Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không
lượt xem 6
download
Luận văn hướng tới việc làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không để thông qua đó đánh giá thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này, và tiến tới việc đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện hơn nữa các qui định pháp luật Việt Nam điều chỉnh hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN NGỌC THÁI HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS Ngô Huy Cương HÀ NỘI - 2010
- MỤC LỤC Trang Mở đầu 1 Chương 1. Khái luận về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường 4 hàng không 1.1 Khái niệm và phân loại hợp đồng vận chuyển hàng hoá 4 bằng đường hàng không 1.1.1 Khái quát về vận chuyển hàng không 4 1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng vận chuyển hàng hoá 7 bằng đường hàng không 1.1.3 Phân loại hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng 11 không 1.1.3.1 Vận chuyển hàng hoá quốc tế và vận chuyển hàng hoá nội địa 12 1.1.3.2 Vận chuyển thường lệ và vận chuyển không thường lệ 15 1.2 Giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng 16 không 1.2.1 Đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng vận chuyển 17 hàng hoá bằng đường hàng không 1.2.2 Hình thức của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường 18 hàng không 1.2.3 Nội dung của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng 20 không 1.3 Hiệu lực của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường 24 hàng không 1.3.1 Các điều kiện có hiệu lực và sự vô hiệu của hợp đồng vận 24 chuyển hàng hoá bằng đường hàng không 1.3.1.1 Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng vận chuyển hàng hoá 24 bằng đường hàng không 1.3.1.2 Sự vô hiệu của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường 31 hàng không và việc xử lý vô hiệu 1.3.2 Thực hiện hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng 32 không 1.3.3 Trách nhiệm của các bên trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa 34 bằng đường hàng không 1.3.3.1 Trách nhiệm của người gửi hàng hóa 34 1.3.3.2 Trách nhiệm của người vận chuyển 36 1.4 Giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng vận chuyển 41
- hàng hóa bằng đường hàng không 1.5 Vận chuyển đa phương thức 44 1.5.1 Khái niệm và mô hình vận chuyển đa phương thức 44 1.5.2 Trách nhiệm của người vận chuyển trong vận chuyển đa 47 phương thức Chương 2. Pháp luật Việt Nam điều chỉnh hợp đồng vận chuyển hàng 50 hóa bằng đường hàng không 2.1 Nguồn pháp luật điều chỉnh hợp đồng vận chuyển hàng hóa 50 bằng đường hàng không 2.2 Đánh giá các qui định pháp luật Việt Nam về hợp đồng vận 54 chuyển hàng không quốc tế 2.2.1 Những tiến bộ của các qui định pháp luật Việt Nam về hợp 54 đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không 2.2.2 Một số phân tích cụ thể các qui định pháp luật Việt Nam về 66 hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không Chương 3. Một số kiến nghị qua nghiên cứu về về hợp đồng vận 77 chuyển hàng hóa bằng đường hàng không 3.1 Định hướng pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa 77 bằng đường hàng không 3.1.1 Thúc đẩy sự phát triển cảu kinh tế, văn hóa, xã hội 77 3.1.2 Bảo đảm giao lưu quốc tế 78 3.1.3 Bảo đảm an toàn trong vận chuyển hàng không 79 3.2 Kiến nghị hoàn thiện hơn nữa pháp luật về hợp đồng vận 80 chuyển hàng hóa bằng đường hàng không Kết luận 87 Tài liệu tham khảo 89
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, hàng không dân dụng Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể từ những năm 1990 đến nay và đã góp phần tích cực vào việc tăng cường giao lưu và hợp tác quốc tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Ý thức được tầm quan trọng của hàng không dân dụng trong giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang quan tâm tạo điều kiện cho ngành được phát triển thuận lợi nhất, góp phần phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước. Bên cạnh những ưu thế so với một số ngành vận chuyển khác về mặt thời gian, chất lượng dịch vụ, vận chuyển hàng không còn là một lĩnh vực chịu nhiều rủi ro và tác động của các yếu tố chính trị, kinh tế, pháp lý, và các tác động nằm ngoài tầm kiểm soát của con người như thiên tai, dịch bệnh... Đặc biệt hoạt động vận chuyển hàng không không chỉ liên quan đến lĩnh vực kinh tế, mà còn liên quan đến cả vấn đề an ninh lãnh thổ và sự an nguy của quốc gia nói chung. Do đó các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động vận chuyển hàng không có những đặc thù riêng và phải được sự quan tâm đặc biệt của các nhà làm luật, cũng như của những người thi hành pháp luật. Vận chuyển bằng đường hàng không bao gồm ba lĩnh vực là vận chuyển vận chuyển hành khách, vận chuyển hàng hoá, và vận chuyển bưu phẩm, bưu kiện và thư. Mỗi lĩnh vực có một tầm quan trọng nhất định trong sự phát triển nền kinh tế đất nước. Kể từ năm 1991, Việt Nam đã có đạo luật riêng về hàng không dân dụng với nhiều lần sửa đổi và được làm mới. Các đạo luật này đã có các qui định khá cụ thể về vận chuyển hàng không nói chung và vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không nói riêng. Tuy nhiên vận chuyển hàng không là một lĩnh vực phức tạp có liên quan tới nhiều ngành 1
- luật khác và liên quan tới các điều ước quốc tế. Có thể nói đạo luật về hàng không dân dụng của Việt Nam hiện nay và các văn bản pháp luật khác của Việt Nam chưa hoàn toàn đồng nhất, và bản thân nó cũng chưa chuyển hoá được một cách thích hợp nhất các điều ước quốc tế về hàng không. Trong thực tiễn thi hành các văn bản pháp luật về vận chuyển hàng không còn đặt ra nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu không chỉ về tính sát hợp giữa pháp luật và thực tiễn đời sống, mà còn cho cả việc hiểu và thi hành từng qui định cụ thể của pháp luật và điều ước quốc tế. Vì các lẽ đó, tôi lựa chọn đề tài “Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình. Nhận thức rằng hoạt động vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không được thực hiện trên căn bản các hợp đồng, xét về mặt pháp lý, mà trong đó hợp đồng vận chuyển giữa người vận chuyển và người gửi hàng có vị trí trung tâm và được sự quan tâm nhiều nhất từ phía cộng đồng. 2. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Luận văn hướng tới việc làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không để thông qua đó đánh giá thực trạng các quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này, và tiến tới việc đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện hơn nữa các qui định pháp luật Việt Nam điều chỉnh hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không. Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý và không mở rộng sang lĩnh vực kinh tế hay quốc phòng, an ninh. Luận văn cũng chủ yếu tập trung vào các vấn đề pháp luật của Việt Nam hiện nay mà không mở rộng ra các vấn đề pháp lý có tính cách toàn cầu, cũng như các vấn đề có tính cách lịch sử. Nếu các vấn đề nằm ngoài phạm vi nghiên cứu có được đề cập tới trong Luận văn thì chỉ nên xem là các minh hoạ cho việc làm rõ thêm các vấn đề pháp lý nằm trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn. 2
- 3. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh pháp luật, phương pháp mô hình hoá, điển hình hoá các quan hệ xã hội, phương pháp phân tích qui phạm và phân tích tình huống. 4. Bố cục của Luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận, và phụ lục, nội dung của Luận văn được chia thành 3 chương: Chương I: Khái luận về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không Chương II: Pháp luật Việt Nam điều chỉnh hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không Chương III: Một số kiến nghị qua nghiên cứu về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không. 3
- Chương 1 KHÁI LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG 1.1. Khái niệm và phân loại hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không 1.1.1. Khái quát về vận chuyển hàng không Tàu bay ra đời là một cuộc cách mạng kỹ nghệ quan trọng giúp cho con người như được chắp thêm đôi cách có thể bay bổng trong không trung, không phụ thuộc vào địa hình. Và không bỏ lỡ cơ hội này, ngay sau đó tàu bay được ứng dụng vào các mục đích khác nhau trong hoạt động sống của con người. Các mục đích này được phân chia thành hai mục đích lớn là chiến tranh và dân sự. Trong việc sử dụng tàu bay cho mục đích dân sự, người ta lại chia nhỏ thành hai mục đích là vận chuyển, và các mục đích khác (như: thể thao, y tế, cứu hộ, bản đồ, địa chất, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thời tiết…). Trong vận chuyển hàng không, căn cứ vào đối tượng được vận chuyển, người ta chia vận chuyển thành vận chuyển hành khách, vận chuyển hàng hoá, và vận chuyển bưu phẩm, bưu kiện, thư từ. Mỗi loại vận chuyển này chịu sự điều chỉnh của các qui chế pháp lý khác nhau. Như vậy có hai sự kiện lớn buộc con người phải chú ý tới, liên quan tới sự ra đời của tàu bay: Một sự kiện liên quan tới chính sự vận hành tàu bay; và sự kiện khác liên quan tới việc đưa tàu bay vào sử dụng cho các mục đích khác nhau. Vì vậy, về lý luận tổng quát, sự ra đời của tàu bay đã kéo theo sự ra đời của một ngành khoa học pháp lý mới mẻ được ví như một thế giới vi mô pháp lý (a juridical microcosm) mà tại đó tập hợp cả các qui định về cả luật công và luật tư nhằm điều tiết một hoạt động đặc biệt liên quan tới tàu bay [22, tr. 17- 20]. Mặc dù một số qui định về hàng không đã xuất hiện vào 4
- Thế kỷ XIX, nhưng cho mãi tới khi tàu bay có động cơ điều khiển ra đời, ngành luật hàng không mới được hình thành. Qua đây có thể hiểu vận chuyển hàng không là việc đưa tàu bay vào khai thác nhằm mục đích vận chuyển hành khách, và đồ vật từ nơi này tới nơi khác. Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006, tại Điều 109 có định nghĩa: “Vận chuyển hàng không là việc vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hoá, bưu phẩm, bưu kiện, thư từ bằng đường hàng không”. Điều luật này đã gián tiếp nói tới tàu bay như một phương tiện chuyên chở, bởi ngoài tàu vũ trụ và tên lửa có khả năng nào đấy trong việc chuyên chở đồ vật thì chỉ có tàu bay là thông dụng cho việc vận chuyển hành khách, và đồ vật trong không trung. Vận chuyển hàng không như vậy có các đặc điểm sau trong sự so sánh với các dạng vận chuyển khác: Thứ nhất, vận chuyển hàng không được thực hiện bằng tàu bay. Đặc điểm này dẫn tới việc phải xem xét tới các đặc điểm kỹ thuật của tàu bay trong hoạt động vận chuyển mà nhà làm luật không thể bỏ qua. Chẳng hạn như: hàng hoá phải có kích cỡ thích hợp; hàng hoá có từ tính cao hay hàng hoá có chất phóng xạ… cần phải tuân thủ các qui chế ngặt nghèo.v.v... Vận chuyển hàng không luôn đòi hỏi sử dụng công nghệ cao, đòi hỏi những tiêu chuẩn khắt khe về công nghệ, kỹ thuật, là ngành vận tải hiện đại có khả năng kết nối nhiều vùng trong một quốc gia và nhiều quốc gia trên toàn cầu. Thứ hai, việc vận chuyển được thực hiện trên không trung - môi trường hoạt động chủ yếu của tàu bay. Đặc điểm này dẫn tới việc phải cân nhắc tới điểm đi, điểm đến và điểm dừng trong hành trình vận chuyển. Bởi vậy khi định nghĩa vận chuyển hàng không quốc tế (dưới góc độ hợp đồng vận chuyển), các điều ước quốc tế, cũng như pháp luật của các quốc gia đều xem xét tới các yếu tố này (sẽ được nói tới dưới đây). Khoảng cách chuyên chở 5
- bằng đường hàng không ngắn hơn so với các phương thức vận chuyển khác từ 15% đến 20%, do đó được xem là một lợi thế quan trọng. Thứ ba, việc vận chuyển được thực hiện một cách nhanh chóng. Đây là một trong những ưu thế của vận chuyển hàng không so với các dạng vận chuyển mặt đất khác do việc vận chuyển không phụ thuộc vào địa hình và tốc độ của tàu bay mang lại. Bởi vậy các nhà làm luật thường thể hiện chính sách của quốc gia liên quan tới giao lưu quốc tế và phát triển công nghiệp vận chuyển trong các văn bản pháp luật về hàng không. Mặc dù khối lượng hàng hoá được vận chuyển bằng tàu bay không lớn, nhất là trong thương mại quốc tế (chỉ chiếm khoảng 1% tổng khối lượng hàng hoá di chuyển), nhưng đối với các mặt hàng quý hiếm, giá trị cao, có tính thời vụ, hàng tươi sống và hàng có tính khẩn cấp… thì vận chuyển hàng không đứng ở vị trí số một so với các dạng vận chuyển khác. Thứ tư, việc vận chuyển hàng không qua lại biên giới và vào sâu trong lãnh thổ của các quốc gia một cách dễ dàng, thuận tiện và nhanh chóng. Đặc điểm này cũng thường là mối quan tâm của các nhà làm luật khi xây dựng các văn bản pháp luật về hàng không. Hiện nay ở tất cả các nước vận chuyển hàng không là phương thức vận chuyển quan trọng không chỉ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, mà đặc biệt trong cả phạm vi quốc tế. Vận chuyển hàng không được đơn giản hoá về chứng từ và thủ tục vì vận chuyển thẳng với tốc độ cao, ít qua các trạm kiểm soát, kiểm tra. Tuy có các điểm lợi nhất định so với các dạng vận chuyển mặt đất khác do các đặc điểm của vận chuyển hàng không mang lại, nhưng bên cạnh đó vận chuyển hàng không cũng có những điểm bất lợi. Trước hết, chi phí vận chuyển cao nhất so với các dạng vận chuyển khác do chí phí trang thiết bị, chi phí sân bay và cảng hàng không, chi phí khấu hao máy bay, chi phí dịch vụ cao. Vì vậy buôn bán qua đường hàng không khiến người ta phải lựa chọn 6
- những mặt hàng phù hợp. Thứ hai, vận chuyển hàng không hạn chế đối với những hàng hoá cồng kềnh, khối lượng lớn, nên cũng khiến cho lượng hàng hoá được vận chuyển qua đường hàng không ít hơn so với các dạng vận chuyển khác. Đối với Việt Nam hiện nay, vận chuyển hàng không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là công cụ quan trọng trong việc thực hiện chính sách mở cửa, và là một trong các ngành kinh tế – kỹ thuật mũi nhọn cần phải đi trước để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần quan trọng vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Với một lãnh thổ không lớn và địa hình không quá phức tạp như Việt Nam thì vận chuyển hàng không nội địa không phải là vấn đề trọng yếu. Tuy nhiên vận chuyển hàng không quốc tế có vai trò rất lớn trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, bởi Việt Nam nằm ở khu vực xa các thị trường truyền thống và các thị trường đang mong muốn hướng tới (chẳng hạn như Châu Âu, Mỹ, và Châu Phi…), cũng như đang khuyến khích đầu tư từ các nước ở xa. Không chỉ được chú trọng về mặt kinh tế, văn hoá, xã hội và hội nhập quốc tế, hàng không dân dụng ở Việt Nam còn được chú trọng bởi sự liên quan của nó tới các vấn đề chủ quyền quốc gia và an ninh lãnh thổ. Việc ngăn chặn các hành vi sử dụng không phận gây thiệt hại cho đất nước, và việc trao đổi lợi ích về việc sử dụng không phận để vận chuyển hàng không đòi hỏi phải được tính toán kỹ lưỡng từ những người thiết kế chính sách, xây dựng pháp luật cho tới những người thi hành pháp luật. Các vấn đề chung này của vận chuyển hàng không có những ảnh hưởng lớn tới việc điều tiết vận chuyển hàng không nói chung và vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không nói riêng. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không 7
- Ở trên đã nói tới hàng không dân dụng với tính cách là một ngành kinh tế - kỹ thuật, bao hàm các mục tiêu và các hoạt động liên quan trực tiếp và gián tiếp diễn ra ở đó. Việc điều tiết các hoạt động này cần phải nhờ tới các qui định của cả luật công và luật tư, luật quốc gia và luật quốc tế. Tổng thể các qui định này điều tiết các mối quan hệ sau: (1) Quan hệ giữa quốc gia này với quốc gia khác trong việc quốc gia này cho phép người (thể nhân và pháp nhân) của quốc gia khác sử dụng không phận của mình cho hoạt động hàng không, và ngược lại; (2) quan hệ giữa quốc gia và người nước ngoài liên quan tới hoạt động hàng không; (3) quan hệ giữa người của các nước khác nhau trong hoạt động hàng không; (4) quan hệ giữa nhà nước và người của nước mình liên quan tới hoạt động hàng không; và (5) quan hệ giữa người ở cùng một nước trong hoạt động hàng không. Có thể hiểu một cách đơn giản, hoạt động hàng không là các hoạt động khai thác tàu bay và các dịch vụ hỗ trợ. Trong các hoạt động này có hoạt động vận chuyển hàng không. Tuy nhiên hoạt động vận chuyển hàng không không chỉ biểu hiện về mặt pháp lý là mối quan hệ của luật tư, có nghĩa là mối quan hệ giữa các thể nhân và pháp nhân liên quan tới việc di chuyển người và đồ vật từ nơi này tới nơi khác trong không trung, mà còn biểu hiện là mối quan hệ của luật công (chẳng hạn nhà nước cho phép khai thác các thương quyền hàng không, và kiểm soát các hoạt động vận chuyển nhằm mục đích an toàn và an ninh, vận chuyển nhằm mục đích quân sự, vận chuyển nhằm mục đích cứu trợ...). Thế nhưng mối quan hệ giữa người gửi đồ vật và người vận chuyển hàng không được biểu hiện về mặt pháp lý là mối quan hệ hợp đồng. Nói cách khác, quan hệ pháp lý giữa người gửi đồ vật và người vận chuyển hàng không là quan hệ hợp đồng. Vậy hợp đồng vận chuyển đồ vật bằng đường hàng không là sự thoả thuận giữa người gửi đồ vật và người vận chuyển hàng không, theo đó người 8
- vận chuyển có nghĩa vụ vận chuyển đồ vật từ địa điểm này tới địa điểm khác, và trao đồ vật đó cho người có quyền nhận. Định nghĩa này xác định khái niệm hợp đồng vận chuyển đồ vật bằng đường hàng không với tính cách là một khái niệm rộng mà trong đó bao hàm khái niệm vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không. Vì vậy hợp đồng vận chuyển đồ vật bằng đường hàng không cần phải được phân loại để có thể hiểu một cách sâu sắc về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng được hàng không. Tuy nhiên trước tiên cần nghiên cứu đặc điểm chung của hợp đồng vận chuyển đồ vật bằng đường hàng không, bởi các phân loại hợp đồng vận chuyển đồ vật đều có thể mang đặc điểm chung này. Hợp đồng vận chuyển đồ vật là hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba. Thực chất hợp đồng được giao kết giữa người gửi đồ vật và người vận chuyển hàng không, nhưng cũng có hiệu lực đối với người nhận. Ở đây cần lưu ý rằng người nhận trên thực tế có thể là người gửi hoặc một người khác. Nhưng về mặt pháp lý, thông thường người ta xây dựng qui chế pháp lý riêng một cách tương đối cho người nhận. Do đó trong trường hợp một người vừa là người gửi, đồng thời vừa là người nhận, thì khi hành động với tư cách là người nhận, người này được áp dụng qui chế của người nhận. Đối tượng của hợp đồng vận chuyển đồ vật bằng đường hàng không là việc di chuyển đồ vật từ một nơi này tới một nơi khác bằng tàu bay. Đồ vật nói ở đây là các động sản hữu hình có kích cỡ và có thể nắm giữ với tính cách vật lý. Hợp đồng vận chuyển đồ vật bằng đường hàng không có thể được phân loại như sau: (1) Căn cứ vào tính chất có đi có lại liên quan tới lợi ích vật chất, người ta chia hợp đồng vận chuyển đồ vật bằng đường hàng không thành hợp đồng vận chuyển đồ vật được trả công (hợp đồng có đền bù) và hợp đồng vận 9
- chuyển đồ vật không được trả công (hợp đồng không có đền bù). Điều 1, Công ước Thống nhất một số qui tắc về vận chuyển hàng không quốc tế được ký kết tại Montreal ngày 28/5/1999 (Công ước Montreal) qui định phạm vi áp dụng của Công ước này như sau: “Công ước này áp dụng đối với tất cả vận chuyển quốc tế hành khách, hành lý hoặc hàng hoá bằng tàu bay để lấy tiền. Công ước cũng được áp dụng đối với vận chuyển miễn cước do doanh nghiệp vận chuyển hàng không thực hiện bằng tàu bay”. Như vậy có thể thấy phân loại hợp đồng như trên được pháp luật quốc tế chú ý tới. (2) Căn cứ vào việc vận chuyển cùng với người gửi hay không trong hợp đồng vận chuyển hàng không có đền bù, người ta phân loại hợp đồng vận chuyển đồ vật bằng đường hàng không thành hợp đồng vận chuyển hàng hoá và hợp đồng vận chuyển hành lý [28, tr. 41]. Vận chuyển hành lý thực chất là vận chuyển đồ vật, nhưng đi kèm với hành khách (người gửi đồ vật đó) trong cùng một chuyến bay. Khi nói tới hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không, mọi người thường hiểu là nói tới hợp đồng thương mại, mà trong đó hàng hoá là các động sản hữu hình. Vì vậy hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không là hợp đồng có đền bù. Bởi vậy Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 định nghĩa: “Hợp đồng vận chuyển hàng hoá là sự thoả thuận giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển, theo đó người vận chuyển có nghĩa vụ vận chuyển hàng hoá đến địa điểm đến và trả hàng hoá cho người có quyền nhận; người thuê vận chuyển có nghĩa vụ thanh toán cước phí vận chuyển” (Điều 128, khoản 1, đoạn 1). 10
- Để giải nghĩa thêm cho tính chất thương mại của hợp đồng theo định nghĩa này, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006 có qui định thêm: “Người vận chuyển là tổ chức cung cấp dịch vụ vận chuyển thương mại bằng đường hàng không” (Điều 128, khoản 1, đoạn 2). Có thể hiểu hợp đồng thương mại là hợp đồng do thương nhân giao kết và thực hiện trong khi tiến hành nghề nghiệp của mình. Vì vậy các hợp đồng thương mại thường là các hợp đồng có đền bù, bởi thương nhân là những người chuyên thực hiện các hành vi thương mại hay luôn luôn nhằm các mục tiêu lợi nhuận trong các hoạt động của mình. 1.1.3. Phân loại hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không Tới lượt mình, vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không lại được phân loại theo các cách thức khác nhau. Các cách phân loại này xuất phát từ các hoạt động thực tế của vận chuyển hàng không có tính khách quan, và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc điều tiết các hợp đồng vận chuyển hàng không [32. tr. 35]. Người ta thường nhắc tới các loại vận chuyển như: Vận chuyển hàng không quốc tế và vận chuyển hàng không nội địa; vận chuyển hàng không thường lệ và vận chuyển hàng không không thường lệ. Tất nhiên xét từ góc độ hình thức pháp lý, có các loại hợp đồng vận chuyển hàng hoá tương ứng với các loại vận chuyển nêu trên, bao gồm: hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường hàng không và hợp đồng vận chuyển hàng hoá nội địa bằng đường hàng không; hợp đồng vận chuyển hàng hoá thường lệ bằng đường hàng không và hợp đồng vận chuyển hàng hoá không thường lệ bằng đường hàng không [31, tr. 431]. Tuy nhiên hợp đồng là hình thức pháp lý của các hoạt động vận chuyển này, do đó khi nói về các qui chế pháp lý tương ứng với các loại hợp đồng vận chuyển này, người ta thường chỉ nhắc tới tên của các dạng hoạt động vận chuyển như vậy. 11
- 1.1.3.1. Vận chuyển hàng hoá quốc tế và vận chuyển hàng hoá nội địa Vận chuyển hàng không có khuynh hướng quốc tế ngay từ khi mới xuất hiện, bởi tốc độ của tàu bay và sự chật hẹp của lãnh thổ quốc gia. Vận chuyển hàng không nội địa tuy nhiên cũng có vai trò rất quan trọng ở các nước có lãnh thổ rộng lớn (như Nga, Canada, Hoa Kỳ, Trung Quốc…), hoặc ở những nước có địa hình tương đối phức tạp (như Phillipines, Indonesia…). Vận chuyển hàng không quốc tế liên quan đến chủ quyền quốc gia về vùng trời, và vấp phải rào cản về sự khác biệt về pháp luật ở mỗi nước mà tàu bay đi qua. Chính vì vậy nó đòi hỏi phải có một qui chế pháp lý thống nhất ở các quốc gia cho hoạt động này nhằm đáp ứng cho việc vận chuyển nhanh chóng, an toàn và thuận tiện. Và như vậy mỗi nước hầu như có hai qui chế pháp lý tương ứng cho vận chuyển hàng không quốc tế và vận chuyển hàng không nội địa [29, tr. 21]. Vận chuyển hàng không quốc tế thường được điều tiết bởi các điều ước quốc tế mà hầu hết các quốc gia trên thế giới là thành viên, và tại đó có xác định thế nào là vận chuyển hàng không quốc tế. Công ước Montreal 1999 có định nghĩa: “Nhằm mục đích của Công ước này, vận chuyển hàng không quốc tế là bất kỳ việc vận chuyển nào mà theo sự thoả thuận giữa các bên, nơi đi và nơi đến, không phụ thuộc vào việc bị gián đoạn vận chuyển hay vận tải, nằm trong phạm vi lãnh thổ của hai Quốc gia thành viên hoặc nằm trong phạm vi lãnh thổ của một Quốc gia thành viên, nếu có một nơi dừng thoả thuận nằm trong lãnh thổ của một Quốc gia khác, dù Quốc gia đó không phải là Quốc gia thành viên. Vận chuyển giữa hai điểm trong phạm vi lãnh thổ của một Quốc gia thành viên mà không có một nơi dừng thoả thuận trong lãnh thổ của một Quốc gia khác không phải là vận chuyển quốc tế đối với mục đích của Công ước này” (Điều 1, khoản 2). 12
- Như vậy hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường hàng không là hợp đồng được giao kết giữa người gửi hàng hoá và người vận chuyển mà trong đó tàu bay lấy hàng hoá từ lãnh thổ của quốc gia này bỏ xuống lãnh thổ của quốc gia khác, hoặc nơi lấy hàng hoá và trả hàng hoá đều nằm trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia nhưng các bên có thoả thuận có một điểm dừng vận chuyển trong lãnh thổ của một quốc gia khác, dù có hay không gián đoạn vận chuyển hoặc chuyển tải. Ngoài hợp đồng vận chuyển hàng hoá có các yếu tố đó, có thể hiểu là hợp đồng vận chuyển hàng hoá nội địa bằng đường hàng không. Trong lĩnh vực vận chuyển hàng không quốc tế như trên đã nói liên quan tới chủ quyền của quốc gia khác, do đó người vận chuyển hàng không bị giới hạn bởi các thương quyền hàng không hay các quyền tự do không trung. Các thương quyền này có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh vận chuyển hàng không. Thương quyền chính là quyền vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hoá, và bưu kiện riêng biệt hoặc kết hợp từ địa điểm ở lãnh thổ của quốc gia này đến địa điểm ở lãnh thổ của quốc gia khác. Theo Công ước Chicago 1944 và hai Hiệp định bổ sung cho Công ước là Hiệp định về các chuyến bay quá cảnh quốc tế và Hiệp định về vận tải hàng không quốc tế, thương quyền hàng không được chia thành năm loại như sau: Thương quyền 1: Quyền bay qua lãnh thổ của Quốc gia khác không hạ cánh. Thương quyền 2: Quyền hạ cánh xuống lãnh thổ của một quốc gia khác không nhằm mục đích vận chuyển thương mại (hạ cánh có tính cách kỹ thuật để tiếp nhiên liệu, vệ sinh máy bay, thay đổi phi hành đoàn…). Thương quyền 3: Quyền vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hoá, và bưu kiện từ lãnh thổ của Quốc gia mà tàu bay mang quốc tịch đến lãnh thổ của Quốc gia khác. 13
- Thương quyền 4: Quyền vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hoá, và bưu kiện từ lãnh thổ của quốc gia khác đến lãnh thổ của quốc gia mà tàu bay mang quốc tịch. Thương quyền 5: Quyền vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hoá, và bưu kiện giữa các quốc gia ký kết khác và quốc gia thứ ba. Hai thương quyền đầu (thương quyền 1 và thương quyền 2) là các quyền có tính chất kỹ thuật làm cơ sở cho giao lưu hàng không quốc tế. Ba thương quyền sau là các quyền có tính chất thương mại, có nghĩa là có chúng thì mới có vận chuyển hàng không quốc tế [22, tr. 91- 92]. Trên cơ sở năm thương quyền trên, quyền vận chuyển thương mại của các hãng hàng không còn có sự kết hợp giữa thương quyền 3 và 4 để tạo nên thương quyền 6. Nếu ở thương quyền 5, hãng hàng không thực hiện quyền tự do để vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hoá, và bưu kiện giữa hai quốc gia với điều kiện phải có điểm đến hoặc điểm đi tại lãnh thổ quốc gia mà hãng hàng không mang quốc tịch, thì thương quyền 7 là quyền tự do chuyên chở giữa hai quốc gia mà không có liên hệ với quốc gia mà hãng hàng không mang quốc tịch [25, tr. 216- 217]. Việc quy định các thương quyền kể trên chủ yếu là vì lý do an ninh quốc phòng và vấn đề kinh tế. Các quốc gia đều có chủ quyền đối với khoảng không gian bao trùm trên lãnh thổ của mình nên có toàn quyền trong việc ấn định ra các giới hạn về thực hiện các thương quyền. Nhưng vấn đề là cần phải xem xét và cân đối giữa việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích giao lưu quốc tế về vận tải hàng không thương mại. Vì vậy trong giao lưu hàng không quốc tế, các quốc gia thường cho lẫn nhau các thương quyền trên nguyên tắc có đi có lại thông qua hiệp định hàng không song phương ký kết giữa các quốc gia này. 14
- Các hiệp định hàng không song phương thường có khuynh hướng kiểm soát chặt chẽ các vấn đề liên quan tới địa điểm đi và đến trong vận chuyển hàng không, chỉ định hàng hàng không, tần suất các chuyến bay, năng lực chuyên chở của tàu bay và giá cước để bảo đảm cho nguyên tắc bình đẳng về cơ hội khai thác vận chuyển cho các hãng hàng không của hai quốc gia cho lẫn nhau các thương quyền thông qua hiệp định. Như vậy nó có các tác động nhất định tới hợp đồng vận chuyển hàng không. Đối với vận chuyển nội địa, có nước thiết lập chính sách độc quyền vận chuyển hàng không, và có nước thiết lập chính sách cạnh tranh trong vận chuyển hàng không. Nhưng dù có chính sách cạnh tranh, thì việc phân phối các thương quyền vận chuyển trong nội địa và kiểm soát cạnh tranh để bảo đảm đỡ gây tốn kém cho xã hội vẫn luôn được đặt ra. Điều đó cũng có tác động tới vận chuyển hàng không. 1.1.3.2. Vận chuyển thường lệ và vận chuyển không thường lệ Vận chuyển thường lệ và vận chuyển không thường lệ liên quan tới khái niệm chuyến bay thường lệ và chuyến bay không thường lệ, bởi các chuyến bay này có thể thực hiện việc vận chuyển. Trong tiếng Anh người ta thường dùng thuật ngữ như “scheduled and non- scheduled air services” hoặc “scheduled and non- schedulel air traffic”. Đôi khi cách gọi “scheduled and non- scheduled flights” cũng được sử dụng [22. tr. 85]. Ngày 28/3/1952, ICAO đã thông qua định nghĩa về chuyến bay quốc tế thường lệ (được ghi nhận trong ICAO Doc. 7278- C -841) như sau: “Chuyến bay quốc tế thường lệ là một loạt các chuyến bay mà có tất cả các đặc tính sau: a. Thực hiện qua khoảng không trên lãnh thổ của nhiều quốc gia; 15
- b. Được thực hiện bởi tàu bay vận chuyển hành khách, bưu kiện hoặc hàng hoá nhằm mục đích thu lợi mà mỗi chuyến bay được mở ra cho công chúng sử dụng; c. Được khai thác để dịch vụ giao thông giữa hai hay nhiều điểm, hoặc i. Phù hợp với một lịch bay đã được công bố, hoặc ii. Với các chuyến bay đều đặn hoặc thường xuyên mà tạo thành một loạt các chuyến bay có hệ thống có thể được thừa nhận”. Thực ra đây là một định nghĩa khái niệm còn nhiều điểm chưa rõ. Vì vậy một số quốc gia đã liệt kê những chuyến bay nào mà họ cho là chuyến bay không thường lệ như: chuyến bay vì các nguyên nhân khẩn cấp, vì mục đích nhân đạo, bay taxi, thuê chuyến..., nhưng với điều kiện là các chuyến bay đó không thường xuyên, đều đặn [22. tr. 86- 87]. Từ việc phân loại này, có thể thấy hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không có thể được thực hiện bằng các chuyến bay thuê chuyến hoặc các chuyến bay thường lệ. Do vậy nội dung của hai loại hợp đồng này có thể khác nhau. 1.2. Giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không Bộ luật Dân sự 2005 đã đưa ra một quan niệm rất rộng về giao kết hợp đồng được thể hiện tại Mục 7, Chương XVII (các Điều từ 388 tới 411). Theo các điều luật này giao kết hợp đồng bao gồm các vấn đề liên quan tới đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng, hình thức hợp đồng, nội dung của hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và hợp đồng vô hiệu, phân loại hợp đồng, và giải thích hợp đồng. Tuy nhiên có thể hiểu giao kết hợp đồng là một quá trình thể hiện và thống nhất ý chí của các bên làm phát sinh ra quyền và nghĩa vụ liên quan. Vì vậy giao kết hợp đồng, khi nghiên cứu, ít nhất phải đề cập tới 16
- việc thể hiện đề nghị và chấp nhận, hình thức của sự thoả thuận, nội dung chủ yếu của sự thoả thuận, và điều kiện có hiệu lực của sự thoả thuận. 1.2.1. Đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không Giống như các chủng loại hợp đồng khác, hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không cũng có khởi đầu bằng việc một bên đề nghị giao kết hợp đồng để mong muốn được bên kia chấp nhận. Tuy nhiên việc phân biệt ai là người đưa ra đề nghị và ai là người chấp nhận trong mối quan hệ giữa người gửi hàng hoá và người vận chuyển thì không phải là không có tranh luận. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện ý định giao kết hợp đồng ra bên ngoài và với một số điều kiện nhất định để khi người được đề nghị chấp nhận, thì hợp đồng được thiết lập. Bộ luật Dân sự 2005 định nghĩa: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể” (Điều 390, khoản 1). Tuy nhiên đối với vận chuyển hàng hoá thông qua thuê chuyến (bay không thường lệ) thì khó có thể xác định ai là người đưa ra đề nghị và ai là người chấp nhận, bởi hợp đồng vận chuyển trong trường hợp này là hợp đồng ưng thuận. Các bên đàm phán với nhau, có nghĩa là mỗi trong các bên liên tục đưa ra đề nghị và chấp nhận cho tới khi thoả thuận hoàn tất và ký kết. Trong khi đó đối với vận chuyển hàng hoá không thông qua thuê chuyến thì hợp đồng vận chuyển liên quan được xem là hợp đồng gia nhập. Như vậy có thể thấy, bên gửi hàng là người đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng, và người vận chuyển là người chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, mặc dù người vận chuyển có đưa ra lời mời chào cho việc gửi hàng thì điều đó chỉ được xem là lời mời đàm phán với tính cách là một nghệ thuật kinh doanh. Người vận chuyển có quyền từ chối vận chuyển hàng hoá, do vậy người vận chuyển 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn