intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

46
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam" được hoàn thành với mục tiêu nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS; đồng thời trên cơ sở lý luận nghiên cứu, đánh giá thực trạng việc bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS nước ta.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam

  1. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI HOÀNG THANH TÙNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2022
  2. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI ______________________ HOÀNG THANH TÙNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN Hà Nội - 2022
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này. Tác giả luận văn
  4. LỜI CẢM ƠN Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý Thầy Cô, cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ. Với tất cả tấm lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc nhất, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Thầy PGS. TS. Trịnh Quốc Toản - người trực tiếp hướng dẫn khoa học đã luôn dành nhiều thời gian, tâm huyết hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, cùng toàn thể các thầy, cô giáo công tác tại trường đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã hỗ trợ về thông tin, dữ liệu và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi để học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn động viên, hỗ trợ và khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện Luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 11 năm 2022 Học viên thực hiện Hoàng Thanh Tùng
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Nghĩa của từ BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng ĐTV Điều tra viên QCN Quyền con người KSV Kiểm sát viên TA Tòa án VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  6. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................................2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................3 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn..............................................................4 7. Kết cấu của Luận văn ..............................................................................................5 Chương 1 Một số vấn đề chung về bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự ...................................................................................................6 1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự .................................................................................................................................6 1.2. Khái niệm và cơ chế bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự .......................................................................................................................13 1.3. Các tiêu chuẩn (chuẩn mực quốc tế) về bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự ...........................................................................................23 Chương 2 Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội ..29 2.1. Thực trạng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo ...........................................................................29 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 trong bảo đảm quyền con người của bị, can bị cáo ...................................................................38 2.3. Nhận xét, đánh giá chung ...................................................................................46 Chương 3 Yêu cầu và một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đối với việc bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo và nâng cao hiệu quả áp dụng .............................................................................65 3.1. Một số yêu cầu bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo và nâng cao hiệu quả áp dụng ...............................................................................................................65
  7. 3.2. Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đối với việc bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo .......................70 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đối với việc bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo ..........74 KẾT LUẬN ...............................................................................................................82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................84
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là vấn đề luôn thu hút sự quan tâm của cả nhân loại, đặc biệt là bảo vệ QCN của nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người bị tình nghi phạm tội, người bị buộc tội, thì việc quan tâm và tạo ra những điều kiện cần thiết để bảo đảm thực hiện QCN của họ càng được đề cao hơn cả. Với sự tác động bởi những yếu tố của hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực hiện nay, nếu ở quốc gia nào mà việc bảo đảm QCN càng bị hạn chế, ở đó sự đấu tranh của chính công dân nước đó và các tổ chức nhân quyền quốc tế càng được thể hiện rõ ràng. Hơn nữa, đối với những quốc gia đã tham gia, ký kết các Công ước quốc tế về QCN, trong đó có Việt Nam, thì việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện QCN nói chung và QCN trong TTHS nói riêng là nghĩa vụ bắt buộc để đảm hiệu quả thực thi Công ước. Xuất phát từ lẽ đó, tại Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, một trong những định hướng mà Đảng ta xác định là: Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm QCN, quyền tự do, dân chủ của công dân. Thực hiện định hướng đó, tại Hiến pháp năm 2013, QCN đã được quan tâm, tôn trọng và ưu tiên bảo đảm thực hiện hơn bao giờ hết. Hiến pháp năm 2013 đã đưa chế định QCN, quyền công dân lên vị trí thứ hai, sau chế định về Chế độ chính trị; đã tách rời QCN ra khỏi quyền công dân; đồng thời chính thức thừa nhận suy đoán vô tội và tranh tụng trong xét xử là những quyền cơ bản của con người trong TTHS. Bên cạnh quyền được suy đoán vô tội và quyền tranh tụng lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp, những quyền khác của con người trong TTHS như quyền bào chữa, quyền được xét xử công bằng, quyền không bị kết án hai lần vì một tội phạm, quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần do bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật… đã được BLTTHS năm 2015 khẳng định lại. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 đã quy định về các biện pháp điều tra, ngăn chặn, cưỡng chế là những biện pháp có nguy cơ và dễ xâm hại đến QCN, do vậy
  9. 2 trong toàn bộ quá trình tố tụng phải luôn bảo đảm QCN. Bảo đảm QCN trong TTHS có thể hiểu là một nguyên tắc khi thực hiện các nhiệm vụ của TTHS, đồng thời không để các QCN bị xâm hại với sự tôn trọng phù hợp với thực tế về biên chế, cơ sở vật chất, trang thiết bị của các CQTHTT. Để bảo đảm QCN trong TTHS đòi hỏi các chủ thể khi tiến hành và tham gia tố tụng luôn đề cao trách nhiệm, đòi hỏi sự chủ động, nỗ lực, không gây áp lực quá căng thẳng nhằm tránh việc đối phó trong áp dụng. Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của vấn đề bảo đảm QCN trong TTHS, đặc biệt là QCN của bị can, bị cáo và mong muốn tìm ra được những tiêu chí, giải pháp có cơ sở khoa học, có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, từ đó góp phần đưa pháp luật hình sự, pháp luật TTHS vào cuộc sống, phát huy tác dụng vào trong công cuộc bảo vệ QCN của bị can, bị cáo trong TTHS ở Việt Nam. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bảo đảm QCN trong TTHS nói chung và bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS nói riêng đã được nhiều nhà khoa học pháp lý và nhất là những người trực tiếp tiến hành, tham gia các hoạt động tố tụng quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đề cập đến một số khía cạnh khác nhau về những vấn đề liên quan đến đề tài như: - Võ Quốc Tuấn (2015), “Bảo đảm QCN của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TA nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, Số 2/2015, tr. 7 - 14. - Vũ Thị Huế (2018), “Bảo đảm QCN của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. - Đỗ Thị Phượng (2018), “Bảo đảm QCN của người bị kết án phạt tù tại Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Trường Đại học Luật Hà Nội. - Trần Thị Thu Hiền (2020), “Bảo đảm QCN của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
  10. 3 Các công trình khoa học nếu trên đã nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS nên đây là những tài liệu tham khảo rất có giá trị. Để nghiên cứu toàn diện và có hệ thống, luận văn đã kế thừa và lý giải thêm một số luận điểm về phương diện lý luận và thực tiễn đã được các tác giả đề cập trong các công trình nghiên cứu trên với mục đích góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS; đồng thời trên cơ sở lý luận nghiên cứu, đánh giá thực trạng việc bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS nước ta. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Một là, làm rõ khái niệm, phân tích các đặc điểm, cơ chế, nội dung, chủ thể, biện pháp bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS. Bên cạnh đó, nghiên cứu, đánh giá một số quy định của luật pháp quốc tế về bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS. Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật TTHS về bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS; kết quả thực tiễn áp dụng pháp luật của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong quá trình tiến hành TTHS. Ba là, nghiên cứu phân tích các quan điểm và đề xuất các giải pháp cụ thể có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS.
  11. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm những nhóm QCN đặc thù dễ bị xâm hại của bị can, bị cáo là thể nhân trong TTHS theo quy định của BLTTHS năm 2015. Luận văn nghiên cứu về bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS từ năm 2018 đến năm 2020 trên địa bàn thành phố Hà Nội. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện bởi các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học, trong đó chú trọng các phương pháp tổng hợp, phân tích nghiên cứu những quy định của BLTTHS 2015 và thực tiễn việc áp dụng pháp luật. Từ đó, rút ra những kết luận cần thiết, đưa ra những đánh giá và những luận chứng làm cơ sở cho việc đề xuất các quan điểm và giải pháp đảm bảo hiệu quả hoạt động bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS. Trong quá trình nghiên cứu, đề tài kết hợp một cách tổng thể các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp nghiên cứu thực tiễn… nhằm làm rõ các nội dung được nghiên cứu trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn 6.1. Về phương diện lý luận Luận văn là một công trình khoa học trình bày có hệ thống và góp phần làm sáng tỏ những cơ sở lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật trong việc bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS. 6.2. Về phương diện thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp một phần cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn trong việc bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS. Ngoài ra luận văn còn được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và học tập về bảo đảm QCN trong TTHS.
  12. 5 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS. Chương 2: Thực trạng các quy định của BLTTHS năm 2015 về bảo đảm QCN của bị can, bị cáo và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Quan điểm và một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện những quy định của BLTTHS năm 2015 đối với việc bảo đảm QCN của bị can, bị cáo và nâng cao hiệu quả áp dụng.
  13. 6 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự 1.1.1.1. Khái niệm quyền con người QCN là sự kết tinh những giá trị văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới thông qua một tiến trình phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại. Mặc dù được Liên hiệp quốc chính thức thừa nhận từ năm 1948 với sự ra đời của Tuyên ngôn của toàn thế giới về QCN, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm toàn diện, thống nhất bao hàm được tất cả các thuộc tính về QCN. Trên phương diện nghiên cứu khoa học pháp lý, thì QCN là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.”[19] Văn phòng cao ủy Liên hiệp quốc về QCN thì định nghĩa về QCN như sau: “QCN là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”[13]. Tại buổi quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) của Đảng ủy TA nhân dân tối cao ngày 26/02/2014 khi nói về những điểm mới về QCN, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Phó giáo sư, Tiến sỹ Trần Văn Độ - Phó Chánh án TA nhân dân tối cao, Chánh án TA Quân sự Trung ương khái quát: “QCN là quyền của cá nhân mà khi sinh ra vốn dĩ là đã có, còn quyền công dân là quyền được quy định cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật của nhà nước nó gắn liền với quốc tịch của mỗi công dân.” Đây là cách khái quát dễ hiểu và cơ bản nhất về QCN. Nó phù hợp với học thuyết về “quyền tự nhiên”(natural rights) cho rằng QCN là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại. Từ một số khái niệm về QCN điển hình trên, cho thấy rằng dù nhìn dưới góc độ nào và
  14. 7 ở cấp độ nào thì QCN cũng được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị văn hóa của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Khó có thể đưa ra một khái niệm chung, thống nhất về QCN, tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hóa có thể nêu ra một số thuộc tính cơ bản của khái niệm QCN sau đây: Thứ nhất, QCN là những giá trị gắn với mỗi con người vừa với tư cách là cá nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội. Vì vậy, QCN vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng. Thứ hai, QCN là những giá trị phải được xã hội hóa bằng cách thể chế hóa thành các quyền năng cụ thể, có tính phổ cập, cần thiết cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, giới tính… Thứ ba, QCN vừa là thuộc tính tự nhiên của con người, vừa là những giá trị sản sinh trong đời sống cộng đồng, gắn liền với một nhà nước cụ thể. Ghi nhận QCN, pháp luật phản ánh các nhu cầu và khả năng khách quan phù hợp với chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử, dân trí cụ thể… Chỉ có thông qua pháp luật thì các giá trị của con người với tư cách là tự nhiên và xã hội mới trở thành quyền được xác định và mới bảo đảm trở thành hiện thực trong thực tiễn. Với ba yếu tố trên đây, quan niệm nhân quyền vừa khẳng định cơ sở tự nhiên và giá trị nhân loại của quyền, đồng thời cũng thừa nhận thuộc tính xã hội - chính trị và lịch sử cụ thể của QCN thuộc một quốc gia, một dân tộc[3]. Cũng giống như xu thế phát triển chung trên thế giới, vấn đề QCN ở Việt Nam cũng được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau vậy nên cũng đã có nhiều định nghĩa được đưa ra. Những định nghĩa này tuy không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, theo tôi, QCN được hiểu là “những quyền được pháp luật quốc gia thừa nhận hoặc quy định, phù hợp với các nguyên tắc, tiêu chuẩn của pháp luật
  15. 8 quốc tế và có cơ chế bảo đảm thực hiện”. 1.1.1.2. Quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Khái niệm bị can Bị can được hiểu là “người phạm tội hay tình nghi phạm tội, đã bị khởi tố về hình sự”[33]. Tuy nhiên, theo quan điểm của PGS, TS. Nguyễn Thái Phúc [15] thì thuật ngữ “khởi tố về hình sự” là thuật ngữ chưa chuẩn, chưa rõ ràng, cần phải định nghĩa bị can là người đã bị khởi tố về trách nhiệm hình sự hoặc bị can là người đã bị CQTHTT quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự. Truy cứu TNHS một cá nhân là quá trình chứng minh các điều kiện TNHS của cá nhân đó. Quyết định khởi tố bị can không đồng nghĩa với việc kết luận bị can là người có tội. Bị can - đó mới chỉ là người bị cáo buộc về việc thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm, vấn đề người đó có tội hay không có tội chưa được giải quyết ở thời điểm này, bởi vì khởi tố bị can chỉ là thời điểm bắt đầu của quá trình chứng minh điều kiện trách nhiệm hình sự của người đó. Như vậy, qua phân tích trên, theo quan điểm của chúng tôi: Khái niệm bị can được hiểu là “người thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS đã bị khởi tố về trách nhiệm hình sự hoặc bị can là người đã bị CQTHTT quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự”. Khái niệm bị cáo Bị cáo được hiểu là “người đã bị toà án quyết định đưa ra xét xử”[33]. Định nghĩa này cũng chưa phản ánh đầy đủ dấu hiệu của bị cáo. TA chỉ có thể quyết định đưa ra xét xử đối với những bị cáo đã bị VKS truy tố ra trước TA. Quyết định này là sự khẳng định chính thức của TA về việc đã có đủ điều kiện cần thiết để tiến hành mở phiên tòa xét xử đối với bị cáo bị VKS truy tố, còn bị cáo có tội hay không có tội sẽ là nội dung của chức năng xét xử thực hiện ở phiên tòa và thể hiện trong bản án của TA. Có thể hiểu, bị cáo là “thể nhân hoặc pháp nhân đã bị VKS truy tố ra trước TA và bị TA quyết định đưa ra xét xử”. Khái niệm quyền con người của bị can, bị cáo trong TTHS
  16. 9 Khái niệm QCN trong TTHS đã được đề cập nhiều và sử dụng rộng rãi trong lịch sử pháp lý. Trong văn bản pháp lý của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Hiến pháp – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, đều có các quy định quyền cơ bản của người tham gia TTHS. QCN trong TTHS là một khái niệm hẹp hơn so với khái niệm QCN, được mang tính xác định rõ hơn, gắn liền với đặc điểm từng quốc gia và được pháp luật của mỗi quốc gia quy định. QCN trong TTHS là nội dung cơ bản và là sự thể hiện cụ thể của QCN nói chung, không tách biệt ra khỏi QCN. Tức là không thể nói một người vừa có QCN, vừa có QCN trong TTHS. Tùy theo cách tìm hiểu của mỗi người mà chúng ta xây dựng khái niệm theo quan điểm của mình. Theo ý kiến của tác giả thì dưới góc độ khoa học, QCN của bị can, bị cáo trong TTHS là “QCN, đồng thời là quyền công dân được pháp luật TTHS quốc gia thừa nhận hoặc quy định cho bị can, bị cáo khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, phù hợp với các nguyên tắc, tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế và có cơ chế bảo đảm thực hiện”. 1.1.2. Đặc điểm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Quyền con người của bị can, bị cáo trong TTHS có một số đặc điểm sau: - Tính phổ quát, thể hiện ở chỗ QCN nói chung và QCN của bị can, bị cáo trong TTHS nói riêng là quyền bẩm sinh, gắn với bản chất con người, là di sản chung của loài người. QCN mang tính phổ quát vì con người ở đâu trên trái đất này cũng đều là thành viên của cộng đồng nhân loại. - Tính đặc thù, thể hiện ở việc QCN mang những đặc trưng, bản sắc riêng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, truyền thống văn hoá, lịch sử ở từng khu vực, quốc gia, vùng lãnh thổ. Sự thừa nhận tính đặc thù của QCN của bị can, bị cáo trong TTHS cho phép các quốc gia có quyền đưa ra những quy định pháp luật cụ thể, không trái với các chuẩn mực quốc tế ghi trong các điều ước quốc tế về nhân quyền, như quy định hạn chế đối với một số quyền dân sự, chính trị hoặc mức độ bảo đảm các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội. - Tính giai cấp, tuy không phải nằm trong nội dung các quyền mà được thể hiện trong việc thực thi QCN. Với tư cách là chế định pháp lí, QCN nói chung và
  17. 10 QCN của bị can, bị cáo trong TTHS nói riêng gắn liền với nhà nước và pháp luật - là những hiện tượng mang tính giai cấp sâu sắc. QCN có thể được phân loại dựa theo chủ thể quyền và nội dung quyền. Theo chủ thể quyền: gồm quyền của cá nhân, quyền của nhóm (như phụ nữ, trẻ em) và quyền quốc gia (quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền phát triển). Quyền của nhóm là quyền cá nhân được quy định cho một nhóm xã hội dựa trên một số đặc điểm chung nào đó, ví dụ như dễ bị tổn thương hoặc bị thiệt thòi như phụ nữ, trẻ em, người tị nạn, người lao động nhập cư, người bị giam giữ theo thủ tục TTHS... Quyền phát triển là quyền của các quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng là quyền của cá nhân. Theo nội dung quyền gồm nhóm quyền dân sự, chính trị (quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lí nhà nước, xã hội; quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo...) và nhóm quyền kinh tế, văn hoá, xã hội (quyền sở hữu, quyền làm việc, quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền học tập, quyền hưởng thụ văn hoá...). QCN của bị can, bị cáo trong TTHS cũng như QCN có các đặc trưng cơ bản là tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân chia và tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. 1.1.3. Cơ sở việc bảo đảm quyền con người của bị can bị cáo - Yếu tố chính trị: Khi nói đến một thể chế chính trị tiến bộ, một quốc gia văn minh, thì không thể không nói đến thể chế chính trị, quốc gia đó có quan tâm đến việc bảo đảm những quyền cơ bản của con người hay không. Chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang nỗ lực xây dựng, thực hiện là một chế độ của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Vì vậy, từ khi lập quốc theo thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa đến nay, Việt Nam đã kiên trì theo đuổi mục tiêu không ngừng thúc đẩy, bảo vệ và bảo đảm QCN cho mọi người dân. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, thông qua khẳng định các giá trị của một dân tộc là quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh QCN chỉ thực sự được
  18. 11 bảo đảm khi gắn liền với quyền độc lập, tự do của dân tộc. Qua nhiều lần xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, từ các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 đến Hiến pháp năm 2013 luôn giữ một vấn đề căn cốt là hiến định các QCN và quyền công dân. Trong đó, Hiến pháp năm 2013 đã thiết kế một chương về QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngay sau Điều 1 hiến định về chủ quyền địa lý, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định nguyên tắc chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân, đó là: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Cũng lần đầu tiên, chữ “Nhân dân” được viết hoa trong bản Hiến pháp để nhấn mạnh đến vị trí, vai trò quyết định của nhân dân trong tiến trình lịch sử và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn 2014-2019, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hơn 100 văn bản luật và pháp lệnh liên quan đến việc bảo đảm QCN, quyền công dân, trong đó có việc bảo đảm QCN của bị can, bị cáo trong TTHS. - Về mặt pháp lý, hệ thống quy định được xây dựng đầy đủ, minh bạch các quyền và nghĩa vụ công dân cũng như trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong việc quản lý xã hội, tôn trọng và bảo vệ các QCN; đặc biệt, trong các quy định của pháp luật tố tụng, lĩnh vực mà các QCN có nguy cơ bị vi phạm nhiều nhất, thì việc quy định quyền tố tụng đi đôi với nghĩa vụ tố tụng của công dân và trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm cho công dân thực hiện các quyền tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể trong tiến hành tố tụng, pháp luật TTHS đã nêu rõ trách nhiệm của CQTHTT, người tiến hành tố tụng để bị can, bị cáo nắm được, từ đó yêu cầu CQTHTT, người tiến hành tố tụng thực hiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. - Yếu tố kinh tế - xã hội: Do trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân đế quốc kéo dài suốt ba thập niên (1945-1975) và chịu ảnh hưởng, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội khoảng chục năm sau khi đất nước thống nhất, dù rất quan tâm, song Việt Nam chưa có nhiều điều kiện thuận lợi để bảo đảm thực sự đầy
  19. 12 đủ các QCN. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc và bảo đảm tốt hơn QCN trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thành tựu về QCN ở Việt Nam trong hơn 70 năm qua thể hiện trên mọi lĩnh vực, nhất là những bước tiến vượt bậc về phát triển kinh tế trong gần 35 năm đổi mới (1986-2020). Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, quy mô nền kinh tế năm 1985 mới có 14 tỷ USD, thì đến năm 2019 đạt 262 tỷ USD, tăng gấp hơn 18,7 lần. Tạp chí The Economist tháng 8/2020 đã xếp Việt Nam trong tốp 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Mặc dù chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 trên toàn cầu, trong khi phần lớn các nền kinh tế trên thế giới rơi vào suy thoái, nhưng nhờ sự chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt thực hiện “mục tiêu kép” của Chính phủ, năm 2020, Việt Nam vẫn duy trì được tăng trưởng dương ở mức khá. Một trong những thành tựu về nhân quyền đáng kể là Việt Nam đã quan tâm thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm các quyền cơ bản cho nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Là một quốc gia đang phát triển, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, hiện nay Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thử thách. Nhưng với bản chất của một chế độ xã hội ưu việt mà cả dân tộc đã tự nguyện lựa chọn và kiên trì thực hiện, thông qua chủ trương, đường lối phát triển kinh tế-xã hội đúng đắn và hợp xu hướng thời đại, Việt Nam ngày càng có điều kiện tạo ra những tiền đề cơ sở vật chất, văn hóa để bảo đảm tốt hơn các QCN của bị can, bị cáo trong TTHS. - Yếu tố bộ máy - con người cũng là một yếu tố có chiếm vị trí quan trọng đối với bảo đảm QCN của người bị can, bị cáo. Những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là các CQTHTT. Hầu hết các cơ quan nhà nước đã được tổ chức, sắp xếp lại theo hướng gọn nhẹ, chuyên môn hóa, hoạt động hiệu quả theo cơ chế phân công và phối hợp nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền, xâm phạm lợi ích hợp pháp của công dân từ phía các cơ quan nhà nước. Không chỉ hoàn thiện các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước, Nhà nước
  20. 13 ta còn đặc biệt chú trọng tới việc xây dựng các cơ quan chuyên môn, chuyên trách về QCN như: Ban chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ và các địa phương; xây dựng và hoàn thiện tổ chức của các cơ quan chuẩn bị và thực hiện Báo cáo tình hình thực hiện các Công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là quốc gia thành viên. Đảng và Nhà nước ta còn tập trung đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cho lực lượng cán bộ, công chức của các cơ quan thực thi pháp luật, nhất là các CQTHTT nhằm nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, góp phần làm tốt công tác bảo đảm QCN của người bị can, bị cáo trong suốt quá trình tiến hành tố tụng. 1.2. Khái niệm và cơ chế bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự 1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Trong ngôn ngữ tiếng Việt, hai từ “bảo đảm” và “đảm bảo” là hai từ đồng nghĩa. Theo từ điển Tiếng Việt, khái niệm “bảo đảm” được hiểu như sau: “Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [33]. Tuy nhiên, bảo đảm lại không hoàn toàn đồng nghĩa với “bảo vệ”. Bảo vệ là “chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn” [33], Có thể nói khái niệm “bảo đảm” rộng hơn khái niệm “bảo vệ”, vì trong khái niệm bảo đảm đã bao hàm bảo vệ và bảo vệ là một hình thức của đảm bảo không xảy ra sự xâm phạm. Theo Từ điển tiếng Việt [33], quyền là “điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”. Trong lý luận chung về nhà nước và pháp luật, khái niệm quyền được hiểu là khả năng về một việc gì đó do luật thừa nhận cho chủ thể nhưng thực hiện quyền đó như thế nào thì lại tùy thuộc vào sự lựa chọn của chủ thể. Quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp của mỗi quốc gia. Còn quyền của những người tham gia TTHS, trong đó có cả bị can, bị cáo được quy định trong pháp luật TTHS của mỗi quốc gia. Chúng tôi cho rằng khái niệm bảo đảm QCN của bị can, bị cáo xuất phát từ khái niệm bảo đảm quyền. Trong luận án Tiến sĩ của Trần Thanh Hương, khi bàn về khái niệm “bảo đảm quyền tự do công dân” tác giả đã phân tích khái niệm bảo đảm
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2