intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng - Thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: Tri Lý | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:124

40
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn khái quát pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong từng giai đoạn người lao động đi làm việc ở nước ngoài để từ đó tìm ra các vướng mắc, bất cập để đề xuất các biện pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đáp ứng các yêu cầu trong thời kỳ hội nhập.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng - Thực trạng và giải pháp

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐẶNG PHƢỚC TÂM BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐẶNG PHƢỚC TÂM BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Thu Hà Nội – 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG ................. 7 1.1. Khái niệm ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng và bảo vệ ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng ........ 7 1.1.1. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng .............. 7 1.1.2. Bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng . 14 1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ ngƣời lao động đi làm việc nƣớc ngoài theo hợp đồng ............................................................................................ 17 1.2.1. Bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhằm phát huy nhân tố con người, thể hiện tinh thần nhân đạo và đảm bảo công bằng xã hội............................................................................... 17 1.2.2. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là lực lượng có những đóng góp to lớn vào sự phát triển của kinh tế - xã hội chung của toàn cầu. ................................................................................. 18 1.2.3. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã, đang và sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ, rủi ro ........................................... 19 1.3. Pháp luật về bảo vệ ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng ........................................................................................... 20 1.3.1. Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng .................................................................... 20 1.3.2. Nội dung và biện pháp bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ................................................................................ 21
  5. 1.4. Lƣợc sử pháp luật Việt Nam về bảo vệ ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng ..................................................................... 26 1.4.1. Giai đoạn năm 1980 – 1994 .......................................................... 26 1.4.2. Giai đoạn năm 1994-2006 ............................................................. 28 1.4.3. Từ năm 2006 đến nay .................................................................... 29 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG32 2.1. Nội dung bảo vệ ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng ............................................................................................ 32 2.1.1. Nội dung bảo vệ người lao động Việt Nam trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ....................................................................... 32 2.1.2. Nội dung bảo vệ người lao động Việt Nam trong thời gian đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ............................................................ 56 2.1.3. Nội dung bảo vệ người lao động Việt Nam sau khi làm việc ở nước ngoài .............................................................................................. 79 2.2. Biện pháp bảo vệ ngƣời lao động Việt Nam trƣớc khi đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng ........................................................................ 81 2.2.1. Biện pháp bảo vệ người lao động Việt Nam trước khi đi làm việc ở nước ngoài ............................................................................................... 81 2.2.2. Biện pháp bảo vệ người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài .............................................................................................. 85 2.2.3. Biện pháp bảo vệ người lao động sau thời gian làm việc ở nước ngoài ........................................................................................................ 87 Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG............ 89 3.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng ..... 89
  6. 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo vệ ngƣời lao động Việt Nam đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng ................ 92 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ................................................. 92 3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ................................................... 102 KẾT LUẬN .................................................................................................. 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong thời đại toàn cầu hóa, việc sử dụng và phân bố lao động theo nhu cầu thị trường đã trở thành hiện tượng tự nhiên, mang tính toàn cầu và tuân thủ quy luật kinh tế - dòng lao động sống sẽ chuyển dịch tới bất kỳ nơi nào mà ở đó có mức thù lao cao hơn. Đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta nhằm góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam có khoảng 500.000 lao động đang làm việc tại 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Mỗi năm người lao động gửi về nước hơn 1,6 - 2 tỷ USD [40] và họ đang ngày càng thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong xã hội. Vấn đề bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cũng vì đó mà được Đảng và nhà nước ta quan tâm rất nhiều. Công tác bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể tuy nhiên thực tế vẫn còn vướng nhiều hạn chế, bất cập và tồn tại nhiều điểm nóng như tình trạng người lao động bị lừa đảo xuất khẩu lao động, bị thu phí dịch vụ, tiền môi giới quá cao so với quy định, không được giáo dục định hướng trước khi xuất khẩu hoặc giáo dục định hướng không đến nơi đến chốn, công việc, thời gian, tiền lương lao động không đúng như trong hợp đồng, tình trạng lao động không có việc làm hay tình trạng người lao động bị chủ đánh đập, chửi bới, lăng mạ, bị xâm hại tình dục… Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do hệ thống quy định pháp luật hiện hành của nước ta còn nhiều sơ hở, chưa phù hợp với thực tiễn, người lao động thiếu hiểu biết pháp luật, doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp, cá nhân đưa người lao động đi làm việc nước ngoài cố tình làm trái quy định pháp 1
  8. luật, việc quản lý hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài của các cơ quan quản lý nhà nước còn lỏng lẻo, chưa nghiêm minh. Từ trước đến nay ít thấy có một tác phẩm nào nghiên cứu toàn diện vấn đề bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, bởi vậy có thể nói việc lựa chọn đề tài nghiên cứu về vấn đề này là điều rất cần thiết không chỉ nhằm giúp đỡ những người lao động Việt Nam “yếu thế” đang làm việc nước ngoài mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc ngăn chặn các hành vi vi phạm trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, đảm bảo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực Việt Nam. Từ những lý do đó mà tôi đã chọn đề tài: “Bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng- Thực trạng và giải pháp ” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu chung về vấn đề bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chúng ta không thể không tìm hiểu tác phẩm Lao động di trú trong pháp luật quốc tế và Việt Nam của Khoa Luật, ĐHQGHN Trung Tâm Nghiên Cứu Quyền Con Người & Quyền Công Dân, NXB Lao Động - Xã Hội, Hà Nội 2011. Tác phẩm tập hợp các bài viết, công trình nghiên cứu của các giảng viên Khoa Luật và một số chuyên gia bên ngoài của về vấn đề bảo vệ lao động di trú nói chung và người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài nói riêng: TS. Lê Thị Hoài Thu , “Pháp luật hiện hành về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”; Đặng Nguyên Anh, “Xuất khẩu lao động, một số vấn đề chính sách và thực tiễn”; Đặng Nguyên Anh, Nguyễn Ngọc Quỳnh, Trần Thị Bích, Đào Thế Sơn , “Nghiên cứu đánh giá tác động kinh tế - xã hội của di cư quốc tế tại Việt Nam”; GS.TS Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao, “Khuân khổ pháp lý quốc tế về bảo vệ người lao động di trú”, Vũ Công Giao - Lã Khánh 2
  9. Tùng “Bảo vệ người lao động di trú ở Khu vực Đông Nam Á”, Phạm Hồng Thái - Vũ Công Giao “Khuôn Khổ pháp lý quốc tế về bảo vệ người lao động di trú”. Với tính chất là cơ quan chủ quản và quản lý chuyên ngành về vấn đề bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có khá nhiều công trình nghiên cứu khoa học cũng như tổ chức nhiều hội thảo về vấn đề này: Báo cáo tình hình cho vay đi XKLĐ tại các quốc gia ở khu vực Bắc Phi và Trung Đông, 2011; Báo cáo tình hình lao động Việt Nam làm việc tại Malaysia, 2009; Hội Thảo Đối thoại chính sách về bảo vệ quyền lợi của người lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài, Hà Nội... Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhiều tác giả đã quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau như: Luận án tiến sĩ kinh tế: “Phát triển Xuất khẩu lao động Việt Nam trong hội nhập kinh tế Quốc tế”, 2010 - Tác giả: Nguyễn Tiến Dũng, Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh - Trường Đại học Kinh tế - Luật; Khoá luận tốt nghiệp: “Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam” , năm 2010 tác giả: Vũ Thị Vân; Khóa luận tốt nghiệp: “Xuất khẩu lao động Việt Nam- thực trạng và triển vọng 2010”, năm 2003 tác giả: Lê Văn Tùng,... Các nghiên cứu này chủ yếu nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam, phản ánh thực trạng quy định pháp luật trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và đưa ra được rất nhiều biện pháp hoàn thiện pháp luật về đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Như chúng ta đã biết thì xuất khẩu lao động là một đề tài nóng, trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng có rất nhiều bài viết, bài bình luận về vấn đề này, tuy nhiên đến nay số lượng các công trình nghiên cứu toàn diện, 3
  10. sâu sắc vấn đề bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng theo từng giai đoạn của tiến trình di cư rất ít. Vì vậy việc lựa chọn đề tài này là khá mới mẻ, vừa có giá trị lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn như một sự bổ sung cần thiết và khoa học Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn - Mục đích: Khái quát pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong từng giai đoạn người lao động đi làm việc ở nước ngoài để từ đó tìm ra các vướng mắc, bất cập để đề xuất các biện pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đáp ứng các yêu cầu trong thời kỳ hội nhập. - Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của Luận văn là: + Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc bảo vệ người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: Khái niệm người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Sự cần thiết phải bảo vệ người lao động đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng, pháp luật về bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, lược sử pháp luật Việt Nam về bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. + Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trong từng giai đoạn của tiến trình di cư, đã có những bước tiến bộ gì và đang còn những tồn tại nào. + Đưa ra các biện pháp hoàn thiện các quy định pháp luật và các kiến 4
  11. nghị về việc thực hiện pháp luật bảo vệ người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng kết hợp những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta cũng như các quy định pháp luật về bảo vệ người lao động nói chung và bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nói riêng và quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Phương pháp phân tích, hệ thống được tác giả sử dụng xuyên suốt trong quá trình thực hiện đề tài để đánh giá, nhận xét các quy định pháp luật cũng như thực tiễn pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh, thống kê, phương pháp lịch sử để đánh giá sự phát triển, tiến bộ cũng như hạn chế còn tồn tại của các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng nguyên tắc. 5. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu về các vấn đề lý luận về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, thực trạng quy định và thực hiện pháp luật bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trong từng giai đoạn của quá trình đi làm việc ở nước ngoài; các kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và các biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật bảo vệ quyền người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn Cách tiếp cận của đề tài và hướng nghiên cứu của đề tài có những đóng góp nhất định vào việc nghiên cứu lập pháp và hành pháp về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, nhất là trong thời kỳ hội nhập. 5
  12. - Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ và nghiên cứu cho sinh viên, học sinh. - Kết quả nghiên cứu cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và những ai quan tâm đến người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luật và Tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 6
  13. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG ĐI LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG 1.1. Khái niệm ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng và bảo vệ ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài theo hợp đồng Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, di cư lao động quốc tế đã trở thành một trong những vấn đề lớn của thời đại. Theo ước tính của các cơ quan Liên Hợp quốc, hiện trên thế giới có gần 200 triệu người lao động di trú, chiếm khoảng 3% dân số toàn cầu, và con số này vẫn đang ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của dân số và khả năng giải quyết việc làm của mỗi quốc gia. Tình trạng di trú vì việc làm góp phần làm năng động hóa các hoạt động kinh tế của thế giới nói chung, nền kinh tế quốc gia nói riêng cũng như cho nhiều người lao động, gia đình. Tuy nhiên nó cũng tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức mà các Chính phủ và người lao động di trú khắp nơi phải đối mặt. Đây là một bất công có tầm vóc toàn cầu, bởi lao động di trú là lực lượng đã và đang có những đóng góp to lớn và không thể phủ nhận với nền kinh tế và sự thịnh vượng xã hội của cả nước tiếp nhận và nước gốc [22, tr3]. Để có cái nhìn khái quát nhất về bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trước hết chúng ta sẽ đi tìm hiểu thế nào là người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, cách phân loại và đặc điểm của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ra sao. 1.1.1. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Có nhiều thuật ngữ để chỉ những người lao động ra nước ngoài làm việc như “người lao động di trú”, “lao động di cư”, “người di trú vì việc làm”, “người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”... và theo thời gian, 7
  14. các quan điểm của các tổ chức quốc tế, của các quốc gia về người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng có nhiều thay đổi, bổ sung. Mỗi một quốc gia khác nhau thì việc công nhận một người là người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng khác nhau. Quan niệm về người lao động đi làm việc ở nước ngoài lần đầu tiên được quy định tại Điều 11 Công ước 97 của ILO năm 1949, khi đó ILO đã sử dụng thuật ngữ người di trú vì việc làm để hàm chỉ nhóm người này. Theo đó, người di trú vì việc làm được hiểu là một người di cư từ một quốc gia này tới quốc gia khác để tìm kiếm việc làm bao gồm bất kỳ người nào được tuyển dụng một cách lâu dài như là một người di trú vì việc làm. Khái niệm này không bao hàm: những lao động qua lại các vùng biên giới, những nghệ sĩ và người có chuyên môn hành nghề tự do đến làm việc ở nước khác trong thời gian ngắn và các thủy thủ. Với cách giải thích đó, ILO quan niệm người lao động đi làm việc ở nước ngoài khá rộng, không đặt ra vấn đề người di trú có quốc tịch hay không, sự di chuyển có cần xuất phát từ nước gốc hay không, việc sinh sống và làm việc ở nước ngoài là có thời hạn hay không có thời hạn. Chính vì quan niệm một cách khái quát và chung chung như vậy đã khiến cho việc quản lý cũng như bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài thời kỳ này gặp khó khăn hơn và trên thực thế khó được thực hiện vì vấn đề quốc tịch không được đặt ra. Bởi quốc tịch là trạng thái pháp lý thể hiện mối quan hệ giữa công dân một nhà nước xác định, quốc tịch cho phép người lao động đi làm việc nước ngoài quyền được bảo vệ bởi nhà nước nơi họ có quốc tịch khi tham gia quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài. Kế thừa và phát huy quan niệm của ILO, năm 1990, Liên Hợp quốc đã cụ thể hóa khái niệm người lao động đi làm việc ở nước ngoài trong Công ước quốc tế về quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ (Viết tắt: MWC). Liên Hợp quốc gọi những người lao động đi làm việc nước 8
  15. ngoài là “lao động di trú”, “lao động di trú” được định nghĩa là một người đã, đang và sẽ làm một công việc có hưởng lương tại một quốc gia mà người đó không phải là công dân (Khoản 1 Điều 2 MWC). Khái niệm này khẳng định đi làm việc ở nước ngoài là cả một quá trình từ chuẩn bị lên đường, trên đường sang nước ngoài, trong thời gian làm việc ở nước ngoài và cả sau thời làm việc ở nước ngoài. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài không chỉ có những người đang làm việc ở nước ngoài mà còn bao gồm cả những người chuẩn bị, trên đường sang nước ngoài, và những người đã hồi hương, đây cũng chính là những đối tượng cần được bảo vệ. Quan niệm này đã giúp các tổ chức quốc tế, các quốc gia liên quan dễ dàng đề ra các biện pháp bảo vệ người lao động thích hợp cho giai đoạn. Khái niệm của Liên Hợp quốc đã đề cập đến vấn đề quốc tịch của người lao động. Người không quốc tịch, không chịu sự ràng buộc nghĩa vụ pháp lý và được hưởng sự bảo vệ của một quốc gia thì không được coi là người lao động đi làm việc nước ngoài, đi làm việc nước ngoài ở đây được hiểu là đi làm việc tại nước mà người lao động không phải là công dân. Liên Hợp quốc còn quan niệm mục đích di cư sang nước khác của người lao động phải là vì tìm kiếm việc làm, hưởng lương ở một quốc gia khác trong một khoảng thời gian nhất định. Quan điểm mục đích tìm kiếm việc làm và hưởng lương tại quốc gia khác là để loại trừ những đối tượng di cư ra nước ngoài vì những mục đích khác như học tập, nghiên cứu, du lịch, tránh nạn, làm từ thiện, ... từ đó đưa ra biện pháp bảo vệ phù hợp nhất với nhóm đối tượng này. Việc xác định thời hạn làm việc của người lao động ở nước ngoài cũng là nhằm để loại trừ những đối tượng đi làm việc và định cư luôn ở nước ngoài. Dựa trên tình trạng pháp lý của việc cư trú và lao động, Liên Hợp quốc đã chia người lao động đi làm việc ở nước ngoài thành hai loại là: người lao 9
  16. động di trú có giấy tờ hợp pháp (hay lao động di trú hợp pháp) và người lao động di trú không có giấy tờ (hay lao động di trú bất hợp pháp), trong đó người lao động di trú hợp pháp là những người được một nước cho phép vào, ở lại và được làm một công việc được trả lương tại quốc gia đó, còn người lao động di trú bất hợp pháp thì không được trao các quyền tương tự. Để làm rõ khái niệm người lao động di trú, Liên Hợp quốc còn liệt kê và định nghĩa những đối tượng được coi là lao động di trú và những đối tượng không được coi là lao động di trú dựa trên tính chất nghề nghiệp. Theo đó, những đối tượng được coi là lao động di trú (Khoản 2 Điều 2 MWC) gồm 8 dạng: Nhân công vùng biên, Nhân công theo mùa, Người đi biển (bao gồm cả ngư dân), Nhân công làm việc tại một công trình trên biển, Nhân công lưu động, Nhân công theo dự án, Nhân công lao động chuyên dụng, Nhân công tự chủ. Những đối tượng không được coi là lao động di trú (Điều 3 MWC), bao gồm 6 dạng chính: Những người được cử hoặc tuyển dụng bởi các cơ quan và tổ chức quốc tế, hoặc những người được cử hoặc được tuyển dụng bởi một nước sang một nước khác để thực hiện các chức năng chính thức mà việc tuyển dụng người đó và địa vị của người đó được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế chung hoặc các hiệp định hay công ước quốc tế cụ thể; Những người được cử hoặc tuyển dụng bởi một nước hoặc người thay mặt cho nước đó ở nước ngoài tham gia các chương trình phát triển và các chương trình hợp tác khác mà việc tiếp nhận và địa vị của người đó được điều chỉnh theo thỏa thuận với quốc gia nơi có việc làm và theo thỏa thuận này, người đó không được coi là người lao động di trú; Những người sống thường trú ở một nước không phải quốc gia xuất xứ để làm việc như những nhà đầu tư; Những người tị nạn và không có quốc tịch; Sinh viên và học viên; Những người đi biển hay người làm việc trên các công trình trên biển không được nhận vào để cư trú và tham gia vào một công việc có hưởng trả lương ở quốc gia nơi có việc làm. 10
  17. Nếu so sánh với khái niệm trước đây về người lao động đi làm việc nước ngoài thì khái niệm được nêu trong Công ước của Liên Hợp quốc mang tính chất cụ thể hơn và giới hạn phạm vi các đối tượng được coi là người lao động đi làm việc nước ngoài hơn. Theo pháp luật Việt Nam, người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam, có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận lao động, đi làm việc ở nước ngoài theo quy định của Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài (Khoản 1 Điều 3 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng). Quy định trên khẳng định người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải là người có quốc tịch Việt Nam và cư trú tại Việt Nam, nghĩa là nếu một công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài và sau đó sang quốc gia thứ ba khác để làm việc thì sẽ không được coi là người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Điều kiện “cư trú tại Việt Nam” cho thấy việc di cư ra nước ngoài của người lao động phải xuất phát từ quốc gia mà người lao động mang quốc tịch. Đây là cách định nghĩa theo quan điểm của một quốc gia gửi lao động, vì thế so với khái niệm mà Liên Hợp quốc đưa ra thì những đối tượng được coi là người lao động đi làm việc ở nước ngoài của Việt Nam có phạm vi hẹp hơn, vì Liên Hợp quốc chỉ quy định “tại quốc gia mà người đó không phải là công dân” mà không quan niệm người đó trước khi làm việc ở nước ngoài họ cư trú ở đâu một cách bao quát dưới góc độ nhìn nhận của cả quốc gia gửi lao động và quốc gia tiếp nhận lao động. Việc di cư ra ngước ngoài của người lao động Việt Nam phải hợp pháp, phải được sự công nhận của Việt Nam và quốc gia tiếp nhận. So với quan điểm của Liên Hợp quốc thì nhóm đối tượng này thuộc dạng “lao động di trú có giấy tờ” (lao động di trú hợp pháp). Quan niệm vậy nhằm quản lý tốt hơn 11
  18. luồng di cư lao động của quốc gia mình nhưng lại bỏ sót và chưa đề cao trách nhiệm quốc gia trong việc bảo vệ công dân thuộc nhóm lao động di trú bất hợp pháp. Như vậy, xét về nội hàm, khái niệm người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng của Việt Nam hẹp hơn khái niệm “người lao động di trú” mà Liên Hợp quốc đã nêu. Khác với cách phân loại người lao động đi làm việc ở nước ngoài của Liên Hợp quốc, các nhà luật gia Việt Nam đã phân loại người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo 4 hình thức hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài: Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ký với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ký với doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ký với doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc dưới hình thức thực tập nâng cao tay nghề; Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân. Việc phân loại người lao động đi làm việc ở nước ngoài dựa vào hình thức và đối tượng ký kết hợp đồng trên chủ yếu nhằm mục đích quản lý các đối tượng được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, sàng lọc tính hợp pháp của hợp đồng mà người lao động đã ký để có cơ chế bảo vệ họ cho phù hợp. Tuy nhiên, vì quan niệm người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là “lao động di trú hợp pháp” nên việc phân loại trên không thể hiện được rõ sự khác nhau về bản chất của từng nhóm người lao động đi làm việc ở nước ngoài đó, quyền và lợi ích họ được hưởng là như nhau, cơ chế bảo vệ họ là giống nhau. Nhằm tiến gần hơn với quan niệm Liên Hợp quốc và đạt được mục đích 12
  19. quản lý và bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng chúng ta có thể định nghĩa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng như sau: Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sau đây gọi tắt là người lao động đi làm việc ở nước ngoài) là một người đã, đang và sẽ làm một công việc trong một khoảng thời gian nhất định có hưởng lương tại một quốc gia mà người đó không phải là công dân. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng trước hết phải đáp ứng các điều kiện chung của một người lao động khi tham gia quan hệ pháp luật lao động, đó là có năng lực pháp luật lao động và năng lực hành vi lao động. Năng lực pháp luật của người lao động được đồng thời cả quốc gia gửi lao động và quốc gia tiếp nhận lao động ghi nhận có quyền xuất cảnh, nhập cảnh, quyền được làm việc ở nước ngoài, quyền được hưởng các lợi ích và thực hiện các nghĩa vụ trong quan hệ lao động,... Năng lực hành vi lao động là khả năng bằng chính hành vi của bản thân, người lao động tham gia trực tiếp vào quan hệ pháp luật lao động ở nước ngoài, tự hoàn thành mọi nhiệm vụ để được hưởng quyền lợi. Năng lực hành vi lao động được thể hiện trên hai yếu tố có tính chất điều kiện là thể lực và trí lực. Thể lực chính là sức khỏe của người lao động để có thể thực hiện được một công việc nhất định ở nước ngoài theo yêu cầu của chủ sử dụng. Thông thường các quốc gia sẽ không tiếp nhận những lao động mắc các bệnh truyền nhiễm như HIV, Viêm gan A, B, C, bệnh răng miệng,... và các chủ sử dụng nước ngoài ưa chọn những lao động có ngoại hình cao ráo, gương mặt sáng sủa, tác phong nhanh nhẹn, chịu khó, có sức khỏe tốt, bền bỉ,...trong khoảng độ tuổi từ 18 đến 45. Trí lực là khả năng nhận thức của người lao động đối với hành vi lao động mà họ thực hiện và với mục đích công việc mà họ làm, đó là khả năng lựa chọn công việc phù hợp, khả năng lựa chọn thị trường lao động muốn tham gia, khả năng tự chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình ở quốc 13
  20. gia tiếp nhận,... Muốn có năng lực hành vi lao động, người lao động đi làm việc ở nước ngoài phải trải qua quá trình phát triển cơ thể và có quá trình tích lũy kiến thức ngoại ngữ, trình độ tay nghề, trình độ hiểu biết về đất nước, con người và môi trường lao động của quốc gia mà mình muốn đến làm việc. Ngoài những điều kiện chung nêu trên, người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng còn có những điểm đặc thù khác, đó là: - Tính chất quốc tế của việc làm và lao động Khi đi làm việc nước ngoài, người lao động “bán” sức lao động của mình cho chủ sử dụng nước ngoài theo hợp đồng lao động đã ký kết. Nên quan hệ mua - bán sức lao động ở đây là quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài, ngoài sự điều chỉnh của pháp luật nước gửi lao động thì người lao động còn chịu sự chi phối bởi pháp luật, các quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội và phong tục tập quán của nước sở tại và các điều ước quốc tế, thỏa thuận song phương mà quốc gia tiếp nhận lao động và quốc gia gửi lao động tham gia. - Đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Công việc mà người lao động làm ở nước ngoài là công việc có thời hạn, thời hạn làm việc được thể hiện rõ ràng trong hợp đồng. Thời hạn làm việc ở nước ngoài cũng chính là thời hạn cư trú hợp pháp của người lao động được quốc gia tiếp nhận lao động công nhận và bảo vệ. Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt với những người sống thường trú và làm việc tại quốc gia họ không mang quốc tịch để làm việc, những người được cử hoặc tuyển dụng bởi các cơ quan và tổ chức quốc tế, … Vì vậy, cam kết về nước đúng thời hạn là một trong những điều khoản quan trọng được đặc biệt lưu ý trong hợp đồng nhằm tránh tình trạng hết hạn hợp đồng mà người lao động không về nước, ở lại cư trú bất hợp pháp ở nước ngoài. 1.1.2. Bảo vệ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng Theo đánh giá của các chuyên gia, người lao động đi làm việc ở nước 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2