intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc nhằm giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

27
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các biện pháp, cơ chế giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế được đề cập trong Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc và đề xuất vấn đề giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia bằng những biện pháp này. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc nhằm giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ MINH THÚY ¸P DôNG §IÒU 33 TRONG HIÕN CH¦¥NG CñA LI£N HîP QUèC NH»M GI¶I QUYÕT HßA B×NH TRANH CHÊP QUèC TÕ Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 01 08 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN BÁ DIẾN HÀ NỘI - 2014
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Thị Minh Thúy
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG ĐIỀU 33 HIẾN CHƢƠNG LIÊN HỢP QUỐC TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP QUỐC TẾ .........................................................................4 1.1. Khái niệm .....................................................................................................4 1.1.1. Tranh chấp quốc tế và việc giải quyết các tranh chấp quốc tế ......................4 1.1.2. Áp dụng pháp luật .......................................................................................10 1.2. Vị trí, vai trò và ý nghĩa của Điều 33 Hiến chƣơng Liên Hợp quốc trong giải quyết các tranh chấp quốc tế .........................................13 1.2.1. Vị trí của Điều 33 trong Hiến chương Liên Hợp quốc ...............................13 1.2.2. Mối quan hệ giữa Điều 33 Hiến chương Liên Hợp quốc với nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế ..................................................16 1.2.3. Ý nghĩa của Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc trong giải quyết tranh chấp quốc tế .......................................................................................17 Chƣơng 2: NỘI DUNG CỦA ĐIỀU 33 HIẾN CHƢƠNG LIÊN HỢP QUỐC ......... 19 2.1. Các biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế phi tài phán.........................19 2.1.1. Biện pháp đàm phán ....................................................................................19 2.1.2. Biện pháp trung gian hòa giải .....................................................................21 2.1.3. Biện pháp thành lập các ủy ban điều tra và ủy ban hòa giải quốc tế ..........22 2.2. Các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng cơ quan tài phán ...............23 2.2.1. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án công lý quốc tế ....................................23 2.2.2. Giải quyết tranh chấp tại Tòa án quốc tế về Luật biển................................36 2.2.3. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế .............................................41
  4. 2.2.4. Giải quyết tranh chấp tại Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII Công ước Luật biển 1982 ............................................................................44 2.2.5. Giải quyết tranh chấp tại Tòa trọng tài đặc biệt thành lập theo phụ lục VIII Công ước Luật biển năm 1982 ......................................................47 2.3. Giải quyết tranh chấp tại các tổ chức quốc tế ........................................51 2.3.1. Giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN .......52 2.3.2. Giải quyết tranh chấp quốc tế tại Liên hợp quốc ........................................58 Chƣơng 3: THỰC TIẾN ÁP DỤNG ĐIỀU 33 HIẾN CHƢƠNG LIÊN HỢP QUỐC TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ HIỆN NAY .................................................................................................61 3.1. Các vụ việc giải quyết tranh chấp quốc tế điển hình .............................61 3.1.1. Giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam và Thái Lan bằng biện pháp đàm phán .....................................................................................................61 3.1.2. Vụ eo biển Corfu (Vương quốc Anh/Anbani) giải quyết tranh chấp tại Tòa án Công lý quốc tế ..........................................................................62 3.1.3. Philippines kiện Trung Quốc về việc giải thích và áp dụng sai UNCLOS 1982 ............................................................................................68 3.2. Kiến nghị giải pháp giải quyết tranh chấp trên biển giữa Việt Nam và các nƣớc bằng các biện pháp hòa bình theo quy định tại Điều 33 Hiến chƣơng Liên hợp quốc .......................................................75 3.2.1. Tổng quan về tình hình tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên biển giữa Việt Nam và các nước .................................................................................75 3.2.2. Đề xuất biện pháp giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển giữa Việt Nam và các nước .................................................................81 3.2.3. Một số khó khăn Việt Nam có thể đối mặt khi tiến hành giải quyết tranh chấp quốc tế .......................................................................................96 KẾT LUẬN ..............................................................................................................99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................101
  5. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. AU: Liên minh châu Phi. EU: Liên minh châu Âu. ILO: Tổ chức Lao động quốc tế. UNCLOS: Công ước Liên hợp Quốc về Luật biển
  6. MỞ ĐẦU Trong thực tiễn quan hệ quốc tế giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế, có rất nhiều các lĩnh vực, nhiều mối quan hệ mà quyền và lợi ích của các chủ thể đan xen lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh, quốc phòng, môi trường… Tất cả đều phản ánh lợi ích đa dạng và phong phú của các chủ thể luật quốc tế khi tham gia vào quan hệ quốc tế. Chính vì vậy, khi thiết lập và thực hiện các quan hệ diễn ra giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau thì tranh chấp, bất đồng giữa các chủ thể là điều không thể tránh khỏi. Ngày nay, cùng với xu thế toàn cầu hóa, hợp tác giữa các quốc gia ngày càng mở rộng và phát triển, đồng hành với đó là những nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến những tranh chấp quốc tế ngày càng gia tăng. Để bảo đảm được lợi ích của các bên tranh chấp nói riêng mà không làm phương hại đến hòa bình, an ninh quốc tế nói chung, đòi hỏi các quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế, đặc biệt là nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp đã được ghi nhận trực tiếp và cụ thể tại Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc – điều lệ của tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh với nhiệm vụ chính là giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế. Trong pháp luật quốc tế, hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất nhằm giữ gìn ổn định và trật tự quốc tế. Việc nghiên cứu các biện pháp và vấn đề áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế được nêu tại Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc là cách hữu hiệu nhất và cần thiết để từ đó đưa ra được những biện pháp giải quyết hiệu quả các tranh chấp quốc tế mà Việt Nam đang là một bên tranh chấp, đặc biệt là trong giai đoạn đang diễn ra những tranh chấp căng thẳng trên biển Đông như hiện nay. Dưới góc độ nghiên cứu lý luận về các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế và tiếp thu có chọn lọc những công trình nghiên cứu, bài viết của các học giả trong nước và quốc tế, học viên chọn đề tài “ Áp dụng Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc nhằm giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế hiện nay” trong khuôn khổ Luận văn Thạc sỹ Luật học của mình. 1
  7. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1. Mục tiêu nghiên cứu đề tài Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các biện pháp, cơ chế giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế được đề cập trong Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc và đề xuất vấn đề giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia bằng những biện pháp này. Luận văn đề cập đến các biện pháp giải quyết tranh chấp cụ thể được nêu trong Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc, cách thức áp dụng, ưu điểm cũng như hạn chế của từng biện pháp trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế và nêu lên một số tranh chấp quốc tế điển hình. Sau đó, Luận văn đi đến tổng kết và phân tích tất cả các vấn đề trình bày để đi kết luận được các giải pháp mang tính khoa học nhằm vận dụng vào trong vấn đề giải quyết tranh chấp Biển Đông, một tranh chấp đang diễn ra vô cùng phức tạp. 2. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp lịch sử; phương pháp biện chứng; phương pháp so sánh; phương pháp phân tích; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế được nêu tại Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn thông qua việc nghiên cứu nội dung Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc về các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi tham gia giải quyết tranh chấp quốc tế. 4. Ý nghĩa nghiên cứu Luận văn nghiên cứu vai trò, vị trí của Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế, phân tích cụ thể từng biện pháp giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế được thừa nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc và thực tiễn đời sống pháp lý quốc tế hiện nay, qua đó rút ra được một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi tham gia vào giải quyết các tranh chấp quốc tế hiện nay. 2
  8. Đối với học viên, sẽ góp phần tăng cường kiến thức về môn học Luật Quốc tế và các môn học liên quan, cũng như các kiến thức về chính trị, xã hội. Điều này có giá trị bổ trợ kiến thức cho định hướng nghề nghiệp trong tương lai. Bên cạnh đó, góp một phần công sức và chính kiến của mình vào công việc nghiên cứu tranh chấp Biển Đông của các học giả, qua đó khẳng định sự quan tâm của học viên đến vấn đề hệ trọng của đất nước. 5. Bố cục của luận văn Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn được chia thành 3 Chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về áp dụng Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc trong giải quyết tranh chấp quốc tế Chương 2. Nội dung Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc Chương 3. Thực tiễn áp dụng Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc trong giải quyết tranh chấp quốc tế hiện nay 3
  9. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG ĐIỀU 33 HIẾN CHƢƠNG LIÊN HỢP QUỐC TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm 1.1.1. Tranh chấp quốc tế và việc giải quyết các tranh chấp quốc tế 1.1.1.1. Khái quát chung về tranh chấp quốc tế a. Tranh chấp quốc tế Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam xuất bản năm 1992, giải thích rõ ở điểm 2 nghĩa của từ “tranh chấp” là: “đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa các bên”[29]. Trong vụ kiện Mavrommatis case, Tòa án Công lý quốc tế giải thích rằng tranh chấp là việc bất đồng về quan điểm pháp luật hay về mặt thực tế, là tranh chấp về quan điểm pháp lý hoặc mâu thuẫn về lợi ích giữa hai người trở đi. Phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế năm 1924 về vụ kiện Mavrommatis case đã giải thích về khái niệm của tranh chấp (dispute) là “Sự bất đồng về mặt pháp lý hay về thực tế, còn gọi là sự xung đột về quan điểm pháp lý hay là sự mâu thuẫn về lợi ích giữa hai người trở đi” [39]. Về khái niệm tranh chấp quốc tế, theo giáo trình Luật Quốc tế của Ấn Độ, tác giả Kapoor đã nêu rõ: - Thứ nhất là sự tranh chấp giữa các quốc gia. Trường hợp có hành vi sai trái với một dân tộc hay với một quốc gia nào đó nhưng nếu chính phủ của quốc gia đó không có hành động phản ứng lại thì cũng không được coi là tranh chấp quốc tế; - Thứ hai, sự tranh chấp phải xảy ra những hành vi cụ thể từ phía quốc gia gây sự; - Thứ ba, sự tranh chấp phải liên quan đến các đối tượng tranh chấp cụ thể của quốc gia bị hại [7]. Căn cứ vào thực tiễn thì tranh chấp quốc tế là hoàn cảnh thực tế mà trong đó các chủ thể tham gia vào quan hệ quốc tế có những quan điểm pháp lý và quyền lợi 4
  10. mâu thuẫn với nhau. Như vậy, một tranh chấp quốc tế sẽ phát sinh khi xuất hiện các xung đột giữa các bên trong Luật Quốc tế về quyền và quan điểm pháp lý liên quan tới đối tượng tranh chấp. Tranh chấp sẽ chấm dứt khi sự xung đột này không còn tồn tại. Ngoài ra, tranh chấp quốc tế còn được khái quát là những vấn đề phát sinh giữa các chủ thể của Luật Quốc tế thể hiện những bất đồng xung đột về những vấn đề cơ bản của Luật Quốc tế cũng như các ý kiến, quan điểm khác nhau trong việc giải thích và áp dụng các quy định pháp luật quốc tế. Tranh chấp quốc tế có nhiều loại nhưng trong công trình nghiên cứu này, học viên chỉ đề cập đến những tranh chấp quốc tế có thể gây nguy hại đến hòa bình và an ninh khu vực và thế giới mà đối tượng tranh chấp đó là: vấn đề tranh chấp về biên giới, chủ quyền lãnh thổ, việc đối đầu quân sự, việc chạy đua vũ khí hạt nhân, vấn đề can thiệp quân sự hay xung đột sắc tộc…Các tranh chấp trên luôn là mối đe dọa đến sự sống còn của nhân loại và bị Luật Quốc tế cấm, các nguy cơ phát sinh từ tranh chấp này là vấn đề mà các nhà lãnh đạo quốc gia, Liên hợp quốc, nhà làm luật quốc tế…cần hợp sức để tìm biện pháp ngăn cản trước khi nó xảy ra cũng như tìm mọi giải pháp để chấm dứt các tranh chấp bằng các nguyên tắc của Luật Quốc tế. b. Chủ thể tranh chấp quốc tế Điều 2 và 3 của Hiến chương Liên hợp quốc quy định rằng tất cả thành viên của Liên hợp quốc có nghĩa vụ phải giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên bằng biện pháp hòa bình, tức là các quốc gia thành viên Liên hợp quốc là các bên tranh chấp quốc tế, các biện pháp giải quyết trên không thể áp dụng được với tính chất của cuộc tranh chấp nội bộ của một nước nào đó như đã nêu tại Khoản 6 Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc. Cũng theo Khoản 6 Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc đã cho phép các quốc gia không phải thành viên Liên hợp quốc cũng có quyền hành động theo biện pháp này. Theo Điều 34, Khoản 1 của Quy chế Tòa án Công lý quốc tế quy định rằng: chỉ có các nước mới có thể là các bên trong một vụ việc đang được tòa án phân giải. Như vậy, từ những phân tích trên có thể rút ra chủ thể của tranh chấp quốc tế đều là các các quốc gia là chủ thể của Luật Quốc tế. 5
  11. 1.1.1.2. Các biện pháp chủ yếu giải quyết tranh chấp quốc tế trong lịch sử quan hệ quốc tế a. Các biện pháp bạo lực (chiến tranh) (the use of forces between states) Trước Hiệp ước Hòa bình Briand – Kellogg 1928, trong quan hệ quốc tế, việc dùng vũ lực hay chiến tranh được coi là biện pháp hợp pháp để giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia. Hành động xâm lược một quốc gia độc lập chủ quyền hay xâm chiếm một bộ phận lãnh thổ của nước khác được Luật Quốc tế cổ điển coi là “can thiệp – Intervention”. Trong các loại mô hình can thiệp đó, việc sử dụng lực lượng vũ trang đánh chiếm lãnh thổ của quốc gia khác thậm chí có thể dẫn đến hệ quả là xóa bỏ cơ cấu tồn tại của quốc gia bị thua trận [39]. Những chế định điều chỉnh vấn đề giải quyết tranh chấp quốc tế trong Luật Quốc tế cổ điển đã được thay đổi đáng kể và bị thay thế bởi Hiệp ước Briand – Kellogg 1928 và sự ra đời của Hiến chương Liên hợp quốc. Trước khi có định ước quốc tế về từ bỏ chiến tranh, chế định về chiến tranh đã bổ sung cho luật quốc tế nhiều chức năng trái ngược nhau. Khi nào có sự vắng mặt của cơ chế quốc tế để thi hành pháp luật thì chiến tranh trở thành phương tiện tự lực của các quốc gia nhằm tạo hiệu lực cho những yêu sách mà họ tự cho là phù hợp với Luật Quốc tế hay còn gọi đó là việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của quốc gia. Trong Luật quốc tế đã xuất hiện 2 khái niệm về chiến tranh, đó là chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Như Giáo sư Henton viết “…không còn nghi ngờ gì nữa, đã có phê bình đối với sự khác thường của luật quốc tế vì việc thành lập các nguyên tắc về qui tắc xử sự quốc tế trong thời bình nhưng lại không cấm các quốc gia dùng chiến tranh xâm lược “aggression” chống lại trật tự quốc tế” [39]. Việc giải thích ban đầu về sự phân biệt thế nào là chiến tranh chính nghĩa (just wars – mà được pháp luật quốc tế cho phép, ủng hộ) và chiến tranh phi nghĩa (unjust wars – tự coi là ngoài vòng pháp luật) là rất phức tạp. Khi chiến tranh xảy ra giữa hai quốc gia, các bên thứ ba luôn muốn tránh tham ra chiến tranh với các bên tham chiến mà không nhất thiết cần quyết định chiến tranh nào là chính nghĩa và có 6
  12. thể, chẳng có ai nói đến sự khác thường đó đã vô hiệu hóa luật pháp quốc tế. Thực ra, các quốc gia cùng tuân theo Luật Quốc tế về hòa bình nhưng nếu họ biết là lợi ích quốc gia của họ sẽ gặp nguy cơ nghiêm trọng thì họ sẽ có hành động sử dụng bạo lực (dùng chiến tranh) để bào chữa lợi ích của họ và thành lập những nguyên tắc mới cho những quan hệ mới trong một trật tự quốc tế, sẽ sửa đổi lại những nghĩa vụ quốc tế khác nhau. Khoản 3 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc quy định: “Tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình, sao cho không tổn hại đến hòa bình, an ninh quốc tế và công lý” Điều 2 Khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc ghi rõ “tất cả các thành viên Liên hợp quốc từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất cứ quốc gia nào cũng như bằng cách khác trái với những mục đích của Liên hợp quốc”. Tuy nhiên, Hiến chương Liên hợp quốc không cố gắng đặt thuật ngữ “chiến tranh” hay “xâm lược” ra ngoài vòng pháp luật, Hiến chương chỉ cấm việc đe dọa hay sử dụng vũ lực. Chương VII của Hiến chương Liên hợp quốc cho phép Hội đồng Bảo an có quyền quy định những tồn tại của mối đe dọa nào đến hòa bình, vi phạm hòa bình hay hành vi xâm lược và có kiến nghị hay quyết định chọn những kế hoạch nhằm duy trì, khôi phục nền hòa bình và an ninh quốc tế. Điều 51 Hiến chương “không có một điều khoản nào trong Hiến chương này làm tổn hại đến quyền tự vệ cá nhân hay tập thể chính đáng trong trường hợp thành viên Liên hợp quốc bị tấn công vũ trang...), xét về mặt pháp lý điều 51 của Hiến chương Liên hợp quốc cũng có nhiều cách giải thích trái ngược nhau với Điều 2 Khoản 4 Hiến chương. Điều 2 khoản 4 cấm các quốc gia đe dọa bằng vũ lực hay sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhưng Điều 51 lại cho phép các nước thành viên được quyền tự vệ cá nhân hay tự vệ tập thể chính đáng nếu bị tấn công vũ trang...Điều này dẫn tới một số nước nhất là Hoa Kỳ hay lợi dụng đưa quân can thiệp gây tội ác khắp nơi với cái cớ là giúp đồng minh của Mỹ chống khủng bố, 7
  13. chống lại sự đe dọa hay sự tấn công vũ trang của nước thứ 3. Ví dụ, Mỹ đã gây chiến tranh tại Việt Nam với cái cớ là giúp ngụy quyền Sài Gòn chống Bắc Việt, vụ Mỹ can thiệp quân sự chống Nicaragia 1984 hay tại Iraq... Điều 42 của Hiến chương đã nêu rõ về việc cho phép sử dụng vũ lực trong khuôn khổ Liên hợp quốc để giải quyết các tranh chấp quốc tế như “...những hành động này có thể là những cuộc biểu dương lực lượng, phong tỏa và những cuộc hành quân khác do các lực lượng hải lực, không quân của thành viên Liên hợp quốc thực hiện”. Chỉ lợi dụng nội dung Điều 42 trên, tại chiến tranh Triều Tiên (1951- 1953) một số nước thành viên thường trực Liên Hợp quốc đã mượn cớ cho phép Mỹ đứng ra đưa đội quân Liên hợp quốc (90% là lực lượng của Mỹ và 10% là lực lượng của 15 quốc gia đồng minh của Mỹ) ồ ạt vào tham chiến chống lại nhân dân Triều Tiên mà không quan tâm đến các biện pháp hòa bình, giải quyết tranh chấp quốc tế như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác kêu gọi giải quyết từ ngày đầu của cuộc khủng hoảng. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy, một số trường hợp sử dụng vũ lực được coi là ngoại lệ được quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc, đó là những trường hợp sau: - Tự vệ cá nhân và tự vệ tập thể (Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc); - Cấm vận, trả đũa dưới sự cho phép của Liên hợp quốc (Liby, Sudng, Iraq,...); - Can thiệp quân sự vì mục đích khôi phục nhân quyền (Đông Timo). Tuy nhiên, những trường hợp sử dụng vũ lực nói trên đều phải được thông báo cho Hội đồng Bảo an ngay lập tức để Hội đồng bảo an quyết định can thiệp tái thiết và duy trì hòa bình và an ninh thế giới. b. Các biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp quốc tế Khoản 3 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc quy định: “Tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp của họ bằng những biện pháp làm sao để khỏi gây sự đe dọa cho hòa bình, an ninh thế giới và công lý”. Theo Công ước Lahay 1907, Định ước Hội quốc liên 1928, Định ước 1949, Tuyên bố Manila 1982, khoản 1 Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc và tuyên bố 8
  14. của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1970 nêu lên một số biện pháp hòa bình nhằm giải quyết các tranh chấp quốc tế mà chúng ta có thể phân loại thành nhóm như sau: - Đàm phán ngoại giao trực tiếp; - Các biện pháp hòa giải (trung gian, ủy ban điều tra, ủy ban hòa giải); - Các biện pháp tư pháp (trọng tài quốc tế, tòa án quốc tế); - Giải quyết tranh chấp thông qua các tổ chức quốc tế hoặc trên cơ sở dàn xếp của tổ chức khu vực; - Những biện pháp hòa bình khác mà các bên tự chọn. Theo cách phân loại trên, chúng ta có thể thấy các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp quốc tế có thể là biện pháp mà các bên trực tiếp giải quyết (đàm phán trực tiếp), hay có thể là biện pháp nhờ vào sự can thiệp của bên thức ba – gián tiếp (điều tra, trung gian, hòa giải), có thể là biện pháp nhờ vào sự can thiệp của cơ quan tư pháp quốc tế (trọng tài quốc tế, tòa án quốc tế) và cuối cùng là nhờ vào sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và tổ chức khu vực. Vai trò của Tổng thư ký Liên hợp quốc và Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cũng rất quan trọng đối với việc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình. Theo tinh thần của Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế đã nêu rõ tranh chấp quốc tế sẽ được giải quyết trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia và phù hợp với các nguyên tắc khác của luật quốc tế. Luật Quốc tế hiện đại chưa quy định được một giải pháp nhất định nào cho việc giải quyết tranh chấp quốc tế mà chỉ nêu lên một số biện pháp thông dụng nhất dành cho các quốc gia quyền tự do lựa chọn những biện pháp hòa bình khác hợp lý, có lợi và chấp nhận được. Trong việc tìm kiếm giải pháp hòa bình và giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia cũng không bắt buộc các bên tranh chấp phải nhất thiết sử dụng biện pháp nào. Quyền lựa chọn giải pháp thuộc về các bên tranh chấp miễn là họ có thể chấm dứt được chiến tranh một cách hòa bình. Luật Quốc tế đã đề ra nhiều biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp quốc tế cho các quốc gia tranh chấp lựa chọn. Việc lựa chọn biện pháp này hay khác, thậm chí cả sự kết hợp giữa các biện pháp là tùy thuộc vào các ý chí của các 9
  15. bên tranh chấp, sự lựa chọn phải phụ thuộc vào các yếu tố khách quan và chủ quan để chọn ra giải pháp tốt nhất nhằm giải quyết tranh chấp giữa các bên. Trong thực tiễn sinh hoạt quốc tế cho thấy, biện pháp đàm phán ngoại giao trực tiếp là biện pháp thường được sử dụng rộng rãi và đầu tiên để giải quyết tranh chấp quốc tế. Đàm phán ngoại giao trực tiếp có thể được áp dụng ban đầu của tiến trình hòa bình giải quyết tranh chấp hoặc áp dụng vào giữa hay giai đoạn cuối của tiến trình giải quyết, khi nào đàm phán không mang lại kết quả thì các bên tranh chấp mới sử dụng các biện pháp hòa bình khác. Trong khi đàm phán trực tiếp hay gián tiếp không mang lại kết quả và không chấm dứt được tranh chấp thì các bên tranh chấp phải nhờ đến cơ quan pháp lý quốc tế (Trọng tài quốc tế - Tòa án quốc tế) để giải quyết hoặc nhờ các tổ chức quốc tế nhất là Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc giải quyết theo tinh thần của Hiến chương Liên hợp quốc. 1.1.2. Áp dụng pháp luật Theo từ điển Black’s Law, từ “áp dụng” (apply) có thể được hiểu theo nghĩa là đưa vào sử dụng với một vụ việc của chủ thể riêng biệt (áp dụng pháp luật trong thực tế). Trong cuốn từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam xuất bản năm 1992, từ “áp dụng” có thể được hiểu là “Đem dùng trong thực tế điều đã nhận thức được”. Từ các cách hiểu về từ “áp dụng” trong hai từ điển trên có thể hiểu một cách nôm na rằng áp dụng pháp luật là đem pháp luật ra dùng trong thực tế [29]. Đối với pháp luật trong nước, hoạt động áp dụng pháp luật có thể được hiểu là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật trong nước vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể. Đối với các quy phạm pháp luật quốc tế, yêu cầu áp dụng pháp luật là hoạt động tất yếu của các chủ thể, tuy nhiên, khác với hoạt động áp dụng pháp luật trong nước, việc áp dụng pháp luật quốc tế là một hoạt động chỉ có thể có của các chủ thể của Luật Quốc tế bao gồm chủ yếu là các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế mà không chỉ giới hạn ở hoạt động của các cơ quan tài phán. 10
  16. Từ khái niệm về áp dụng pháp luật trong nước, có thể hiểu áp dụng pháp luật quốc tế là quá trình các chủ thể luật quốc tế, thông qua các cơ chế quốc tế và quốc gia (do luật quốc tế quy định) để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp luật quốc tế. Quá trình này được tiến hành bằng nhiều hoạt động pháp lý có liên quan với nhau trong yêu cầu chung là đảm bảo lợi ích riêng của từng chủ thể phù hợp với lợi ích chung của cả cộng đồng, hướng đến phát triển và ngày càng hoàn thiện Luật Quốc tế. Về phương diện pháp lý, hoạt động áp dụng pháp luật thực chất là quá trình hiện thực hóa các quy định pháp luật vào đời sống sinh hoạt quốc tế. Hoạt động này diễn ra bằng hành vi pháp luật của chủ thể Luật Quốc tế, theo cơ chế chung hoặc riêng, trong từng lĩnh vực mà Luật Quốc tế điều chỉnh. Tính chất của hoạt động này có thể thể hiện dưới dạng xử sự tích cực (như hoạt động thực thi) để chủ thể chủ động thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình hoặc là xử sự thụ động (tuân thủ) của chủ thể để không tiến hành những hoạt động trái với quy định của Luật Quốc tế, gây ảnh hưởng đến trật tự pháp lý quốc tế hay lợi ích của chủ thể khác [24]. Việc áp dụng pháp luật quốc tế thể hiện đặc trưng mang tính bản chất là thông qua cơ chế thỏa thuận hoặc sự tự điều chỉnh của từng quốc gia. Vì vậy, không có cơ chế mang tính quyền lực quốc tế áp đặt cho quá trình trên, trừ những cơ chế kiểm soát quốc tế trong những lĩnh vực nhất định, có sự thỏa thuận của các quốc gia. Trong thực tiễn áp dụng luật quốc tế, các quốc gia phải tự điều chỉnh trên cơ sở các quy định chung của chủ thể luật quốc tế và những nghĩa vụ cá thể phát sinh từ tư cách thành viên điều ước quốc tế hay tổ chức quốc tế. Chẳng hạn, trong lĩnh vực luật quốc tế về quyền con người, bên cạnh cơ chế quốc tế nhằm duy trì các hoạt động bảo vệ, phát triển các quyền con người cơ bản mà luật quốc tế quy định, từng quốc gia đều xây dựng cơ chế quốc gia (theo quy định của luật quốc tế) để đảm bảo cho các quyền con người cơ bản được thực hiện ở quốc gia đó. Việc tạo dựng và duy trì hoạt động của cơ chế quốc gia trong lĩnh vực nhân quyền là nghĩa vụ và trách nhiệm của từng quốc gia. Hiện nay, việc thực hiện nghĩa vụ thành viên các điều ước quốc tế hoặc tổ 11
  17. chức quốc tế đang đặt ra những vấn đề lý luận và thời sự cấp thiết, trong đó, yêu cầu về xây dựng, bảo đảm môi trường pháp luật và thể chế quốc gia đối với các cam kết quốc tế của quốc gia trong khuôn khổ quan hệ giữa các quốc gia với nhau hoặc trong khuôn khổ của tổ chức quốc tế đang trở thành mối quan tâm chung của yêu cầu thực thi luật quốc tế. Khi các quy định của Luật Quốc tế không được một chủ thể thực thi theo đúng yêu cầu (tức là có sự vi phạm về nghĩa vụ thành viên hoặc vi phạm quy định của luật quốc tế) thì pháp luật sẽ ràng buộc chủ thể vi phạm vào những trách nhiệm pháp lý quốc tế cụ thể để buộc chủ thể đó phải có nghĩa vụ trong việc khôi phục lại trật tự pháp lý quốc tế đã bị xâm hại. Luật quốc tế có các chế tài nhưng việc áp dụng chế tài của Luật Quốc tế do chính quốc gia tự thực hiện bằng những biện pháp riêng lẻ hoặc tập thể (và nhiều trường hợp do cơ quan tài phán quốc tế thực hiện). Các biện pháp chế tài do quốc gia áp dụng trong trường hợp có sự vi phạm quy định luật quốc tế của một chủ thể khác, chẳng hạn như cấm vận, cắt đứt quan hệ ngoại giao, sử dụng các biện pháp hạn chế trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại…và ngoại lệ nữa là sử dụng các sức mạnh quân sự để thực hiện quyền tự vệ hợp pháp hoặc để chống lại hành động tấn công vũ trang. Hiện nay, Luật Quốc tế mở rộng các biện pháp chế tài do các tổ chức quốc tế đảm nhiệm, với vai trò chủ yếu của Liên hợp quốc [24]. Tóm lại, các chủ thể luật quốc tế áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để đảm bảo cho việc thực hiện và tôn trọng đầy đủ các quy định của luật này. Bên cạnh việc sử dụng điều ước quốc tế và các biện pháp pháp lý khác, các chủ thể luật quốc tế còn tận dụng đến những yếu tố chính trị - xã hội để tạo động lực cho việc áp dụng Luật Quốc tế. * Hoạt động áp dụng Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc: Từ những phân tích nêu trên về hoạt động áp dụng pháp luật, có thể hiểu việc áp dụng Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc là hoạt động của các quốc gia trong mối quan hệ phát sinh tranh chấp quốc tế. Khi tranh chấp quốc tế phát sinh, các quốc gia (là thành viên hoặc không phải thành viên Liên hợp quốc) có nghĩa vụ phải giải quyết tranh chấp trong hòa bình mà cụ thể là lựa chọn việc áp dụng biện pháp nào trong số các biện 12
  18. pháp hòa bình được nêu trong Điều 33 Hiến chương để giải quyết tranh chấp. Do đó, việc áp dụng Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc trong trường hợp phát sinh tranh chấp chính vừa là nghĩa vụ vừa là một dạng xử sự tích cực của các quốc gia nhằm phù hợp với pháp luật quốc tế hiện đại. 1.2. Vị trí, vai trò và ý nghĩa của Điều 33 Hiến chƣơng Liên Hợp quốc trong giải quyết các tranh chấp quốc tế 1.2.1. Vị trí của Điều 33 trong Hiến chương Liên Hợp quốc a. Vài nét khái quát về Hiến chương Liên Hợp quốc Hiến chương Liên Hợp quốc được ký kết vào ngày 26/6/1945 ở SanFrancisco (Hoa Kỳ) tại phiên họp kết thúc Hội nghị quốc tế về vấn đề thành lập Liên hợp quốc và chính thức có hiệu lực ngày 24/10/1945 sau khi đã được đa số các nước ký kết phê chuẩn. Dưới góc độ pháp lý quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc chỉ là một điều ước quốc tế đa phương phổ cập nhưng trong hệ thống pháp luật quốc tế, Hiến chương Liên Hợp quốc có một vị trí đặc biệt quan trọng. Các yếu tố cơ bản khẳng định ý nghĩa và vai trò không thể thiếu của Hiến chương trong đời sống quốc tế bao gồm: - Hiến chương Liên hợp quốc chính là văn bản pháp lí quốc tế khai sinh ra Liên hợp quốc - một tổ chức quốc tế mà sự ra đời và tồn tại của nó có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với hòa bình, an ninh và hợp tác phát triển của cộng đồng quốc tế. Với 111 điều khoản và bản Quy chế hoạt động của Tòa án quốc tế - bộ phận cấu thành của Hiến chương Liên hợp quốc (theo quy định của Điều 92 Hiến chương), Hiến chương quy định việc thành lập Liên hợp quốc, khẳng định mục đích, cơ cấu tổ chức và các nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc. Với sự tham gia đông đảo của các quốc gia độc lập có chủ quyền có chế độ chính trị xã hội, trình độ phát triển kinh tế, truyền thống văn hóa…khác nhau, uy tín và hiệu quả từ các hoạt động trên khắp các lĩnh vực của đời sống quốc tế của Liên hợp quốc trong những năm qua là điều không thể phủ nhận. Mặc dù còn những tồn tại nhưng Hiến chương luôn là căn cứ pháp lý vững chắc cho mọi hoạt động của tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động. 13
  19. - Hiến chương Liên hợp quốc là nguồn pháp lý quan trọng nhất của Luật Quốc tế và cũng thường xuyên được viện dẫn trong các quan hệ hợp tác quốc tế. Vấn đề này được thể hiện rất rõ không chỉ trong thực tiễn quốc tế mà ngay cả trong không ít các điều ước quốc tế song phương và đa phương, Hiến chương cũng thường được viện dẫn như một căn cứ đánh giá tính hợp pháp của các hành vi cũng như của các quy định trong các văn bản pháp lí quốc tế. Trong đa phần các điều ước quốc tế hiện nay điều chỉnh các lĩnh vực hợp tác đa dạng giữa các quốc gia như chính trị, kinh tế, khoa học…hầu như đều ghi nhận sự phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc. Đặc biệt nội dung của Điều 2 Hiến chương quy định về các nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc, một số nguyên tắc như: Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền, nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, nguyên tắc không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực…chính là các quy phạm jus congens mà các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế đều phải tuân thủ. - Trong mối tương quan với các điều ước quốc tế khác, nếu có sự xung đột giữa những nghĩa vụ phát sinh từ Hiến chương Liên hợp quốc với những nghĩa vụ phát sinh từ các điều ước quốc tế khác thì các nghĩa vụ phát sinh từ Hiến chương luôn được thi hành. Việc khẳng định thứ bậc ưu tiên cho các quy định của Hiến chương so với các quy định trong các điều ước quốc tế khác khi có sự xung đột về nghĩa vụ còn được thừa nhận cả trong một số điều ước quốc tế quan trọng khác. Tại điều 30 Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia khi quy định về “thi hành điều ước quốc tế kế tiếp nhau về cùng một đối tượng điều chỉnh”, ở khoản 1 cũng đã thừa nhận Điều 103 Hiến chương Liên hợp quốc khi ghi nhận “Ngoài các quy định của Điều 103 Hiến chương Liên hợp quốc…”. Có thể so sánh thứ bậc của các quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc với các quy định trong các điều ước quốc tế khác cũng tương tự như thứ bậc của các quy định trong Hiến pháp với các quy định của các văn bản pháp luật khác trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Hiện nay, mặc dù số lượng các điều ước quốc tế được kí kết là rất lớn, nội dung thỏa thuận trong các điều ước cũng rất đa dạng nhưng hiện tượng “xung đột” giữa nghĩa vụ phát sinh từ Hiến chương với nghĩa vụ phát sinh từ các 14
  20. điều ước quốc tế khác hầu như ít gặp trong thực tiễn. Rõ ràng là các quy định trong Hiến chương chính là những chuẩn mực, những căn cứ pháp lý chính xác và tin cậy cho các quốc gia khi tham gia vào đời sống quốc tế. Là một điều ước quốc tế, Hiến chương đã không chỉ dung hòa lợi ích cơ bản của các quốc gia thành viên mà còn đáp ứng được đòi hỏi của cộng đồng quốc tế, phản ánh được xu thế phát triển của giao lưu và hợp tác quốc tế. Dưới góc độ lý luận và thực tiễn, sự nhìn nhận giá trị pháp lý vượt trội của các quy định trong Hiến chương nói riêng và toàn bộ bản Hiến chương nói chung là điều tất yếu và được các quốc gia thừa nhận rộng rãi [21]. Chính vì vậy, Hiến chương Liên hợp quốc luôn là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động vì hòa bình và phát triển của Liên hợp quốc nói riêng cũng như của cộng đồng quốc tế nói chung. b. Vị trí Điều 33 trong Hiến chương Liên hợp quốc Điều 33 bao gồm 2 khoản, được quy định tại Chương VI: “Hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế” của Hiến chương Liên hợp quốc. Như đã phân tích ở trên, xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ chính của Liên hợp quốc là giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, việc quy định một chương riêng về biện pháp để giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế trong Hiến chương Liên hợp quốc là một trong những nội dung quan trọng, không thể thiếu. Tại Điều 33 Hiến chương quy định: 1. Các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp mà việc kéo dài các cuộc tranh chấp ấy có thể đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình. 2. Hội đồng Bảo an, nếu thấy cần thiết, sẽ yêu cầu các đương sự giải quyết tranh chấp của họ bằng biện pháp nói trên [30]. Quy định này đã nêu cụ thể các biện pháp để giải quyết tranh chấp quốc tế theo phương thức hòa bình, cũng chính là sự cụ thể hóa tinh thần chính của Hiến chương Liên hợp quốc được quy định tại Chương I Hiến chương. Theo đó, để giải quyết tranh chấp quốc tế, Hiến chương khẳng định việc ưu tiên sử dụng các biện pháp 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2