intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

86
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Những vấn đề lý luận và lịch sử quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; Quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về các biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng; Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN VĂN TUẤN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN VĂN TUẤN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả được nêu trong luận văn là trung thực, chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Văn Tuấn
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUY ĐỊNH VỀ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ....................................................................................................6 1.1. Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn và áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự ...................................................................................... 6 1.2. Lịch sử quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ...........................................................................................................19 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.................................................................29 2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng năm 2015 về các biện pháp ngăn chặn ................... 29 2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng ......................................................................................................................... 43 CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ........................................................................................................................... 54 3.1. Yêu cầu đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn .........................................54 3.2. Các giải pháp đảm bảo thi hành đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn ................................................................................................ 58 KẾT LUẬN ..................................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra CQCSĐT : Cơ quan Cảnh sát điều tra Nxb : Nhà xuất bản TA : Tòa án TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TAQS : Tòa án Quân sự TP : Thành phố VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các biện pháp ngăn chặn là chế định quan trọng trong pháp luật TTHS Việt Nam. Việc quy định cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ có tác dụng ngăn chặn tội phạm mà còn có tác dụng không nhỏ đối với quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, mà cụ thể là: không để người phạm tội tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, hoặc trốn tránh pháp luật, cản trở quá trình điều tra truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là vấn đề nhạy cảm ảnh hưởng đến quyền con người, quyền và lợi ích khác của người bị áp dụng. Vì thế, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải hết sức thận trọng, phải có căn cứ, đúng thẩm quyền và đúng đối tượng mà luật định. Có như vậy, mới phát huy tác dụng của các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Nếu việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng, thiếu căn cứ... không chỉ ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân mà còn ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Hiến pháp năm 2013 quy định: "Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định". Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, BLTTHS năm 2015 đã quy định chặt chẽ, cụ thể các biện pháp ngăn chặn, bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh (Điều 109). So với quy định của BLTTHS năm 2003, những quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp ngăn chặn có nhiều điểm mới cần nghiên cứu làm rõ. Thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng trong 5 năm qua cho thấy, các biện pháp ngăn chặn, nhất là các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam được áp dụng tương đối phổ biến. Việc áp dụng các biện pháp này, trong nhiều trường hợp đã ngăn chặn kịp thời tội phạm, tạo thuận lợi cho hoạt động điều tra truy tố, xét xử và thi hành án. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ở quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng vẫn còn những hạn chế, sai sót nhất định do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau cần có giải pháp khắc phục. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu vấn đề áp 1
  7. dụng các biện pháp ngăn chặn ở một địa bàn cấp quận, huyện nhằm góp phần làm phong phú lý luận về các biện pháp ngăn chặn, đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng áp dụng các biện pháp này, trên cơ sở đó xây dựng những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của BLTTHS hiện hành về các biện pháp ngăn chặn là hướng nghiên cứu cần thiết và cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Vì lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: "Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn quận Thanh Khê, Thành phố Đà Nẵng" 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Các biện pháp ngăn chặn là một trong những chủ đề được nhiều nhà khoa học, cán bộ thực tiễn quan tâm nghiên cứu ở nhiều phương diện, cấp độ khác nhau. Tiêu biểu là các công trình sau đây: - Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của các trường Đại học, như Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Trường Đại học Cần Thơ (2008), Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2015),… Nội dung trong các giáo trình này đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản nhất và những kiến thức tổng quát về các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật Tố tụng hình sự. - Cùng với hệ thống giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam còn có các tác phẩm nghiên cứu về biện pháp ngăn chặn của các tác giả sau: Võ Khánh Vinh (2012), sách "Bình luận khoa học BLTTHS của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam", Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Anh – Phan Trung Hoài (2019), sách "Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015", Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội ; Phạm Mạnh Hùng (2018), sách "Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015", Nxb. Lao động, Hà Nội; Nguyễn Trọng Phúc (2015), sách "Chế định các biện pháp ngăn chặn theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Mai Đắc Biên và Mai Ngọc Hải (2016), bài viết "Chế định các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS năm 2015", Tạp chí Kiểm sát, số 5/2016; Hoàng Tám Phi (2018), bài "Biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015", Tạp chí Kiểm sát, Số 7/2018; 2
  8. Hoàng Anh Tuyên, bài "Những nội dung mới cơ bản về các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế tố tụng BLTTHS năm 2015". Trong các tác phẩm kể trên, các tác giả đã có những phân tích, so sánh, đánh giá, làm rõ những nội dung cụ thể quy định của BLTTHS trên cơ sở thực tiễn áp dụng về các biện pháp ngăn chặn. + Ngoài ra, đề cập đến các biện pháp ngăn chặn trong TTHS còn có các công trình nghiên cứu khoa học khác gồm: luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ... Tiêu biểu là: Luận án Tiến sĩ "Áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự của lực lượng Cảnh sát nhân dân" của tác giả Trịnh Văn Thanh, Học viện Cảnh sát nhân dân năm 2012; Luận văn Thạc sĩ: "Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự từ thực tiễn TP Đà Nẵng" của tác giả Trương Hùng Thanh, Học viện KHXH năm 2013; Luận văn Thạc sĩ: "Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội" của tác giả Nguyễn Hồng Công, Học viện KHXH năm 2017; Luận văn thạc sĩ: "Biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án hình sự về tội phạm ma túy từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh" của tác giả Đoàn Văn Long, Học viện KHXH năm 2019, v.v... Trong các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ này, các tác giả đã đề cập đến các biện pháp ngăn chặn ở nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau cả về phương diện lý luận, thực tiễn và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các biện pháp ngăn chặn hoặc từng biện pháp ngăn chặn cụ thể. Như vậy, có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự ở Việt Nam. Song do mục đích, phạm vi nghiên cứu khác nhau nên chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề: "Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng". Do vậy, có thể xác định đề tài luận văn được học viên lựa chọn nghiên cứu không trùng với các công trình khoa học đã được công bố ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài này là nhằm: làm rõ và phong phú thêm những vấn đề lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn; đánh giá thực tiễn áp dụng những biện 3
  9. pháp này ở địa bàn quận Thanh Khê, Đà Nẵng; trên cơ sở đó thiết lập các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các biện pháp ngăn chặn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích đã đề ra, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau: + Phân tích, luận giải cơ sở lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên các phương diện: khái niệm, đặc điểm, căn cứ, thẩm quyền, đối tượng, mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; + Bình luận, đánh giá làm rõ nội dung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, nhất là quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp ngăn chặn, rút ra những điểm mới, hoàn thiện cũng như những hạn chế, bất cập gây khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. + Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS ở quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng, chỉ ra những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế, sai sót cần khắc phục. + Xác định yêu cầu, kiến nghị những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm ba vấn đề: những vấn đề lý luận; quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn; thực tiễn áp dụng các biện pháp này ở quận Thanh Khê, Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn, đặc biệt là biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam của CQĐT, Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng Luận văn nghiên cứu trong phạm vi thời gian 5 năm, từ năm 2016 đến 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của phương pháp luận chủ nghĩa Mác - 4
  10. Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước và pháp luật, về bảo vệ quyền con người, quyền công dân và về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm rõ từng nội dung nghiên cứu, như phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, phương pháp tham khảo ý kiến của chuyên gia,.... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm lý luận chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo để phục vụ cho hoạt động thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời tội phạm, thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Ngoài ra, đề tài còn có giá trị làm tài liệu tham khảo đối với các sinh viên, học viên, giảng viên tại các cơ sở đào tạo ngành luật, cũng như các chuyên gia trong các cơ quan nghiên cứu lập pháp và người làm công tác thực tiễn trong các cơ quan tiến hành tố tụng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo thì nội dung luận văn được thiết kế gồm có 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Chương 2. Quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về các biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn 5
  11. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ QUY ĐỊNH VỀ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn và áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự 1.1.1. Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn 1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm * Khái niệm Các biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam và được áp dụng khá phổ biến trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử. Theo Điều 109 BLTTHS quy định thì: "Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh". Khoa học luật TTHS gọi các biện pháp này là các BPNC. Trong các BLTTHS được ban hành vào năm 1988, 2003 và 2015 mặc dù đều có một chương riêng quy định về các biện pháp ngăn chặn nhưng không có quy phạm định nghĩa về khái niệm các biện pháp ngăn chặn. Trong khoa học luật TTHS có nhiều cách hiểu khác nhau về các BPNC. Có quan điểm cho rằng: "Những biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án" [45, tr.166]. Khái niệm này đã phản ánh được bản chất, đối tượng và mục đích áp dụng các biện pháp ngăn chặn, nhưng chưa chỉ ra căn cứ áp dụng cũng như chủ thể có thẩm quyền áp dụng. Quan niệm khác được hiểu: "Biện pháp ngăn chặn là biện pháp có tính chất bắt buộc của Nhà nước do người có thẩm quyền trong cơ quan tiến hành tố tụng và cơ 6
  12. quan được quyền tiến hành một số các hoạt động điều tra theo luật định áp dụng, tạm thời tước bỏ hoặc hạn chế một phần quyền tự do thân thể của bị can, bị cáo và trong trường hợp đặc biệt có thể áp dụng đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc không cho họ tiếp tục gây nguy hại cho xã hội" [30, tr.40]. Khái niệm này mặc dù chỉ ra được đối tượng, chủ thể có thẩm quyền, mục đích áp dụng, nhưng không hợp lý khi cho rằng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn có thể "tạm thời tước bỏ một phần tự do thân thể của bị can, bị cáo". Theo chúng tôi, các biện pháp ngăn chặn không phải là hình phạt, do vậy không có nội dung "tước bỏ quyền, lợi ích của người phạm tội". Mặt khác, khái niệm này chưa liệt kê đầy đủ chủ thể có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, tức là đã bỏ sót một loại chủ thể có thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, đó là bất kỳ người nào. Cũng có quan niệm lại cho rằng: "Biện pháp ngăn chặn là biện pháp hạn chế quyền tự do cá nhân, do người có quyền hạn được quy định trong BLTTHS áp dụng đối với bị can, bị cáo, người có liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đạt hiệu quả cao" [30, tr.28]. Tuy nhiên, trong khái niệm này chưa thể hiện được căn cứ, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Mặc dù có sự khác nhau, nhưng các quan niệm nêu trên tương đối thống nhất khi đề cập đến bản chất, đối tượng và mục đích áp dụng. Mặt khác, các khái niệm khoa học này được xây dựng trước thời điểm ban hành BLTTHS năm 2015 nên chưa phản ánh được đầy đủ những vấn đề thuộc nội hàm của khái niệm các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Theo quan điểm của tác giả thì khái niệm các biện pháp ngăn chặn phải bao hàm được bản chất, thẩm quyền, căn cứ, mục đích áp dụng, đối tượng bị áp dụng. Với cách tiếp cận như vậy, có thể đưa ra khái niệm về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự như sau: "Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLTTHS, do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị buộc tội, hoặc người chưa bị khởi tố hình sự (người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang) khi có căn cứ và theo một trình tự, thủ tục mà luật định nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người bị buộc tội bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ 7
  13. hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án". Theo quy định Điều 109 BLTTHS, các BPNC bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Theo đó: - Giữ người trong trường hợp khẩn cấp: là một trong các BPNC do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng khi có căn cứ và theo trình tự thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định, đối với người bị nghi thực hiện tội phạm, người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, người đã thực hiện tội phạm nhằm kịp thời ngăn chặn họ thực hiện tội phạm, bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. - Bắt người: là một trong những BPNC do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng khi có căn cứ và theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bị can, bị cáo, người bị yêu cầu dẫn độ nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người phạm tội trốn tránh pháp luật, tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Theo quy định hiện hành, biện pháp bắt người bao gồm: + Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn là BPBN trong TTHS do người có thẩm quyền áp dụng đối với người đã bị giữ trong trường hợp khẩn cấp khi xét thấy cần phải tiếp tục áp dụng biện pháp bắt để tạm giữ đối với người đó trong một thời hạn nhất định. + Bắt người phạm tội quả tang là một trong những BPBN trong TTHS khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. + Bắt người đang bị truy nã là một trong những BPBN trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị kết án trục xuất, phạt tù hoặc tử hình hoặc người đang chấp hành án trục xuất, chấp hành án phạt tù hoặc người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn và đã có quyết định truy nã của cơ quan có thẩm quyền. + Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một trong BPBN trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo để tạm giam nhằm ngăn chặn việc 8
  14. bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án. + Bắt người bị yêu cầu dẫn độ là một trong những BPBN trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị yêu cầu dẫn độ để tạm giam nhằm bảo đảm việc xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành, yêu cầu dẫn độ, đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. - Tạm giữ: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã, người phạm tội tự thú, đầu thú nhằm ngăn chặn việc họ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. - Tạm giam: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLTTHS quy định hình phạt tù trên 2 năm khi có căn cứ chứng tỏ rằng họ có thể bỏ trốn, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội. - Bảo lĩnh: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có đủ căn cứ theo PLTTHS quy định để thay thế biện pháp tạm giam nhằm bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo khi được cơ quan có thẩm quyền THTT triệu tập và ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. - Đặt tiền để bảo đảm: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người thân thích của bị can, bị cáo nhằm bảo đảm sự có mặt của họ, ngăn ngừa việc bị can, bị cáo cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và để bảo đảm thi hành án. - Cấm đi khỏi nơi cư trú: là một trong những BPNC do cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của CQĐT, Viện Kiểm sát, Tòa án. - Tạm hoãn xuất cảnh: là một trong những BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua việc kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm 9
  15. hoặc đối với bị can, bị cáo khi có căn cứ xác định việc xuất cảnh của họ có dấu hiệu bỏ trốn. * Đặc điểm của các biện pháp ngăn chặn Cả lý luận và thực tiễn áp dụng cho thấy, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự có những đặc điểm sau đây: + Thứ nhất, các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự của Nhà nước. Các biện pháp ngăn chặn có đặc điểm này là vì đây là những biện pháp tác động mang tính quyền lực nhà nước đối với những người bị áp dụng, buộc họ không được phép thực hiện một số hành vi như: không được tiếp tục phạm tội, không được rời khỏi nơi cư trú, tạm thời không được xuất cảnh, không được thực hiện những hành vi cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Những hành vi mà Nhà nước cấm này buộc đối tượng bị áp dụng phải chấp hành. + Thứ hai, các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp mang tính chất phòng ngừa, không mang tính chất trừng trị. Đặc điểm này cho thấy, việc quy định cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong từng trường hợp cụ thể phải căn cứ vào yêu cầu phòng ngừa, ngăn chặn người bị buộc tội bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, gây cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Xét về mặt nội dung, các biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng chỉ hạn chế tạm thời một số quyền và lợi ích của người bị áp dụng như: quyền tự do thân thể, tự do đi lại, cư trú, xuất cảnh, .v.v... nhưng không tước bỏ những quyền và lợi ích của họ như hình phạt. Do vậy, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự không mang tính chất trừng trị, không phải là hình phạt. + Thứ ba, các biện pháp ngăn chặn mang tính chất pháp lý. Tính pháp lý của BPNC thể hiện ở việc, chỉ những biện pháp nào có mục đích phòng ngừa tội phạm, ngăn chặn những hành vi gây cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được luật quy định thì mới được coi là BPNC trong Tố tụng hình sự. + Thứ tư, các biện pháp ngăn chặn mang tính lựa chọn, tùy nghi. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực tế áp dụng cho thấy, các 10
  16. biện pháp ngăn chặn không nhất thiết phải áp dụng trong mọi trường hợp, đối với tất cả các vụ án hình sự cũng như đối với tất cả người bị buộc tội. Chỉ áp dụng các biện pháp này trong trường hợp thật cần thiết, dựa trên những căn cứ luật định. Do vậy, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không mang tính bắt buộc mà mang tính lựa chọn. Tính chất này đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải xem xét cân nhắc hết sức thận trọng khi quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Việc lựa chọn biện pháp ngăn chặn cụ thể để áp dụng là tùy thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Khi sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn không thì chúng phải được hủy bỏ hoặc bị thay thế bằng các biện pháp khác. 1.1.1.2. Ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn Việc quy định và áp dụng các BPNC trong TTHS có ý nghĩa nhiều mặt. Cụ thể là: + Việc quy định các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng để ngăn chặn tội phạm, hạn chế những thiệt hại do tội phạm gây ra cho xã hội. + Việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự góp phần bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được thuận lợi, không bị kéo dài do đã kịp thời ngăn chặn, không để cho người bị buộc tội có thể cản trở, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Ngoài ra, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn còn góp phần ngăn chặn bị can, bị cáo bỏ trốn có thể gây khó khăn cho việc thi hành án, qua đó góp phần bảo đảm hiệu lực thực tế của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. + Việc quy định các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự với những căn cứ áp dụng chặt chẽ còn tạo cơ sở pháp lý để cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Ngoài ra, còn có tác dụng hạn chế sự lạm quyền trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận. 1.1.1.3. Phân biệt các biện pháp ngăn chặn với các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự khác. Biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là biện pháp mang tính quyền lực nhà 11
  17. nước do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định, tác động lên tư tưởng, hành vi của người tham gia tố tụng, buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Các biện pháp cưỡng chế độ tố tụng hình sự có tính chất, nội dung, mục đích, đối tượng áp dụng khác nhau. Căn cứ vào những tiêu chí này, các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự có thể được thành 3 nhóm: - Các BPNC, như giữ người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người; tạm giữ; tạm giam; bảo lãnh; đặt tiền để bảo đảm; cấm đi khỏi nơi cư trú; tạm hoãn xuất cảnh. - Các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ, như khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xem xét dấu vết trên thân thể v.v... - Các biện pháp đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, như biện pháp áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản. Trong 3 nhóm biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nêu trên, các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự có tính nghiêm khắc hơn cả, bởi chúng có khả năng hạn chế tạm thời một số quyền và lợi ích thiết thân của người bị áp dụng (như quyền tự do thân thể, tự do đi lại, cư trú...). Do đều là những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, nên tất cả ba nhóm biện pháp nêu trên đều có điểm chung: đều là biện pháp mang tính quyền lực nhà nước; chỉ do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng khi có căn cứ và theo một trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định; đều không nhằm mục đích trừng trị, giáo dục người phạm tội mà nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Tuy nhiên, giữa chúng có sự khác nhau nhất định. * Điểm khác nhau giữa biện pháp ngăn chặn với biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ: + Về nội dung: các biện pháp ngăn chặn có khả năng hạn chế tạm thời quyền và lợi ích thiết thân (quyền tự do thân thể, cư trú, đi lại) của đối tượng bị áp dụng, còn các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ không có khả năng này. + Về đối tượng bị áp dụng: đối tượng bị áp dụng các BPNC chỉ có thể là con người, trong khi đó đối tượng bị áp dụng các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập 12
  18. chứng cứ có phạm vi rộng hơn, không chỉ con người cụ thể mà còn là nơi ở, nơi học tập, làm việc, tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, dữ liệu điện tử,bưu kiện, bưu phẩm,… + Về mục đích áp dụng: các biện pháp ngăn chặn được áp dụng chủ yếu nhằm ngăn chặn tội phạm, không để cho tội phạm tiếp tục được thực hiện, không để cho người phạm tội trốn tránh pháp luật... Tuy nhiên, một chừng mực nhất định, các biện pháp ngăn chặn được áp dụng còn nhằm mục đích thu thập, bảo quản chứng cứ trong vụ án, tạo điều kiện cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Trong khi đó, mục đích chủ yếu của việc áp dụng các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ là nhằm phát hiện, thu giữ, ghi nhận và bảo quản chứng cứ chứng minh tội phạm, làm rõ sự thật khách quan của vụ án. + Về tính chất: các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ là các biện pháp điều tra, còn các biện pháp ngăn chặn không phải là các biện pháp điều tra (theo đúng nghĩa). + Ngoài ra, tùy thuộc vào từng biện pháp cụ thể hay nhóm biện pháp này còn khác nhau ở căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng. * Điểm khác nhau giữa các biện pháp ngăn chặn với các biện pháp bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án: + Về nội dung, mức độ cưỡng chế: các biện pháp bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án có tính cưỡng chế những ít nghiêm khắc, chủ yếu nhằm mục đích bắt buộc đối tượng bị áp dụng phải thi hành nghĩa vụ công dân theo quy định pháp luật. Trong khi đó, các BPNC có tính cưỡng chế nghiêm khắc hơn bởi khi được áp dụng các biện pháp này có khả năng hạn chế tạm thời quyền tự do thân thể, tự do cư trú, đi lại của đối tượng bị áp dụng. + Về đối tượng bị áp dụng: Các biện pháp bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án có đối tượng bị áp dụng nhiều hơn các biện pháp ngăn chặn, bao gồm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, ngoai ra còn có: Người làm chứng, người bị hại, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; bị can, bị cáo về tội mà BLHS quy định hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại; người bị buộc tội về tội mà BLHS quy định hình phạt tiền tịch thu tài sản để bảo đảm bồi thường thiệt hại. Trong khi đó, đối tượng bị áp dụng các BPNC chỉ bao gồm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang, người 13
  19. đang bị truy nã, bị can, bị cáo, người bị yêu cầu dẫn độ. + Về mục đích áp dụng: việc áp dụng các biện pháp đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án là nhằm mục đích bảo đảm cho những hoạt động này được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn do pháp luật quy định, không có mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn hành vi cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. + Về tính chất: các biện pháp đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án không có tính chất phòng ngừa, ngăn chặn cũng như tính chất điều tra vụ án mà chỉ có tính chất hỗ trợ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. + Về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng: tùy thuộc vào từng biện pháp cụ thể mà có căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng khác nhau. Mặc dù giữa biện pháp ngăn chặn với các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự có những điểm khác nhau cơ bản như trên, nhưng các biện pháp này có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thực tế cho thấy, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn sẽ tạo điều kiện cho việc áp dụng các biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Ngược lại, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác sẽ tạo thuận lợi cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ làm căn cứ để áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Nắm vững những vấn đề này sẽ giúp các cơ quan, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng đắn các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án được đúng đắn, kịp thời, qua đó góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; góp phần thiết thực vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. 1.1.2. Những vấn đề lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn 1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ "áp dụng" được giải nghĩa là "đưa vào vận dụng trong thực tế điều nhận thức, lĩnh hội được" [54, tr.33]. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn là một hình thức áp dụng pháp luật. Theo từ điển Luật học thì: "Áp dụng pháp luật là hoạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ 14
  20. chức xã hội được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật và các trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể" [53, tr.15]. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn thực chất là áp dụng (thi hành) các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự quy định về các biện pháp ngăn chặn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Với tính chất là một hình thức áp dụng pháp luật (mà cụ thể là pháp luật tố tụng hình sự) áp dụng các biện pháp ngăn chặn mang những đặc điểm chung của hoạt động áp dụng pháp luật, đồng thời còn có những đặc điểm riêng của mình. * Những đặc điểm chung: + Thứ nhất, áp dụng các biện pháp ngăn chặn là hoạt động thi hành pháp luật tố tụng hình sự mang tính tổ chức quyền lực nhà nước. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC chủ yếu là các cơ quan THTT (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án), đại diện cho tính tối cao của quyền lực chính trị. Do vậy, các cơ quan này quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn căn cứ vào quy định của pháp luật và theo ý chí của mình (ý chí nhà nước), không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng bị áp dụng. + Thứ hai, áp dụng các biện pháp ngăn chặn là hoạt động điều chỉnh cá biệt quan hệ pháp luật tố tụng hình sự cụ thể. Thực tế cho thấy, áp dụng các biện pháp ngăn chặn chỉ tiến hành trong những trường hợp cụ thể, đối với những đối tượng cụ thể, làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự cụ thể. Do vậy hoạt động này luôn có tính xác định, nghĩa là các biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với ai, trong trường hợp nào, ở đâu và vào thời điểm nào. Những đòi hỏi này làm cho hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn có tính điều chỉnh cá biệt. + Thứ ba, hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn được tiến hành theo trình tự, thủ tục, hình thức chặt chẽ do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ ảnh hưởng trực tiếp quyền và lợi ích thiết thân của người bị áp dụng (nhất là quyền tự do thân thể) mà còn ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước nói chung, của các cơ quan và người tiến hành tố tụng nói riêng. Do vậy, hoạt động này phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ, dưới hình thức do pháp luật tố tụng hình sự quy định. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2