intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

Chia sẻ: Tri Lý | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

33
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong TTDS Việt Nam, tìm hiểu thực tế áp dụng chế định này trong hoạt động giải quyết các tranh chấp dân sự tại các Tòa án nhân dân (TAND); chỉ ra những điểm còn thiếu hoặc chƣa hợp lý trong quy định của pháp luật TTDS về chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự, từ đó đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện chế định này trong pháp luật TTDS Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THU HIỀN HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THU HIỀN HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thu Hà HÀ NỘI - 2012 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Mở đầu 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH KHỞI 7 KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHẾ ĐỊNH KHỞI KIỆN VÀ 7 THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ. 1.1.1. Khái niệm chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự. 7 1.1.2. Vị trí, vai trò của chế định khởi kiện và thụ lý vụ án Dân sự trong 14 pháp luật TTDS Việt Nam 1.2. LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH 16 KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ 1.2.1. Giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng 8/1945 16 1.2.1.1. Thời kỳ Lý - Trần - Hồ. 16 1.2.1.2. Thời kỳ Lê sơ. 17 1.2.1.3. Thời kỳ triều Nguyễn (1802 - 1884). 18 1.2.1.4. Thời kỳ Pháp thuộc (1858 -1945). 20 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến nay. 21 3
  4. 1.2.2.1 Thời kỳ từ 1945 -1954. 21 1.2.2.2 Thời kỳ từ 1954 đến 1989. 22 1.2.2.3 Thời kỳ từ 1990 đến nay. 25 Chương 2: KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ THEO 30 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 2.1. KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ 30 LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM. 2.1.1. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự. 30 2.1.1.1. Chủ thể quyền khởi kiện vụ án dân sự 30 2.1.1.2. Vụ án đƣợc khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án 40 2.1.1.3. Sự việc chƣa đƣợc giải quyết bằng một bản án hay quyết định đã có 50 hiệu lực pháp luật của tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, trừ trƣờng hợp có quy định khác của pháp luật. 2.1.2. Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự. 51 2.1.3. Hình thức và thủ tục khởi kiện. 52 2.1.3.1. Hình thức khởi kiện vụ án dân sự. 52 2.1.3.2. Việc gửi đơn khởi kiện vụ án dân sự. 53 2.2. THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT 54 TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH 2.2.1. Nhận đơn khởi kiện. 54 2.2.2. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. 56 2.2.3. Xác định tiền tạm ứng án phí và thông báo cho ngƣời khởi kiện. 59 2.2.4. Vào sổ thụ lý vụ án dân sự. 59 2.2.5. Trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự. 59 4
  5. 2.2.5.1. Những trƣờng hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện. 59 2.2.5.2. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện. 61 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHẾ ĐỊNH KHỞI KIỆN 63 VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN 63 SỰ 3.1.1. Thực tiễn việc trả lại đơn khởi kiện. 63 3.1.2. Thực tiễn khởi kiện vụ án ly hôn với ngƣời mất tích. 64 3.1.3. Thực tiễn trong việc phân biệt địa vị tố tụng của hai chủ thể quyền 67 khởi kiện là "cơ quan" và "tổ chức". 3.1.4. Bất cập trong việc xác định tính hợp pháp về hình thức của đơn khởi 70 kiện do ngƣời đại diện theo ủy quyền đứng đơn khởi kiện. 3.1.5. Bất cập trong việc xác định những tranh chấp về quyền sử dụng đất 72 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự 3.2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ. 76 3.3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH KHỞI KIỆN VÀ THỤ 79 LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM. 3.3.1. Phƣơng án giải quyết vấn đề có đƣợc khiếu nại, kháng cáo, kháng 80 nghị Quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. 3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về thời hiệu. 82 3.3.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định về tính hợp pháp về hình thức của đơn 83 khởi kiện do ngƣời đại diện theo ủy quyền đứng đơn khởi kiện. 3.3.4. Bổ sung thêm những quy định về khởi kiện bảo vệ quyền lợi ngƣời 83 tiêu dùng. 5
  6. 3.3.5. Bổ sung những quy định về khởi kiện đòi bồi thƣờng thiệt hại về môi 85 trƣờng. 3.3.6. Hoàn thiện chế định về chứng cứ, chứng minh trong tố tụng dân sự để 88 tạo điều kiện cho ngƣời dân thực hiện đƣợc quyền khởi kiện của mình. KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 6
  7. DANH MỤC VIẾT TẮT TTDS: Tố tụng Dân sự; BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự; HNGĐ: Hôn nhân gia đình; TAND: Tòa án nhân dân; TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao; PLTTGQCVADS: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; PLTTGQCVAKT: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế; PLTTGQCVALĐ: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động. 7
  8. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài. Quyền dân sự là một quyền năng cơ bản mà pháp luật thừa nhận đối với các chủ thể trong giao lƣu dân sự. Trong quá trình tham gia các giao lƣu dân sự thì quyền năng này thƣờng hay bị xâm phạm, làm cho quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể không đƣợc bảo đảm. Để bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể, pháp luật có quy định những biện pháp bảo đảm quyền của chủ thể bằng những biện pháp hình sự, hành chính... Nhƣng đặc biệt hơn cả trong các biện pháp bảo vệ đó là biện pháp khởi kiện vụ án dân sự theo trình tự tố tụng dân sự (TTDS). Theo đó, các chủ thể giả thiết có quyền dân sự bị xâm phạm có quyền khởi kiện theo thủ tục TTDS yêu cầu Toà án giải quyết nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Mặc dù, việc bảo vệ quyền dân sự bằng biện pháp khởi kiện dân sự đƣợc ghi nhận là biện pháp hữu hiệu và có tính khả thi cao. Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) đƣợc Quốc hội khóa XI thông qua ngày 15/06/2004, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2005 với chế định khởi kiện và thụ lý đƣợc kế thừa và đánh dấu bƣớc phát triển lập pháp hoàn thiện hơn trong luật. Nhƣng trong thực tế các chủ thể khi thực hiện quyền khởi kiện của mình đã gặp rất nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ thực trạng còn thiếu vắng các quy định của pháp luật. Ngay chính các quy định của BLTTDS về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự mặc dù đã đƣợc sửa đổi cụ thể song còn tồn tại những quy định chung chung, còn có những khoảng trống trong luật chƣa đƣợc điều chỉnh cụ thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đƣợc thống nhất trong thực tiễn xét xử. Chính từ thực trạng đó đòi hỏi phải nghiên cứu một cách toàn diên, sâu sắc và đầy đủ về chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật TTDS Việt Nam nhằm góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật TTDS. Với những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài "Hoàn 8
  9. thiện chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" có ý nghĩa khoa học và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học pháp lý từ trƣớc đến nay, ở nƣớc ta chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự không phải là vấn đề mới, đã có những công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về chế định này nhƣ đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng về "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, năm 2002. Cũng nhƣ có những đề tài khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Khoa Luật – Đại học Quốc gia nhƣ đề tài: “ Một số vấn đề về khởi kiện, khởi tố vụ án dân sự” của sinh viên Phạm Thị Vải và đề tài : “Khởi kiên, khởi tố vụ án dân sư – thực tiễn và một số kiến nghị” của sinh viên Lƣơng Huy Hùng. Tuy nhiên hầu hết là các công trình đƣợc nghiên cứu nêu trên đều tiến hành trƣớc thời điểm BLTTDS có hiệu lực. Những công trình này thƣờng nghiên cứu chế định theo những quy định pháp luật cũ bao gồm cả hai chế định khởi kiện và khởi tố trong TTDS mà không có sự gắn kết giữa hai hoạt động khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự. Ở những khía cạnh khác nhau, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan, nhƣng các công trình này chủ yếu tiếp cận dƣới góc độ coi hoạt động khởi kiện, khởi tố là một hoạt động của chủ thể pháp luật trong quá trình TTDS dƣới góc độ là một thủ tục pháp lý mà chƣa nghiên cứu hoạt động khởi kiện và thụ lý dƣới góc độ của một chế định pháp lý quan trọng trong pháp luật TTDS. Sau khi BL TTDS có hiệu lực pháp luật đã có rất nhiều các công trình khoa học đƣợc nghiên cứu, tuy nhiên, những công trình này chỉ là những bài nghiên cứu ngắn đƣợc đăng tải trên một số tạp chí chuyên môn nhƣ bài viết : “ Những vấn đề cơ bản lưu ý khi thụ lý đơn khới kiện, khởi tố, đơn yêu cầu trong giải quyết vụ án Dân sự” của tác giải Duy Kiên, đăng trên tạp chí Kiểm sát số 07/2012. Hay bài 9
  10. viết: “ Về chế định kiện phái sinh” của tác gải Quách Thúy Quỳnh, đăng trên tạp chí Luật học số 03/2012… Hay bài viết: “ Một số ý kiến về thời hiện khởi kiện theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS 2004” của tác giả Lê Mạnh Hùng, đăng trên tạp chí Kiểm sát số 10/2012….Ngoài ra còn có rất nhiều các bài viết riêng lẻ khác đăng tải trên các trang web về chuyên ngành luật khác. Nhƣng các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một cách khái quát về từng khía cạnh của chế định khởi kiện và tiếp cận một cách riêng lẻ mà chƣa có sự liên kết giữa hai chế định khởi kiện và thụ lý trong một đề tài nghiên cứu khoa học thống nhất. Với tình hình trên, đề tài "Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam", đã nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ về chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự sau khi BLTTDS đƣợc ban hành và bảo đảm đƣợc tính lôgíc, hệ thống, không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học đã đƣợc công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn * Mục đích của việc nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài làm thực hiện mục đích: Một là, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong TTDS Việt Nam, tìm hiểu thực tế áp dụng chế định này trong hoạt động giải quyết các tranh chấp dân sự tại các Tòa án nhân dân (TAND). Hai là, chỉ ra những điểm còn thiếu hoặc chƣa hợp lý trong quy định của pháp luật TTDS về chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự, từ đó đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện chế định này trong pháp luật TTDS Việt Nam. * Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Để thực hiện đƣợc mục tiêu này, luận văn phải hoàn thành một số nhiệm vụ sau: 10
  11. - Tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự; - Nghiên cứu và phân tích khái niệm, bản chất, đặc điểm về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục này trong pháp luật TTDS Việt Nam; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự. Do quá trình áp dụng pháp luật của Việt Nam hiện nay còn rất nhiều bất cập và hạn chế, nên đã làm cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể gặp nhiều khó khăn, nhiều trƣờng hợp quyền của chủ thể không thực hiện đƣợc. Việc nghiên cứu đề tài này chỉ ra những nội dung, những vấn đề còn thiếu sót, chƣa phù hợp. Từ đó, luận giải về yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật về thủ tục khởi kiện và thụ lý trong TTDS Việt Nam, đồng thời đề ra các giải pháp để hoàn thiện các quy định này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu các quy định chung của Pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này của TAND. Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ Luật học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định chung về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo quy định của BLTTDS Việt Nam hiện hành, các nghiên cứu tập trung chủ yếu đối với đặc thù của việc khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự. Luận văn có đề cập nghiên cứu một số quy định của pháp luật tố tụng về khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trƣớc thời điểm BLTTDS đƣợc ban hành. Tuy nhiên, cách tiếp cận về các vấn đề này chỉ là cơ sở để so sánh, nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và hệ 11
  12. thống về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo quy định của BLTTDS Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đƣợc mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu đƣợc tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về quản lý Nhà nƣớc, quản lý xã hội cũng nhƣ chủ trƣơng, quan điểm về việc xây dựng BLTTDS. Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: Phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, quy nạp, khảo sát thăm dò lấy ý kiến trong phạm vi những ngƣời làm công tác thực tiễn, sử dụng kết quả thống kê... nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn là một công trình nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn của thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong tố tụng dân sự Việt Nam. Luận văn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau đây: Thứ nhất: Lần đầu tiên thủ tục khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của BLTTDS Việt Nam đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả trên cả phƣơng diện lý luận và thực tiễn. Những vấn đề đặc thù của việc khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự so với việc khởi kiện thụ lý vụ án kinh doanh thƣơng mại, lao động, hôn nhân gia đình cũng đƣợc nghiên cứu và đề cập một cách khái quát nhất. Thứ hai: Quá trình nghiên cứu, đề tài tìm ra những tồn tại trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật về thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong TTDS Việt Nam. Từ những đánh giá toàn diện, kết quả nghiên cứu của đề tài đề 12
  13. xuất các kiến nghị để góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam. Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, trong một chừng mực nhất định có thể làm tài liệu tham khảo cho những ngƣời nghiên cứu chuyên sâu về tố tụng dân sự và cho các cán bộ làm công tác thực tiễn (Thẩm phán, Luật sƣ, Trợ giúp viên...) trong việc hiểu biết một cách sâu sắc, đầy đủ và vận dụng đúng đắn các quy định của pháp luật khi áp dụng chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong tố tụng dân sự Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật TTDS Việt Nam. Chương 2: Thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo quy định của BLTTDS Việt Nam. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong TTDS Việt Nam. 13
  14. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHẾ ĐỊNH KHỞI KIỆN VÀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ. 1.1.1. Khái niệm chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân và vì dân, cũng nhƣ đứng trƣớc yêu cầu cấp thiết của việc sửa đổi những quy định về tổ chức bộ máy Nhà nƣớc trong Hiến pháp 1992 hiện nay, việc làm rõ những vấn đề lý luận về chế định khởi kiện sẽ góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện các cơ chế bảo vệ pháp luật trong hoạt động TTDS nói chung và bảo vệ quyền dân sự cơ bản của công dân nói riêng trong việc tiếp cận với công lý. Bởi lẽ, mặc dù quyền khởi kiện là một quyền năng dân sự cơ bản nhất của chủ thể pháp luật khi tham gia các giao lƣu dân sự, nhƣng hiện nay việc thực hiện quyền này của các chủ thể quyền vẫn còn gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do cách hiểu luật thiếu thống nhất tại hệ thống tòa hai cấp nhƣ những vấn đề về thẩm quyền, về thời hiệu… Cũng nhƣ sự chồng chéo của các văn bản pháp luật nội dung đã làm cho các chủ thể quyền khởi kiện không biết phải căn cứ vào văn bản pháp luật nào để xác định căn cứ khởi kiện. Những khó khăn này kéo dài trong suột thời gian qua, mặc dù các văn bản luật đã nhiều lần đƣợc ban hành, đƣợc sửa đổi bổ sung nhƣng vẫn chƣa có sự thống nhất triệt để. Việc nghiên cứu so sánh lịch sử TTDS thế giới đã cho thấy, về cơ bản khái niệm quyền khởi kiện –hay tố quyền đã đƣợc biết đến từ thời xa xƣa của xã hội loài ngƣời. Chẳng hạn, ở nhà nƣớc chiếm hữu nô lệ Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ V 14
  15. trƣớc Công nguyên đã tồn tại hai hình thức tố tụng là công tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nƣớc khi mà ngƣời đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật) và tƣ tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án xảy ra do sự vi phạm đến các lợi ích riêng của ai đó); còn ở La Mã cổ đại trong thời kỳ tan rã của nền dân chủ quân sự và hình thành Nhà nƣớc chiếm hữu nô lệ thì quyền khởi kiện cũng đƣợc ghi nhận trong các vụ án động chạm đến lợi ích cá nhân của tầng lớp trên trong xã hội. Tại xã hội phong kiến Việt Nam, quyền khởi kiện cũng đƣợc thừa nhận và quy định cụ thể trong những Chiếu dụ của nhà vua, cũng nhƣ đƣợc thể hiện chi tiết và sâu sắc trong Luật Gia Long và Luật Hồng Đức. Cùng với thời gian, quyền khởi kiện đƣợc hình thành và hoàn thiện dần dần qua từng giai đoạn lịch sử, và đến hôm nay nó là một chế định pháp luật độc lập đƣợc thừa nhận trong Hiến pháp và trong luật TTDS. Về mặt lập pháp, trong thời kì đầu hình thành pháp luật ở nƣớc ta thì khái niệm “quyền khởi kiện “ không hề có trong pháp luật, mà những tính chất của quyền này đã đƣợc ghi nhận dƣới những tên gọi khác nhau nhƣ thời kỳ Lý- Trần – Hồ thì hoạt động khởi kiện đƣợc ghi nhận dƣới cụm từ “việc kiện tụng”, hay trong Luật Gia Long và Luật Hồng Đức thì hoạt động khởi kiện đƣợc ghi nhận dƣới cụm từ “việc thưa kiện”. Cụm từ “quyền khởi kiện” chỉ chính thức đƣợc ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 1 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) theo đó: “Công dân, pháp nhân theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án nhân dân bảo về quyền lợi hợp pháp của mình”. BLTTDS năm 2004 ra đời là một bƣớc đánh dấu quan trọng cho quá trình phát triển của TTDS Việt Nam. Từ việc chỉ quy định dƣới hình thức pháp lệnh, nhƣng nội dung của pháp luật TTDS đã đƣợc pháp điển hóa bằng hình thức Bộ luật 15
  16. đã thực sự tạo ra một cơ chế giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật. Một trong những điểm mới của BLTTDS 2004 là việc đƣa ra khái niệm vụ việc dân sự, khi mà trƣớc đó trong tất cả các văn bản pháp luật về TTDS chỉ có khái niệm vụ án dân sự. Trƣớc khi BLTTDS 2004 ra đời, khái niệm vụ án dân sự đƣợc hiểu là tất cả những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, không phân biệt đó là vụ án thuộc loại gì và thuộc đối tƣợng điều chỉnh của ngành luật nội dung nào. Điều này đƣợc thể hiện ngay tại Điều 1 Luật Tổ chức TAND năm 2002, theo đó: "Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật". Ngay cả các pháp lệnh thủ tục giải quyết cũng đều xác định tên gọi chung của những loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là các vụ án nhƣ: PLTTGQCVADS năm 1989; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (PLTTGQCVAKT) năm 1994. Theo khái niệm trên thì không có sự phân biệt vụ án dân sự có tranh chấp nhƣ: tranh chấp thừa kế, tranh chấp hợp đồng và những vụ án dân sự không có tranh chấp nhƣ: yêu cầu xác định công dân mất tích, xác định công dân đã chết, thuận tình ly hôn. Tuy nhiên, kể từ ngày BLTTDS 2004 có hiệu lực (ngày 01/01/2005), khái niệm vụ án dân sự đƣợc thay thế bằng khái niệm vụ việc dân sự. Nhƣ vậy, sau khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực, thủ tục giải quyết vụ án dân sự trƣớc đây đã trở thành thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự. Theo Điều 1 BLTTDS năm 2004 thì vụ án dân sự gồm: “các tranh chấp về dân sự; các tranh chấp về hôn nhân và gia đình; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại; các tranh chấp về lao động”. Và vụ việc dân sự bao gồm: “các yêu cầu về dân sự; các yêu cầu về hôn nhân và gia đình; các yêu cầu về kinh doanh, thương mại và các yêu cầu về lao động”. Tiêu chí để phân biệt giữa vụ án dân sự 16
  17. và việc dân sự chính là tình chất có tranh chấp hay không có tranh chấp. BLTTDS năm 2004 không khái quát lên khái niệm về vụ án dân sự mà định nghĩa khái niệm này theo phƣơng thức liệt kê, và có thể nói việc liệt kê loại việc nào đƣợc xác định là vụ án dân sự và loại việc nào đƣợc xác định là vụ việc dân sự trong BLTTDS năm 2004 đã tƣơng đối đầy đủ và chi tiết nhƣ tại Điều 1 BLTTDS năm 2004 đã ghi nhận: “BLTTDS quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự)”. Chính từ đây, khái niệm về chế định khởi kiện vụ án dân sự đã đƣợc hình thành và đang ngày càng hoàn thiện hơn để đảm bảo quyền lợi dân sự hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Theo Từ điển Luật học trang 76 thì: “Chế định pháp luật được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội giống nhau trong phạm vi một ngành luật”. Nhƣ vậy, chúng ta có thể hiểu Chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong TTDS Việt Nam là: “Tổng hợp các quy phạm pháp luật TTDS điều chỉnh các quan hệ giữa Tòa án với các chủ thể tố tụng khác phát sinh trong quá trình khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự”. Những quy phạm này đƣợc quy định thành một chƣơng riêng trong BLTTDS 2004 với 17 điều (từ Điều 161 đến Điều 178) quy định chi tiết những vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa nguyên đơn, đại diện của nguyên đơn khi tiến hành quyền khởi kiện của mình nhƣ những quy định về chủ thể khởi kiện; về thời hiệu khởi kiện; về nội dung khởi kiện; về hình thức khởi kiện… Cũng nhƣ quy định về 17
  18. quan hệ của Tòa án và nguyên đơn, đại diện của nguyên đơn khi tiến hành thụ lý vụ án dân sự nhƣ: Thụ lý đơn khởi kiện; trả lại đơn khởi kiện… Theo quy định tại Khoản 2 Điều 56 BLTTDS thì: “Nguyên đơn trong vụ án dân sư là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công công, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn”. Nhƣ vậy, quan hệ pháp luật TTDS đƣợc hình thành khi có hoạt động khởi kiện của chủ thể quan hệ pháp luật Dân sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong trƣờng hợp giả thiết những quyền đó bị xâm phạm. Dƣới góc độ xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc thừa nhận quyền khởi kiện của chủ thể pháp luật là một trong những quy định quan trọng nhằm đảm bảo thực thi công lý cũng nhƣ đảm bảo cho công dân tiếp cận công lý. Quyền này đã đƣợc ghi nhận tại Điều 14 Hiến pháp 1992, theo đó: “ Công dân có quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ các nhân nào…” và tại Điều 50 Hiến pháp 1992 cũng quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và Luật”. Và đã đƣợc cụ thể hóa tại Điều 4 BLTTDS: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. 18
  19. Tại Điều 406 BLTTDS cũng quy định: “Công dân nước người, người không quốc tịch, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế (sau đây gọi chung là cá nhâ, cơ quan, tổ chức nước ngoài) có quyền khởi kiện đến Tòa án Việt Nam để yêu cầu bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm hoặc có tranh chấp” Khi nghiên cứu về quyền khởi kiện của chủ thể pháp luật dƣới góc độ pháp luật hình thức (pháp luật về tố tụng) các nhà khoa học pháp lý trên thế giới cũng nhƣ Việt Nam đều có những quan điểm gần nhƣ thống nhất về mối quan hệ giữa quyền khởi kiện của chủ thể trong pháp luật hình thức và pháp luật nội dung. Theo đó, các quyền lợi của chủ thể pháp luật đƣợc thừa nhận trong pháp luật dân sự chính là đối tƣợng của quyền khởi kiện trong pháp luật TTDS. Các quyền lợi của các chủ thể pháp luật đƣợc thừa nhận trong pháp luật dân sự ở các hệ thống pháp luật, ở các quốc gia có sự khác nhau. Nhƣng về cơ bản, tất cả các quyền lợi dân sự của chủ thể đều xoay quanh những quyền dân sự cơ bản của cá nhân đó là quyền đối nhân và quyền đối vật. Theo đó, quyền đối nhân là quyền của chủ thể pháp luật đối với ngƣời khác và quyền đối vật là quyền của chủ thể pháp luật đối với vật. Trong quyền đối vật thì chúng ta có quyền đối với bất động sản và quyền đối với động sản. Nhƣ vậy, về mặt khoa học pháp lý, chúng ta có thể phân chia quyền khởi kiện dân sự thành ba loại trên cơ sở đối tƣợng của chúng là các quyền lợi dân sự cơ bản nhƣ: quyền khởi kiện động sản (còn gọi là tố quyền động sản); quyền khởi kiện bất động sản (còn gọi là tố quyền bất động sản) và quyền khởi kiện đối nhân (còn gọi là tố quyền đối nhân). Bên cạnh việc thừa nhận quyền lợi của chủ thể pháp luật gồm hai loại cơ bản là quyền đối nhân và quyền đối vật, thì trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 chúng ta còn nhận thấy sự thừa nhận của quyền hỗn hợp, tức là thừa nhận loại quyền lợi của chủ thể luật dân sự vừa có tính chất đối nhân vừa có tính chất đối 19
  20. vật. Vì vậy, dƣới góc độ khoa học pháp lý chúng ta cũng thừa nhận loại tố quyền có đối tƣợng vừa là một quyền đối nhân vừa là một quyền đối vật đƣợc sinh ra từ một hành vi pháp lý. Nhƣ vậy, quyền lợi của chủ thể pháp luật gắn với quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, thƣơng mại, lao động (mà chúng ta hay gọi tắt là các quyền dân sự) chính là đối tƣợng của quyền khởi kiện và là cơ sở của quyền này. Thụ lý vụ án dân sự không phải là một quyền của chủ thể pháp luật, mà nó là một tổ hợp các hoạt động của cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự. Khái niệm “thụ lý” các vụ việc dân sƣ hình thành từ rất lâu trong lịch sử lập pháp và có mối quan hệ biện chứng với quyền khởi kiện của chủ thể pháp luật. Có thể nói, chỉ khi quyền khởi kiện của chủ thể pháp luật đƣợc thực thi thì mới có hoạt động thụ lý đơn khởi kiện của các cơ quan tiến hành tố tụng. Và ngƣợc lại, chỉ khi hoạt động thụ lý đƣợc thực hiện thì quyền khởi kiện của chủ thể pháp luật mới đƣợc thực hiện và quyền lợi hợp pháp của chủ thể mới có khả năng đƣợc đảm bảo. Trong lịch sử pháp luật Việt Nam thì khái niệm “thụ lý” lần đầu tiên đƣợc ghi nhận tại Luật Gia Long nhƣ sau: "Các quan khi nhận đơn thưa kiện phải làm rõ vụ việc, nhanh chóng thụ lý. Nếu quan bỏ qua sẽ bị trừng phạt căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của vụ việc". Nhƣ vậy, ban đầu, hoạt động “thụ lý” là hoạt động của một cá nhân trong quan hệ tố tụng, cụ thể ở đây là hoạt động của “quan” chứ không phải là hoạt động của một cơ quan là tòa án nhƣ pháp luật hiện đại. “Thụ lý vụ án dân sự” là một khái niệm chỉ một tổ hợp các hoạt động bao gồm các hành vi tố tụng khác nhau. Trƣớc hết, ngay sau khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án phải tiến hành xem xét, kiểm tra. Nếu thấy đã đủ các điều kiện quy định của pháp luật thì xác định tiền tạm ứng án phí mà đƣơng sự phải nộp và thông báo cho đƣơng sự biết. Theo Điều 37 PLTTGQCVADS, nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án báo ngay cho nguyên đơn nộp tiền tam ứng án 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2