Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội
lượt xem 14
download
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật về luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và từ thực tiễn thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất một số giải pháp nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ HẢI VIỆT VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, 2020
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ HẢI VIỆT VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS. TS. VÕ KHÁNH VINH Hà Nội, 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .................................................................................................. 7 1.2. Địa vị pháp lý của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ..................................................................................................... 21 1.3. Các yếu tố tác động đến vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ........................................................................ 24 Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................................................... 37 2.1. Thực trạng hoạt động và các yếu tố tác động đến vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .................................... 37 2.2. Khái quát về hoạt động luật sư tại thành phố Hà Nội ...................... 46 2.3. Thực trạng hoạt động của luật sư tham gia bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội ....................... 53 2.4. Đánh giá khái quát thực trạng vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội................................ 56 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG XÉT XỬ SƠ THẦM VỤ ÁN HÌNH SỰ ...................................... 60 3.1. Hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi các quyền của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ......................................................... 60 3.2. Tổng kết thực tiễn bào chữa của luật sư .......................................... 63 3.3. Các giải pháp khác nâng cao vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .................................................................. 64 KẾT LUẬN .................................................................................................... 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 71
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT GCNNBC Giấy chứng nhận người bào chữa HĐXX Hội đồng xét xử THTT Tiến hành tố tụng TNHS Trách nhiệm hình sự TTHS Tố tụng hình sự VAHS Vụ án hình sự XHCN Xã hội chủ nghĩa XSST Xét sử sơ thẩm
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền bào chữa là một trong những quyền quan trọng của công dân khi tham gia tố tụng và luôn được đề cập trong các đạo luật của mỗi quốc gia. Ở nước ta, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc hiến định và được Hiến pháp năm 2013 quy định rõ ràng hơn: Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư, hoặc người khác bào chữa (khoản 4 Điều 31) và Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của được sự được bảo đảm (Điều 103). Đây là nguyên tắc đặc thù trong TTHS, được cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam điều chỉnh việc tiến hành giải quyết VAHS trong các giai đoạn khác nhau của TTHS. Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã chỉ rõ: Khi xét xử, Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, việc xét xử của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo… Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng (tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa…). Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người THTT và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, vị trí, vai trò của luật sư đã được nâng lên rõ rệt trong hơn thập kỷ qua, thông qua việc thực hiện khá thành công chức năng 1
- bảo vệ công lý, phát huy dân chủ thông qua việc thực hiện chức năng tố tụng để giúp cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp đã được Hiến pháp và pháp luật quy định. Tuy nhiên, thời gian qua, bên cạnh những kết quả tích cực, hoạt động TTHS vẫn có những hạn chế, vướng mắc, các quy định của pháp luật không được thực hiện nghiêm, gây cản trở cho các chủ thể tham gia tố tụng, trong đó có luật sư, làm cho vai trò của luật sư - người bào chữa mờ nhạt và thực tế đã có nhiều vụ án oan, sai xảy ra. Thực tiễn công tác, điều tra, truy tố và xét xử những năm qua cho thấy, vai trò của luật sư khi tham gia bào chữa trong XXST VAHS vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Từ đó, ảnh hưởng không nhỏ đến tính chính xác của các bản án, đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về vai trò của luật sư khi tham gia bào chữa trong các VAHS, đề ra các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của luật sư khi tham gia tố tụng, đặc biệt là ngay từ giai đoạn XXST VAHS là rất cần thiết. Với ý nghĩa đó, được sự hướng dẫn của GS.TS. Võ Khánh Vinh, em đã chọn đề tài “Vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội”, để làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong những năm qua, đã có nhiều công trình, giáo trình, sách luật, bài báo khoa học nghiên cứu, viết về vai trò của luật sư - người bào chữa trong hoạt động TTHS đặc biệt khi tham gia các VAHS. Có thể kể đến như: Luận án Tiến sĩ: “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Hiển, năm 2010, nghiên cứu toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn để chứng minh sự tồn tại khách quan của nguyên tắc tranh tụng trong các mô hình TTHS; khả năng xây 2
- dựng và áp dụng có hiệu quả nguyên tắc này phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam mà không cần thay đổi mô hình tố tụng truyền thống. Luận án Tiến sĩ: “Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, năm 2012, đã làm rõ những vấn đề lý luận về các chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử trong TTHS; tìm hiểu, đánh giá thực trạng thực hiện các chức năng này trong thực tiễn TTHS Việt Nam và đề xuất những giải pháp cần thiết để thực hiện hiệu quả các chức năng của TTHS. Luận án Tiến sĩ: “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” của tác giải Ngô Thị Ngọc Vân, năm 2016, đã khẳng định tầm quan trọng của chức năng gỡ tội và hoạt động bào chữa của người bào chữa. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự của Học viện Tư pháp cũng như giáo trình của các cơ sở đào tạo luật khác nghiên cứu về khái niệm người bào chữa nói chung và luật sư nói riêng; nghiên cứu, phân tích quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền, nghĩa vụ tố tụng của người bào chữa cũng như những quy định điều chỉnh các hoạt động cụ thể của luật sư trong quá trình tố tụng. Giáo trình “Kỹ năng hành nghề luật sư” của Học viện Tư pháp (năm 2001); Giáo trình “Kỹ năng tham gia giải quyết các vụ án hình sự” của Học viện Tư pháp được sửa đổi, bổ sung năm 2013; Sách “Quyền bào chữa và vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Tuân do Nxb Dân Trí xuất bản năm 2018… Các bài viết trên các Tạp chí khoa học: “Một số vấn đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự” của tác giả Lê Tiến Châu, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1, năm 2003; Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự của PGS.TSKH. Lê Cảm, Tạp chí Luật học, số 6, năm 2004; “Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong tranh tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Nguyễn Văn Tuân, Tạp 3
- chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 3/2010 (216); “Hành nghề luật sư - Thực trạng và giải pháp” của Luật sư Nguyễn Minh Tâm, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số Chuyên đề Pháp luật về luật sư, năm 2011; “Luật sư bào chữa trong phiên tòa sơ thẩm hình sự: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn và kiến nghị của Trịnh Tiến Việt & Trịnh Hồng Lê, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Chuyên đề về Tổ chức và hoạt động luật sư, năm 2008”… Các công trình, bài báo trên đã phân tích các khía cạnh khác nhau về quyền bào chữa, bảo đảm quyền bào chữa, về vị trí vai trò của luật sư trong TTHS, XXST VAHS nhưng nhìn chung đều cho chúng ta cái nhìn tổng thể về quyền bào chữa và đảm bảo thực hiện quyền này trên thực tế cũng như làm sáng tỏ về mặt lý luận nội dung quyền này; nhận diện được vai trò của người bào chữa trong đó có luật sư trong TTHS; bất cập và nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội, giải pháp nâng cao hiệu quả bào chữa và nâng cao vai trò của luật sư trong TTHS đặc biệt là trong giai đoạn XXST VAHS. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật về luật sư trong giai đoạn XXST VAHS và từ thực tiễn thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất một số giải pháp nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong XXST VAHS. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ của luận văn được xác định là: - Nghiên cứu, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về luật sư và vai trò của luật trong giai đoạn XXST VAHS, như: Khái niệm, vai trò của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS; địa vị pháp lý của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS; các yếu tố tác động đến vai trò của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS. 4
- - Đánh giá thực trạng vai trò của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS tại thành phố Hà Nội và các yếu tố tác động đến vai trò của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS tại thành phố Hà Nội. - Đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS với các nhiệm vụ cụ thể: hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khác nâng cao vai trò của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm hai nhóm đối tượng sau: Một là, nghiên cứu các vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động của luật sư khi tham gia TTHS trong giai đoạn XXST VAHS với vai trò là người bào chữa; thực tiễn của việc thi hành và tuân thủ pháp luật của cơ quan, người THTT để luật sư thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia TTHS trong giai đoạn XXST; Hai là, luật sư và các hoạt động của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS từ thực tiễn thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu: khái niệm XXST VAHS, khái niệm luật sư, vai trò bào chữa, địa vị pháp lý và hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS, cơ sở pháp lý, nội dung, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động này. Về pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các văn bản có liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS. Trong phạm vi luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu và giải quyết những vấn đề cơ bản liên quan đến quyền bào chữa và vai trò của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS theo quy định của pháp luật từ thực tiễn thành phố Hà Nội; đánh giá tình hình thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan trong thực tiễn, để đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như việc nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của luật sư trong XXST VAHS. 5
- 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về chính sách hình sự, về phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư pháp… 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn này, tác giả đã sử dụng các phương pháp như: Phân tích tổng hợp, lịch sử, thống kê, đối chiếu, so sánh… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn có những đóng góp về mặt lý luận đối với vấn đề vai trò của luật sư (người bào chữa) trong VAHS nói chung và trong giai đoạn XSST VAHS nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Bên cạnh ý nghĩa lý luận, luận văn còn chỉ ra được những hạn chế trong thực tiễn tham gia của luật sư vào việc giải quyết VAHS, nguyên nhân của hạn chế và đề xuất những giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật, khắc phục những hạn chế, bảo đảm quyền bào chữa được thực thi đầy đủ và nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò của luật sư trong giai đoạn XXST VAHS. 7. Kết cấu của luận văn Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1 - Những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2 - Thực trạng vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội. Chương 3 - Các giải pháp nâng cao vai trò của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành, XXST VAHS được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một VAHS, mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai tại phiên tòa, những người THTT và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận chất vấn những điều mà tại Cơ quan điều tra họ không có điều kiện thực hiện. XXST được coi như là đỉnh cao của quyền tư pháp, tại phiên tòa quyền và nghĩa vụ của người THTT và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất; những lo âu của bị cáo, người bị hại và của những người tham gia tố tụng khác được giải tỏa tại phiên tòa. Tâm lý nói chung đối với những người tham gia tố tụng là mong muốn vụ án nhanh được đưa ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật để họ biết được Tòa án sẽ phán quyết như thế nào. XXST VAHS là một giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi những người THTT và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính xác mà phải có sức thuyết phục, nhưng đồng thời lại phải tuân theo những quy định của pháp luật thông qua phiên tòa có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của thẩm phán, của hội thẩm, của kiểm sát viên, của luật sư và những người tham gia tố tụng tố tụng khác. Cũng thông qua phiên tòa mà thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, luật sư nâng cao được trình độ nghiệp vụ năng lực công tác và kỹ 7
- năng nghề nghiệp; thông qua phiên tòa, những người dự phiên tòa hiểu biết thêm về pháp luật, củng cố thêm lòng tin vào Tòa án. Vì vậy, việc tổ chức phiên tòa hình sự sơ thẩm tốt có tác dụng không chỉ đối với một vụ án cụ thể mà còn có tác dụng đối với việc nâng cao ý thức pháp luật cho người dân. Xét xử được thực hiện theo một trình tự và và theo những nguyên tắc nhất định để giải quyết vụ án. Thông qua việc xét xử mọi vấn đề của vụ án được làm sáng tỏ, trên cơ sở đó, Tòa án ra các quyết định cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, bảo vệ chế độ. Tùy theo từng tiêu chí cụ thể, xét xử được phân biệt như sau: Thứ nhất, phân biệt theo nội dung xét xử: Xét xử tội phạm hình sự, xét xử tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, xét xử khiếu kiện hành chính… Thứ hai, phân theo cấp xét xử: XXST và xét xử phúc thẩm (XXPT), ngoài ra, còn có trình tự đặc biệt là xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc, tái thẩm. Nhằm mục đích xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là XXST và XXPT. Trong đó, XXST là thủ tục bắt buộc đối với mọi vụ án nếu được Tòa án đưa ra xét xử. XXST có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết VAHS. Theo Từ điển Luật học: “Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc” [15, 869]. Trong đó, “xét xử sơ thẩm (là một từ Hán Việt) có nghĩa là lần đầu đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền” [15, 870]. Như vậy, có thể định nghĩa XXST VAHS là việc lần đầu đưa ra xét xử VAHS tại Tòa hình sự có thẩm quyền. Giai đoạn XXST VAHS được bắt đầu 8
- kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án và kết thúc khi phiên tòa sơ thẩm kết thúc. XXST VAHS có những đặc trưng cơ bản sau: Một là, XXST VAHS là một giai đoạn của hoạt động TTHS vì có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc riêng; do các chủ thể TTHS thực hiện mà trung tâm là Tòa án. Hai là, cơ sở của XXST VAHS là bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Chỉ khi đã có bản cáo trạng truy tố bị can thì Tòa án mới có thể tiến hành xem xét việc xét xử vụ án. Ba là, tại giai đoạn XXST VAHS, Hội đồng XXST VAHS bắt buộc phải có hội thẩm: Hội đồng XXST VAHS gồm một (01) thẩm phán và hai (02) hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng XXST VAHS có thể gồm hai (02) thẩm phán và ba (03) hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng XXST VAHS gồm hai (02) thẩm phán và ba (03) hội thẩm (khoản 1 Điều 254 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Bốn là, những bản án, quyết định sơ thẩm không có hiệu lực ngay và có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của XXST nói chung và XXST VSHS nói riêng. Có thể chia giai đoạn XXST VAHS thành hai giai đoạn nhỏ là: (i) Chuẩn bị XXST VAHS: Trong giai đoạn chuẩn bị XXST VAHS, thẩm phán phải thực hiện nhiều hoạt động và ra các quyết định tố tụng khác nhau như: Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; trả hồ sơ điều tra bổ sung; tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án; gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử; quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập những người cần xét hỏi tại phiên tòa. Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính từ ngày Tòa án thụ lý vụ án. Theo quy định tại Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, thời hạn chuẩn 9
- bị xét xử là 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 2 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 3 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định: đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung; tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án. Đối với vụ án phức tạp, chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp (khoản 1 Điều 277 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015). Đối với vụ án được trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận lại hồ sơ, thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, thời hạn mở phiên tòa là 30 ngày (khoản 3 Điều 227 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Trong giai đoạn chuẩn bị XXST VAHS, vai trò của luật sư tham gia bảo chữa thể hiện qua các hoạt động cụ thể như đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án; thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa; gặp gỡ bị cáo; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu... (ii) Phiên tòa sơ thẩm VAHS: Phiên tòa là một hình thức tổ chức hội đồng để xem xét, đánh giá vụ việc, vụ án và quyết định biện pháp bắt buộc giải quyết các vụ việc, vụ án nói chung và VAHS nói riêng. Phiên tòa XXST VAHS bao gồm các thủ tục sau: Thủ tục bắt đầu phiên tòa; Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa; Nghị án và tuyên án. 10
- Tại phiên tòa sơ thẩm VAHS, việc xét hỏi có tính chất là hoạt động điều tra công khai. Sau khi việc xét hỏi kết thúc, bên buộc tội và bên gỡ tội sẽ tranh tụng nhằm đưa ra các căn cứ, lý lẽ để bảo vệ quan điểm của mình. HĐXX điều khiển để việc tranh tụng diễn ra theo đúng quy định, trên cơ sở kết quả tranh tụng, HĐXX nghị án và ra bản án, quyết định với nội dung cơ bản là: Hành vi của bị cáo mà Viện kiểm sát đã truy tố và được đưa ra xét xử tại phiên tòa, phân tích những chứng cứ xác định bị cáo có tội hoặc chứng cứ xác định bị cáo không có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật Hình sự, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và cần phải xử lý như thế nào; nếu bị cáo không phạm tội thì chỉ rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và giải quyết việc khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Như vậy, tại phiên tòa XXST VAHS, quyết định về việc giải quyết vụ án sẽ được HĐXX đưa ra trên cơ sở giải quyết nhiệm vụ trong tâm của giai đoạn XXST VAHS là xác định sự thật khách quan của vụ án. Chỉ có xác định được sự thật khách quan của vụ án thì mới có thể giải quyết vụ án một cách chính xác, đúng pháp luật [29, tr. 215]. Có thể khẳng định, XXST có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình giải quyết VAHS. Thông qua việc xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án thực hiện việc điều tra công khai, trực tiếp các tài liệu, chứng cứ liên quan đến VAHS tham gia cả bên buộc tội và bên gỡ tội, những người tham gia tố tụng khác để khẳng định tính hợp pháp, tính khách quan và tính liên quan của chứng cứ đã thu thập tại phiên tòa. Thông qua việt xét hỏi công khai, Tòa án vừa có thể thu thập thêm các chứng cứ quan trọng, vừa có thể xem xét, đánh giá được những chứng cứ khác, khắc phục những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động tố tụng trước đó. Bên cạnh đó, hoạt động tranh tụng tại phiên tòa cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc giải quyết vụ án. Thông qua việc tranh tụng, các bên đưa ra được những lý lẽ để bảo vệ quan điểm của mình [29, tr. 216]. 11
- Tại phiên tòa XXST VAHS, các nguyên tắc TTHS cơ bản của TTHS cũng được thực hiện đầy đủ nhất như nguyên tắc: “Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật”; “Suy đoán vô tội”; “Bảo đảm sự vô tư của người có thẩm quyền THTT, tham gia tố tụng”; “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự”… Thông qua XXST VAHS, các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, quyền tự do dân chủ của công dân, lợi ích của Nhà nước được bảo vệ, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của Tòa án cũng được thể hiện. XXST VAHS có vai trò quan trọng còn thể hiện ở chỗ XXST VAHS có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động TTHS khác. Toàn bộ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố chỉ nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động xét xử. Bản án quyết định của Tòa án được tuyên khách quan, toàn diện, chính xác sẽ tạo lòng tin trong Nhân dân, làm giảm tỷ lệ kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, góp phần tiết kiệm thời gian, tiền bạc của Nhà nước, của Nhân dân, nâng cao chất lượng, uy tín của Tòa án và các cơ quan tư pháp [29, tr. 217]. 1.1.2. Khái niệm luật sư, vai trò của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Luật sư với tư cách là một nghề nghiệp - nghề luật, trong đó các chủ thể được phép hành nghề luật sư bằng kiến thức pháp luật của mình, thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cá nhân, pháp nhân theo quy định pháp luật. Luật sư là người hành nghề liên quan đến lĩnh vực pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật của mỗi quốc gia. Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng). Luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý như: tư vấn pháp luật, soạn thảo văn bản, tổ chức đàm phán, thương lượng về các vấn đề pháp luật và có thể đại diện cho thân chủ hoặc bảo vệ quyền lợi của thân chủ trước Tòa án trong quá trình THTT. 12
- Theo quy định tại Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)”. Như vậy, vai trò của luật sư thể hiện ở việc đại diện cho bị can, bị cáo quyền bào chữa, quyền gỡ tội, thay mặt cho bị can, bị cáo, đương sự liên quan đưa ra những lý lẽ chứng minh những yếu tố làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ. Vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tranh tụng của luật sư tại phiên tòa XXST VAHS nói riêng có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo cũng như người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Luật sư là người có trình độ và có kinh nghiệm trong hoạt động pháp luật, có kỹ năng nghề nghiệp và vận dụng pháp luật giúp cho khách hàng về mặt pháp lý khi có tranh chấp xảy ra. Nghề luật sư được đa số các nước đưa vào nghề tự do, được tổ chức theo nhiều hình thức đa dạng. Sự đa dạng này xuất pháp từ đặc thù lịch sử, văn hóa, cách suy nghĩ cũng như hệ thống pháp luật của mỗi nước. Luật sư là một nghề đặc biệt, có những đặc thù sau đây: Thứ nhất, nghề luật sư đòi hỏi những người hành nghề phải có đạo đức, trình độ chuyên môn, có tính chuyên nghiệp cao. Đạo đức, kiến thức chuyên môn là cơ sở để luật sư hành nghề. Luật sư là người am hiểu rõ kiến thức pháp luật chuyên ngành, hiểu rõ các quy định của pháp luật và biết cách áp dụng pháp luật trong từng trường hợp cụ thể. Thứ hai, luật sư hành nghề độc lập (thể hiện là sự tự do trong hành nghề, không chịu sự lệ thuộc về mặt hành chính với các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các cơ quan THTT) và tự chịu trách nhiệm cá nhân trước khách hàng về hoạt động nghề nghiệp của mình. Tính độc lập là cơ sở quan trọng trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Tính độc lập là cơ sở quan 13
- trọng trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư, luôn được được khẳng định vì luật sư có trách nhiệm duy trì và bảo vệ nguyên tắc độc lập trong hành nghề, là điều kiện cơ bản, một đảm bảo quan trọng để luật sư hoàng thành chức năng nghề nghiệp của mình bảo đảm lợi ích cao nhất cho khách hàng và xã hội. Tính độc lập trong hành nghề của luật sư được thể hiện ở chỗ, luật sư hành nghề độc lập trên cơ sở pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp chứ không chịu bất kỳ một áp lực, một cản trở nào từ bên ngoài, thậm chí, từ lợi ích cá nhân của chính bản thân luật sư. Tính độc lập không chỉ là một đặc tính cơ bản, một thế mạnh, một nghĩa vụ mà xét một cách tổng thể, nó chính là bản chất nghề nghiệp của luật sư. Thứ ba, luật sư là một nghề không chỉ đòi hỏi về chuyên môn cao, mà còn đòi hỏi người hành nghề phải có tư cách đạo đức tốt, vừa phải đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng, vừa phải bảo đảm trật tự công cộng, lợi ích xã hội. Khách hàng là người không có kiến thức chuyên môn và không tự mình đưa ra quyết định, vì vậy, họ đặt niềm tin vào người luật sư. Sự tin cậy đó đôi khi có thể bị lạm dụng và sự lạm dụng này sẽ hạ thấp danh dự nghề nghiệp, xói mòn niềm tin vào công lý và pháp luật. Luật sư phải luôn đặt quyền lợi của khách hàng và xã hội lên trên lợi ích của chính bản thân mình. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp góp phần khắc phục sự mất cân bằng và giải quyết những xung đột về quyền lợi có thể xảy ra. Cũng chính vì tính đặc thù của nghề nghiệp, mà tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp của luật sư lại đòi hỏi cao hơn các nghề bình thường khác. Nghề luật sư được điều chỉnh và kiểm soát rất chặt chẽ bằng những quy định của pháp luật. Ngoài những quy định của pháp luật còn có những quy tắc nghề nghiệp bổ sung cho các quy định của pháp luật. Những quy tắc này trong nhiều trường hợp còn đặt ra yêu cầu cao hơn so với yêu cầu của pháp luật. Những quy tắc nghề nghiệp được đưa ra nhằm bảo vệ khách hàng - những người đặt các vụ việc của mình trong tay các luật sư. Tuy nhiên, cần lưu ý, cho dù khách hàng là tối 14
- cao đi chăng nữa, thì luật sư cũng không được phép làm hoặc chấp nhận làm bất cứ việc gì không trung thực hoặc vô lương tâm. Những quy tắc đạo đức nghề nghiệp này điều chỉnh các luật sư cả trong công việc và đời sống riêng của họ. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp quy định những chuẩn mực đạo đức và ứng xử nghề nghiệp mà luật sư phải tuân thủ trong hành nghề và trong lối sống, là thước đo phẩm chất đạo đức của luật sư. Mỗi luật sư phải lấy đó làm chuẩn mực cho sự tu dưỡng, rèn luyện, qua đó giữ gìn uy tín nghề nghiệp, thanh danh của luật sư xứng đáng với sự tôn trọng và tin cậy của xã hội [31, tr. 20-23]. 1.1.3. Vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Trong hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử được coi là khâu trọng tâm, vì ở đây, biểu hiện sự tập trung và thể hiện đầy đủ quyền tư pháp, là nơi trên cơ sở kết quả điều tra, truy tố và bào chữa, Tòa án nhân danh Nhà nước đưa ra phán xét chính xác, khách quan và đúng pháp luật hay không, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có được bảo đảm hay không phụ thuộc vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử từ phía cơ quan THTT, mặt khác, từ phía hoạt động tích cực của luật sư với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo và góp phần bảo vệ công lý. Hoạt động của luật sư không phải là hoạt động tư pháp, nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động tư pháp. Vai trò của luật sư là rất quan trọng trong xét xử vụ án nói chung và trong giai đoạn XXST VAHS nói riêng. Cụ thể như sau: Một là, góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án, giúp giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật; làm minh bạch hoá hoạt động tố tụng Trong quá trình tham gia bào chữa, luật sư thực hiện các hoạt động thu thập thông tin liên, tài liệu có liên quan đến vụ án thông qua việc tiếp xúc với bị cáo, những người có liên quan… Qua đó, luật sư nắm được các tình tiết khách quan của vụ án như: bị cáo có thực hiện hành vi vi phạm pháp luật 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
86 p | 322 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
86 p | 76 | 38
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ
80 p | 188 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận
86 p | 138 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
83 p | 133 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam
84 p | 179 | 22
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Tội gây rối trật tự công cộng từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
85 p | 112 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
82 p | 46 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 60 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và tố tụng hình sự: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lào Cai
81 p | 124 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hoãn chấp hành hình phạt tù từ thực tiễn tỉnh Hải Dương
92 p | 67 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Kháng nghị phúc thẩm hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước
102 p | 47 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
91 p | 39 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
85 p | 60 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
88 p | 56 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh
86 p | 36 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
77 p | 34 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
85 p | 32 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn