấu hiệp pháp lý đặc trưng cơ bản trong cấu thành tội phạm mang tính chất đặc trưng của một tội danh cụ thể, cho phép người áp dụng pháp luật phân biệt tội phạm này với tội phạm khác cũng như giúp họ xác định được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trên cơ sở cấu thành tội phạm của một tội danh cụ thể, người áp dụng pháp luật xác định chính xác 9
- TNHS và định tội danh đối với hành vi phạm tội theo đúng pháp luật cũng như xác định được các vấn đề: Hành vi phạm tội đó thuộc loại tội phạm nào? Người thực hiện hành vi phạm tội có phải chịu TNHS hay không?... Bên cạnh đó, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc định tội danh và quyết định hình phạt, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, tránh bỏ lọt tội phạm. Ngay phần Lời nói đầu của BLHS Việt Nam đã khẳng định pháp luật hình sự là một trong những công cụ hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Đồng thời, luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Từ quy định của BLHS, có thể thấy, sự cần thiết phải quy định các tội xâm phạm sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam xuất phát từ các chức năng của nó, mà luật hình sự có chức năng trước hết và cơ bản là chức năng bảo vệ cho sự phát triển bình thường của các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. “Là một trong những bộ phận quan trọng của hệ thống tư pháp hình sự, luật hình sự được coi là công cụ tự vệ của xã hội chống lại tội phạm - những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho Nhà nước, cho con người. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của LHS là nhiệm vụ bảo vệ. Ở thời đại nào và quốc gia nào, luật hình sự cũng có nhiệm vụ ấy...” [28, tr.90]. Trong các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ có quan hệ xã hội liên quan đến quyền được bảo vệ về sức khỏe của con người. Do đó, sự cần thiết quy định các tội xâm phạm sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam được thể hiện như sau: Một là, xuất phát từ vị trí của quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con người trong hệ thống các quyền con người theo pháp luật quốc tế Nghiên cứu đặc tính cơ bản của quyền con người, ngoài các đặc tính như tính phổ biến, tính không thể tước đoạt, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau… thì một đặc tính quan trọng của quyền con người là tính không thể phân chia [23, tr.31]. Nhưng điều này không có nghĩa là các quyền cụ thể của con người có vị trí, vai trò như 10
- nhau. Có những quyền có mức độ gắn bó thiết thân với sự tồn tại của con người, thể hiện sự tôn trọng nhân phẩm cá nhân nên phải được xem là quan trọng hơn, cần được ưu tiên hơn so với các quyền khác. Trong số các quyền đó có quyền được tôn trọng, bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tự do thân thể của con người. Nói khác đi, đó chính là “quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân” [30, tr.49]. Như vậy, con người cần được bảo đảm về quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân. Ngay từ Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 của LHQ, con người đã khẳng định những quyền cơ bản của mình tại Điều 3, Điều 4, Điều 5 và Điều 9 của văn bản này, cũng như nhiều quyền khác, đó là: Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân (Điều 3); Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc cưỡng bức làm việc như nô lệ; mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm (Điều 4); Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện (Điều 9) [15, tr.49-50]. Tiếp đến, Công ước Quốc tế của Liên Hợp quốc về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 lại nhấn mạnh hơn: Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hay khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó (Điều 7). [15, tr.220] Như vậy, việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác được Hiến pháp và LHS Việt Nam quy định là xuất phát từ vị trí của quyền đó trong hệ thống các quyền con người. Việc trật tự hóa quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác trong BLHS năm 2015 dựa theo các tiêu chí về quyền con người của luật pháp quốc tế. Nó đòi hỏi mỗi quốc gia thành viên phải trên cơ sở những tiêu chí đó mà cụ thể hóa vào hệ thống pháp luật, cũng như chính sách hình sự của Nhà nước những quy định thiết thực, khả thi nhất. Điều này đúng như PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí đã khẳng định: “Với chính sách hình sự hướng tới việc bảo vệ quyền con người thì quá trình này đòi hỏi, một mặt phải xác định yêu cầu cần thiết phải hình sự hóa, tội 11
- phạm hóa những hành vi xâm hại đến quyền con người, mặt khác phải rà soát, loại bỏ những tội phạm mà cấu thành của nó hạn chế quyền con người…” [5, tr.37]. Tựu trung lại, với vị trí quan trọng như vậy, quyền được bảo vệ về sức khỏe được coi là khách thể bảo vệ quan trọng của LHS các nước và cũng như của Việt Nam. Do đó, LHS Việt Nam có nhiệm vụ phải ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền này bằng cách quy định những hành vi xâm phạm đến sức khỏe của con người, trong đó có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tội phạm và đi liền với đó là các hình phạt tương xứng với mức độ, tính chất của hành vi phạm tội. Hiện nay, thế giới ngày càng coi trọng quyền con người nói chung và quyền được bảo vệ về sức khỏe nói riêng, thì việc thể chế hóa luật pháp quốc tế và hình sự hóa các hành vi nguy hiểm xâm hại đến sức khỏe con người ở Việt Nam cần phải được chú trọng, tập trung hơn nữa. Hai là, xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam Nhìn nhận một cách khách quan, sức khỏe gắn liền với tính mạng con người là thứ vô cùng trân quý. Không có sức khỏe thì sự sống của thực thể dường như không tồn tại. Một con người mất đi sức khỏe cố nhiên sẽ rơi vào trạng thái thực vật. Vì lẽ đó, họ không thể tham gia vào các quan hệ xã hội mà mình mong muốn và bị phụ thuộc vào người khác. Quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe luôn gắn bó chặt chẽ với quyền sống của con người. Chính vì vậy, ranh giới giữa quyền được bảo vệ về sức khỏe và quyền sống là vô cùng mong manh. Với tính cách là một quyền quan trọng trong hệ thống quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe được Nhà nước ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm. Nói khác đi, “đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm hại của hành vi phạm tội là một trong các chức năng của Nhà nước và trách nhiệm quan trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng…” [5, tr.37]. Quy định việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe trong BLHS Việt Nam xuất phát từ cơ sở nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của quyền này. Nhưng hơn hết, các quy định đó bắt nguồn từ yêu cầu thực tiễn về 12
- đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm đến sức khỏe của người khác. Mặt khác, giữa quyền bất khả xâm phạm đến sức khỏe của người khác và quyền sống có mối quan hệ hữu cơ, do đó, muốn bảo vệ quyền sống trước hết phải bảo đảm được quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Thực tiễn cho thấy, khi người nào có hành vi dùng bạo lực hoặc các thủ đoạn khác tác động lên thân thể của người khác thực sự khó kiểm soát mức độ xâm phạm của mình. Có thể, ý định ban đầu chỉ muốn xâm phạm đến sức khỏe nhưng trong thực tế lại có trường hợp xâm phạm đến quyền sống của người khác. Vì vậy, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam là cơ sở để xử lý người phạm tội trong nhiều trường hợp xảy ra trên thực tiễn, đảm bảo được sự công minh của pháp luật và công bằng xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà trong BLHS Việt Nam cũng như BLHS một số nước trên thế giới, các nhà lập pháp lại quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm trong cùng một chương hay thường đặt chương này lên vị trí là chương đầu tiên của BLHS hoặc chương đầu tiên Phần các tội phạm, trong đó đề cập đến các tội phạm này. Như vậy, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác (trong đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác) là một trong những nhóm khách thể quan trọng cần LHS Việt Nam bảo vệ. Bên cạnh đó, qua việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác trong BLHS, đã bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và thân thể của người khác trái pháp luật. Ba là, xuất phát từ ý nghĩa của vấn đề bảo vệ sức khỏe của con người đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam [13, tr.62] Trong tồn tại xã hội, sức khỏe nói chung và sức lao động nói riêng chính là nền tảng tạo ra vật chất, tinh thần cho sinh hoạt xã hội. Khi có sức khỏe, con người có thể thực hiện đầy đủ và tối ưu các hoạt động cá nhân cũng như hoạt động xã hội. Từ đó, sức khỏe giúp cho sự mỗi người tự khẳng định vị trí mình trong xã hội. Tiếp cận trên phương diện xã hội, có thể thấy rằng sức khỏe của mỗi cá nhân có ảnh 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 72 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 137 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 178 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 105 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 45 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 121 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 66 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 58 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn