Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở nước ta hiện nay
lượt xem 8
download
Mục tiêu của đề tài là làm rõ về cơ sở lý luận về hoạt động xét xử các vụ án hành chính; nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung hoạt động xét xử các vụ án hành chính và tính ưu việt của nó với các cơ chế giải quyết khiếu nại khác. Đồng thời, qua đó chỉ ra những mặt còn hạn chế đến hiệu quả cũng như chất lượng của hoạt động xét xử các vụ án hành chính tại Toà án; đề xuất các phương hướng nhằm nâng cao chất lượng giải quyết những khó khăn vướng mắc trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở nước ta hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HỒNG BÁCH MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - NĂM 2006 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT 1
- Mục lục Lời cam kết Mục lục Bảng chữ viết tắt Phần mở đầu .................................................................................................. 1 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH. 1.1 Hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở Việt nam một tất yếu lịch sử ........................................................................................... 7 1.2. Khái niệm về hoạt động xét xử các vụ án hành chính ........................... 17 1.3. Đối tượng của hoạt động xét xử các vụ án hành chính .......................... 21 1.4. Những nguyên tắc trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính .......... 24 1.5. Đặc điểm của hoạt động xét xử các vụ án hành chính ........................... 28 1.6. Lược sử về hoạt động xét xử các vụ án đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam ... 31 1.7. Một số kinh nghiệm giải quyết các khiếu kiện hành chính trên thế giới .................................................................................................. 35 Chương 2 THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH. 2.1. Quy định của pháp luật về hoạt động xét xử các vụ án hành chính....... 45 2.1.1. Xem xét việc khởi kiện, khởi tố và thụ lý vụ án hành chính .............. 45 2.1.2. Xét xử vụ án hành chính ..................................................................... 66 4
- 2.2. Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính .................................................. 80 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM . 3.1. Quan điểm về hoàn thiện hoạt động xét xử các vụ án hành chính ........ 87 3.2. Phương hướng hoàn thiện ...................................................................... 89 Kết luận ........................................................................................................ 97 5
- BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TW Trung ương UBND Uỷ ban nhân dân CHXHCN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa GQKN Giải quyết khiếu nại GS, PGS. Giáo sư, Phó giáo sư LKNTC Luật Khiếu nại, tố cáo đã được sửa đổi bổ sung năm 2004, năm 2005 PLTTGQCVAHC Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi bổ sung năm 1998, năm 2006 TAND Toà án nhân dân TANDTC Toà án nhân dân tối cao TCN Trước Công nguyên Tp. Thành phố tr. Trang TS. Tiến sỹ PLXPVPHC Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính XHCN Xã hội chủ nghĩa 6
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Quyền khiếu nại là một trong những nội dung cơ bản của quyền công dân trong các Nhà nước đương đại. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân thì quyền khiếu nại của công dân càng được nhà nước, xã hội quan tâm và tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền này. Đảm bảo quyền khiếu nại của công dân là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu này được thể hiện ở nhiều mặt, nhưng cơ bản và quan trọng nhất là cơ chế pháp lý và hệ thống cơ quan nhà nước tham gia vào quá trình thực hiện yêu cầu này. Lịch sử hình thành và phát triển Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đến nay là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với việc thực hiện quyền khiếu nại của công dân. Xét xử các vụ án hành chính tại Toà án nhân dân đánh dấu một bước phát triển, thay đổi mạnh mẽ trong việc đảm bảo quyền khiếu nại, đảm bảo sự tham gia vào quá trình quản lý nhà nước của nhân dân. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của Nhà nước Việt nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hoạt động xét xử các vụ án hành chính tại Toà án trong 10 năm qua đã có nhiều đóng góp tích cực vào công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách tư pháp, công cuộc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những kết quả đạt được cũng nẩy sinh nhiều hạn chế, bất hợp lý ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu kiện hành chính của Toà án. 7
- Cải cách hành chính quốc gia, cải cách nền tư pháp, hoàn thiện pháp luật trong là những nội dung quan trọng trong quá trình hoàn thiện Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bối cảnh đất nước thay đổi mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực, tích cực tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đánh giá đúng thực tiễn hoạt động xét xử và các nhân tố tác động tới hoạt động này của Toà án từ đó có những định hướng cụ thể phát huy được vai trò tích cực của quyền tư pháp đối với công cuộc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền là những vấn đề cần phải được quan tâm nghiên cứu. Với những lí do đó, chúng tôi lựa chọn "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng một Nhà nước pháp quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã đặt ra nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu giải quyết. Trong đó, việc nghiên cứu các quy định, cơ chế giải quyết khiếu nại, tố các công dân đối với nhà nước đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, luật gia trong và ngoài nước. Một số công trình khoa học liên quan đến tổ chức hoạt động xét xử của Toà án hành chính đã được công bố như: - Thanh tra nhà nước: Đề tài khoa học (cấp nhà nước) "Toà án hành chính, những vấn đề lý luận và thực tiễn" mã số 95 - 98 - 406/ DT năm 1997. - Học viện hành chính quốc gia "Thiết lập tư pháp hành chính ở nước ta" NXB giáo dục 1995. - Đinh Văn Minh "Tài phán hành chính so sánh" Nhà xuất bản chính trị quốc gia H. 1995. - Nguyễn Thanh Bình "Tìm hiểu pháp luật tố tụng hành chính" Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1997. 8
- Tuy nhiên, mỗi công trình khoa học nghiên cứu, đề cập đến hoạt động xét xử các vụ án hành chính của Toà án nhân dân ở các khía cạnh, góc độ khác nhau. Xuất phát từ công tác thực tiễn trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính, tác giả lựa chọn nội dung trên làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học mong muốn nghiên cứu một cách hệ thống từ góc độ lý luận và thực tiễn phong phú để từ đó có những kiến nghị mang tính khoa học, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử các vụ án hành chính tại Toà án nhân dân. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu luận văn. Qua 10 năm Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được thực hiện, hoạt động xét xử các vụ án hành chính đã có những tác dụng cụ thể nhất là có tác động mạnh mẽ đến ý thức của các cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, góp phần tích cực đáp ứng với những đòi hỏi của xã hội, với những mục tiêu được đặt ra khi thành lập Toà án hành chính. Xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi về xây dựng một xã hội, một nhà nước thực sự dân chủ đang đặt ra nhiều câu hỏi về tính thực tiễn của mô hình Toà án hành chính Việt Nam hiện nay. Từ tình hình thực tiễn như vậy, luận văn với đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở nước ta hiện nay” nhằm các mục đích sau: Một là, làm rõ về cơ sở lý luận về hoạt động xét xử các vụ án hành chính. Hai là, nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung hoạt động xét xử các vụ án hành chính và tính ưu việt của nó với các cơ chế giải quyết khiếu nại khác. Đồng thời, qua đó chỉ ra những mặt còn hạn chế đến hiệu quả cũng như chất lượng của hoạt động xét xử các vụ án hành chính tại Toà án. 9
- Ba là, đề xuất các phương hướng nhằm nâng cao chất lượng giải quyết những khó khăn vướng mắc trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính hiện nay. Để thực hiện các mục đích nêu trên, phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống cơ sở lý luận, các quan điểm khoa học, nhận thức chung về hoạt động xét xử của Toà án đối với các vụ án hành chính trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Từ đó đối chiếu với thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án hành chính trong 10 năm qua tại Toà án nhân dân các cấp trong cả nước, đặc biệt tập trung vào hoạt động xét xử các vụ án hành chính tại Toà án nhân dân thành phố Hà nội, một trong những Toà án tiêu biểu về xét xử các vụ án hành chính ở nước ta hiện nay, để thấy được những vướng mắc, khó khăn về mặt pháp lý cũng như các yếu tố khác trực tiếp tác động đến hoạt động xét xử của Toà án. Tuy nhiên, do năng lực còn hạn chế, nội dung hoạt động xét xử các vụ án hành chính là nội dung lớn gồm nhiều vấn đề khác nhau, tác giả lựa chọn những nội dung có tính chất cơ bản nhất, quan trọng nhất để nghiên cứu trong luận văn của mình bao gồm: hoạt động thụ lý vụ án hành chính; xét xử vụ án hành chính. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu -Phương pháp luận. Tác giả sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Triết học Mác - Lê Nin, các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về nhà nước và pháp luật liên quan đến vai trò của nhà nước, pháp luật đến quyền con người, bảo vệ quyền con người, về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về Toà án nhân dân với việc bảo đảm quyền con người, dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền để thực hiện luận văn. 10
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu bổ trợ sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp. Đây là phương pháp được áp dụng phổ biến trong các phần, các nội dung của luận văn như nêu và phân tích các quan điểm, quan niệm về một số vấn đề. Rút ra các yếu tố, các bộ phận có mối liên hệ mật thiết với nhau để xác lập một quan điểm, một vấn đề gồm các yếu tố cần và đủ cho một kết luận, một quan niệm mới đầy đủ hơn. - Phương pháp so sánh. Phương pháp này được sử dụng để nhằm tìm ra các điểm chung, các nét đặc trưng của các vấn đề, các hiện tượng hoặc cùng một hiện tượng nhưng cần phải so sánh trong các giai đoạn (thời gian) khác nhau hay trong những không gian khác nhau để rút ra các điểm tích cực tiến bộ. - Phương pháp lịch sử. Là phương pháp nghiên cứu một vấn đề trong quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển gắn các giai đoạn, các mốc thời gian. - Phương pháp thống kê. Là ghi chép, cập nhật các số liệu, các thông tin, sự kiện. Phương pháp này, được áp dụng cho những vấn đề cần được chứng minh, minh hoạ từ các số liệu, sự kiện có độ chính xác tin cậy cao. 5. Những nội dung cơ bản của luận văn Luận văn nêu lên những hệ luận quan trọng của việc cần thiết và tất yếu trong việc xác lập hoạt động xét xử của Toà án đối với các vụ án hành chính; qua đó chứng minh quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước về việc thiết lập một cơ chế đảm bảo quyền khiếu nại, đảm bảo quyền lợi ích, hợp pháp của công dân nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước trong giai đoạn mới. 11
- Luận văn bước đầu trình bầy, đánh giá thực trạng của hoạt động xét xử của Toà án đối với các vụ án hành chính qua đó khẳng định những nội dung tích cực cũng như chỉ ra được những khó khăn bất cập, thiếu tính hợp lý đặc biệt trong vấn đề về pháp luật, áp dụng pháp luật của Toà án khi tiến hành hoạt động xét xử. Luận văn cũng đưa ra những kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xét xử của Toà án, hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này, hoàn thiện môi trường pháp luật nói chung để nhằm đảm bảo cho Toà án thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ, chức năng của mình trong bộ máy nhà nước. 6. Bố cục của luận văn. Luận văn được trình bày thành các phần theo bố cục sau: - Lời cam kết. - Mục lục. - Bảng chữ viết tắt - Phần mở đầu. - Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động xét xử các vụ án hành chính. - Chương 2: Thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án hành chính. - Chương 3: Phương hướng hoàn thiện hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở Việt Nam - Kết luận. - Danh mục tài liệu tham khảo. 12
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH 1.1 Hoạt động xét xử các vụ án hành chính ở Việt nam - một tất yếu lịch sử. Mong muốn xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, tự do, bác ái thể hiện sự khao khát về một xã hội tốt đẹp của con người là mục tiêu, động lực của người dân lao động chân chính trong suốt chặng đường lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của nhà nước và pháp luật. Con người và quyền con người là những giá trị cao quý nhất, là mục tiêu của các cuộc cách mạng và những tư tưởng tiến bộ vì con người. Cùng với việc đấu tranh đòi quyền con người thì bảo vệ quyền con người đã đạt được cũng là những nhiệm vụ to lớn của xã hội tiến bộ. Đó là những dấu hiệu đặc trưng thể hiện bản chất của các nhà nước tiến bộ. Do vậy, "sự không hiểu biết, sự lãng quên hay coi thường quyền con người, là những nguyên nhân duy nhất của những nỗi bất hạnh chung của tệ hủ bại của các chính phủ".[40, tr.13] Các tư tưởng về quyền con người, bảo vệ quyền con người được hình thành từ rất sớm trong lịch sử phát triển của loài người. Các quyền tự nhiên là tài sản của tất cả mọi người và ở mọi thời đại. Thời kỳ cổ đại, thị dân ở một số thành phố Ai Cập đã được có các quyền như quyền tự do ngôn luận, quyền 13
- bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật. Những quyền này ngày nay được gọi là các quyền cơ bản của con người. Montesquieu lập luận "quyền" đồng nhất với "tự do", đồng nhất ý niệm "quyền của nhân dân" với "tự do của nhân dân". Ông cho rằng "Trong một nước có luật pháp, tự do chỉ có thể được làm những cái nên làm và không bị ép buộc điều không nên làm" và “tự do” là quyền được làm tất cả những gì luật cho phép"[30, tr.105]. Từ quan niệm chung về quyền, về tự do như vậy, Montesquieu đã đưa ra khái niệm tự do của người công dân và sự cần thiết bảo đảm cho tự do là "Tự do, với ý nghĩa triết học là thực hiện ý chí của mình, hoặc ít ra là được nói lên quan niệm về thực hiện ý chí ấy”. “Tự do chính trị bao hàm trong sự an ninh, hoặc ít ra quan niệm về sự an ninh" [ 30, tr.127]. Do vậy, “khi người công dân vô tội không được đảm bảo an ninh thì không còn tự do nữa”. [30, tr.128] Các tư tưởng về quyền con người ngày càng được hoàn thiện và được long trọng ghi nhận trong các bản tuyên ngôn, Hiến pháp của các Quốc gia trên thế giới: "Tuyên ngôn độc lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776); Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789); Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (1945); Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948) và Tuyên bố về nhân quyền Teheran (1968). Quyền con người là giá trị nhân văn cao quý mà phải trải qua đấu tranh cách mạng lâu dài mới có thể đạt được, đó là tài sản chung vô giá của nhân loại và mỗi quốc gia. Do vậy, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân là nhiệm vụ chung của xã hội, quốc gia, nhà nước hiện đại và tiến bộ. Nội dung tiến bộ, mang tính nhân văn sâu sắc trên đã trở thành một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Bảo vệ quyền con người, bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện, được tôn trọng không chỉ là việc nhà nước xây dựng các thiết chế để xử lý các 14
- vi phạm pháp luật xâm phạm đến quyền con người của cá nhân, tổ chức trong xã hội mà còn bao hàm cả việc xem xét đánh giá tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của các thể chế nhà nước. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân luôn giữ một vị trí quan trọng trong chế định quyền lợi cơ bản của công dân, được nhìn nhận như là một trong cơ sở, biểu hiện để thực hiện hoá quyền và nghĩa vụ khác của công dân. Mở rộng và bảo đảm quyền, khiếu nại của công dân chính là mở rộng và củng cố các điều kiện cần thiết, bảo đảm cho công dân thực hiện trọn vẹn quyền và nghĩa vụ của mình trong đời sống xã hội. Đó là sự phản ánh một cách khách quan, đầy đủ và hiện thực về một nền dân chủ. Theo cách hiểu khác, đây chính là thước đo giá trị nền dân chủ của nhà nước. Công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo trong đời sống chính trị là một trong biểu hiện cụ thể của dân chủ trực tiếp, thông qua đó nhân dân trực tiếp giám sát và tham gia vào hoạt động quản lý của Bộ máy nhà nước. Thông qua quyền khiếu nại, tố cáo công dân có thể bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của mình khỏi bị xâm hại với các hành vi quản lý trái pháp luật. Quyền khiếu nại, tố cáo là quyền rất quan trọng, nó là phương tiện đấu tranh bảo đảm cho các quyền khác của công dân được thực hiện không có quyền khiếu nại, không có quyền tố cáo thì quyền khác cứ thế trở thành vô nghĩa. Đồng thời với việc ghi nhận về mặt pháp lý, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân cũng cần phải có hệ thống các bảo đảm cần thiết để các quyền này có thể hiện thực hoá trong cuộc sống là những nội dung quan trọng của quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội nói chung và dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì quyền công dân không thể cao hơn thực trạng kinh tế và trình độ văn minh xã hội. Vì vậy, khi xem 15
- xét về quyền khiếu nại của công dân nhất thiết phải xem xét trong mối quan hệ với hạ tầng cơ sở của nhà nước đó. Một nền kinh tế phát triển sẽ làm triệt tiêu những nguyên nhân dẫn đến vi phạm - lý do để công dân khiếu nại, tố cáo. Mặt khác, nền kinh tế đó sẽ tạo ra điều kiện cần và đủ để thành lập cơ chế, thủ tục, bộ máy, trang thiết bị vật chất để xem xét một cách triệt để đối với mọi khiếu nại, tố cáo của công dân. Nhà nước dân chủ và công dân của một xã hội công dân có mối quan hệ biện chứng, nhân dân là nguồn gốc của mọi quyền lực, lợi ích và ý chí của nhân dân là tối cao, Nhà nước là tổ chức quyền lực từ nhân dân mà ra, đại diện cho lợi ích và ý chí của nhân dân. Dân tổ chức ra Nhà nước để Nhà nước cai trị dân, Nhà nước cai trị dân nhưng lại bị nhân dân giám sát. Giữa nhà nước và pháp quyền cũng có mối quan hệ biện chứng. Nhà nước tất yếu mang tính pháp quyền, là hiện thân của pháp quyền. Một nhà nước là Nhà nước pháp quyền chỉ khi nào nhà nước đó tự đặt dưới hiến pháp và hoạt động theo pháp luật. Vì quản lý xã hội bằng pháp luật, cho nên nhà nước là chủ thể, vừa là đối tượng của pháp luật. Một nhà nước như vậy chỉ có thể là một nhà nước dân chủ. Để xây dựng một xã hội công dân, một nhà nước dân chủ một Nhà nước pháp quyền nhất thiết phải có yếu tố quyền của công dân đối với nhà nước xét dưới góc độ pháp luật. Đứng trong mối quan hệ về hạn chế quyền lực nhà nước, tư pháp được đặt vào vị trí độc nhất để hỗ trợ cho sự phát triển lâu bền bằng cách giữ cho các nhánh quyền lực phải chịu trách nhiệm về những hoạt động của họ. Montesquieu cho rằng " Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán đối với quyền sống và quyền tự do của công dân, quan toà sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư 16
- pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan toà có sức mạnh của kẻ đàn áp”. [30, tr.106]. Trong Nhà nước pháp quyền đòi hỏi đầu tiên đối với cơ chế phân quyền của các cơ quan nhà nước phải đảm bảo Quốc hội có quyền lập pháp, Chính phủ có quyền hành pháp. Quốc hội và Chính phủ phải hoạt động trong phạm vi khuôn khổ của Hiến pháp. “Vấn đề đặt ra là phải có sự kiểm tra, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp của cơ quan hành pháp” [32, tr.622]. Trong việc kiểm soát tính hợp pháp của hành pháp ban đầu người ta giao cho ngành lập pháp. "Song chẳng bao lâu sau đó người ta phát hiện ra rằng ngành tư pháp có thể thực hiện có thể thực hiện nhiệm vụ này tốt hơn nhiều [32, tr.126]. Ngày nay, Nhà nước pháp quyền không còn đặc trưng ở chức năng lập pháp như trước, mà ở sự phát triển các thủ tục pháp lý nhằm bảo vệ pháp luật trước sự tuỳ tiện của lập pháp và hành pháp. Theo A.Bleckmann - GS. luật công của Đại học tổng hợp Tubingen - Cộng hoà liên bang Đức thì: Toà án là công cụ đặc thù của Nhà nước pháp quyền, được sử dụng để bảo vệ lợi ích chung. Trong hoạt động của cơ quan tư pháp, nguyên tắc dân chủ được coi trọng. Theo ông, điều đó có nghĩa là, nếu như trong quá trình dân chủ thấy rõ không có sự đánh giá công bằng về các lợi ích của cá nhân được bảo vệ bằng các quyền cơ bản về giai cấp và xã hội thì Thẩm phán cần phải tuân thủ nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền cho dù điều đó trái với ý chí chính trị của đa số. [49, tr.64] Để có một sự phán xử vô tư công bằng, Toà án trước hết phải độc lập ở mọi phương diện. Trong tất cả các yếu tố khiến cho tư pháp có thể duy trì được tính độc lập và tính cương quyết của mình, nhiệm kỳ thuận tiện cho các Thẩm phán là một yếu tố quan trọng, và chúng ta có thể coi yếu tố đó là một trong những thành trì bảo vệ công lý và an ninh cho công chúng. [32, tr.217]. Chính những hoạt động độc lập chỉ tuân theo pháp luật của các Thẩm phán 17
- nhằm mục đích bảo đảm quyền con người của mọi công dân, quyền bình đẳng của con người trước pháp luật. Trong hoạt động xét xử của mình, các Thẩm phán phải tuân theo các nguyên tắc nhất định được gọi là nguyên tắc xét xử. Sự tuân thủ quy tắc xét xử cũng là nhằm để bảo vệ quyền con người của công dân, tránh mọi sự lợi dụng quyền lực của chính các Thẩm phán cũng như để cho chính các Thẩm phán tránh được mọi áp lực từ phía các cơ quan chức năng của nhà nước. Định chế Toà án là một cơ cấu đặc biệt trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Đó vừa là cơ quan được hưởng quy chế phân quyền, vừa có tính độc lập tương đối so với cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. Tính độc lập xuất phát từ nhu cầu thực hiện chức năng xét xử trong Nhà nước pháp quyền. Tuỳ thuộc nhiều vào niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp, định chế Toà án cung cấp cho xã hội một phương pháp xác định sự thật và sự công bằng trong các hành động của nhà nước. Chỉ có Toà án mới có quyền chính thức phán quyết sự hợp pháp của những hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng hành pháp và lập pháp. Việc quyết định cho tư pháp có quyền xét xử lại hành vi, quyết định của chính bộ phận các cơ quan nhà nước là bước tiến vượt bậc của dân chủ và văn minh nhân loại. Toà án xét xử tranh chấp hành chính giữa cá nhân, tổ chức với người có thẩm quyền, cơ quan nhà nước được gọi là tư pháp hành chính. Đó là loại thủ tục phức tạp nhưng có khả năng bảo đảm pháp chế, bảo đảm dân chủ cao hơn so với các hình thức khác. Đây cũng được coi là một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền. Tính pháp lý phức tạp thể hiện ở chỗ phải do cơ quan lập pháp đặt ra quy định những việc mà Toà án phải thực hiện có tích chất pháp lý chặt chẽ. Chỉ có cơ quan lập pháp mới có quyền bãi bỏ, sửa đổi những quy định thủ tục trên. Tính phức tạp của thủ tục pháp lý được đặt ra là nhằm buộc Toà án khi xét xử tranh chấp hành chính phải tuân theo 18
- nhằm khắc phục hạn chế của hoạt động giải quyết khiếu nại theo cấp hành chính - hoạt động mang tích chất của một hoạt động quản lý với một trình tự gần như thủ tục hành chính, trong đó chứa đựng tính bất bình đẳng giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại trong quá trình giải quyết vụ việc, thể hiện sự áp đặt đơn phương một chiều ngay trong các quyết định giải quyết khiếu nại. Thủ tục pháp lý chặt chẽ và phức tạp này được gọi là trình tự tố tụng tại Toà án. Tính chặt chẽ và phức tạp của trình tự tố tụng đảm bảo sự cân bằng và bình đẳng giữa các công dân và các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình giải quyết vụ kiện, bảo đảm cho các bên có thể đưa ra tất cả những chứng cứ, lý lẽ mà họ cho là cần thiết, phản bác lại lý lẽ của bên kia để bảo vệ cho các yêu cầu đòi hỏi của mình. Mặt khác, thực hiện trình tự tố tụng này cũng tạo ra một quá trình nghiên cứu xem xét kỹ lưỡng, khẩn trương nhưng hết sức thận trọng của Toà án nhằm đưa ra được các bản án, quyết định đúng đắn và có tính thuyết phục cao. Thủ tục tố tụng chính là cơ sở tạo ra các điều kiện đảm bảo tính hiệu quả cho hoạt động xét xử của Toà án đồng thời là sự bảo đảm quan trọng về mặt thực tiễn cho mục đích và ý nghĩa của sự hiện hữu hệ thống Toà án hành chính. Với cách lập luận như vậy, có thể khẳng định chắc rằng giải quyết khiếu nại của cá nhân tổ chức theo con đường Toà án là cách thức bảo đảm pháp chế ở mức độ cao nhất, có khả năng bảo vệ cao nhất quyền cá nhân, tổ chức. Nó là cách thức giải quyết khiếu nại, tố cáo cao hơn cách thức giải quyết khiếu nại theo con đường hành chính nhà nước. Quan niệm không có bất cứ hành vi xâm phạm đến quyền con người không bị xem xét thể hiện một sự phát triển vượt bậc trong tư tưởng về quyền và bảo vệ quyền con người. Với những luận điểm tiến bộ đó, ở các nước Tư bản chủ nghĩa, hệ thống Toà án được hình thành, vận động phần nào đã đáp ứng với đòi hỏi về bảo đảm, bảo vệ quyền con người. 19
- Kế thừa và phát triển các giá trị tư tưởng của loài người về tự do, về nhân quyền, về vai trò của Nhà nước trong đó Toà án là một thiết chế quan trọng, tiêu biểu về bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền tự do, quyền tài sản của công dân, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã xác định vị trí trung tâm của con người, coi con người vừa là mục đích vừa là trung tâm của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sứ mệnh vinh quang và cao cả của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người khỏi chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội con người vì con người, bình đẳng, bác ái. Tự do của mỗi người là điều kiện cho tự do của xã hội. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác-Ăngen chỉ rõ "Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người sẽ là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [44, tr.628]. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa cũng luôn đề cao giá trị tự do, bình đẳng, các giá trị cao quý về quyền con người, lấy quyền con người, tự do, bình đẳng là mục đích phục vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước là kết quả tự tổ chức lấy của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Vì vậy, quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân và vì nhân dân. Quyền lực đó phải tập trung, thống nhất và không phân chia. Đây là nguyên tắc cơ bản, định hướng chủ yếu cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hoạt động của mình, các cơ quan nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 20
- Mục đích tối cao của sự tồn tại và phát triển của Nhà nước XHCN, nhà nước của dân, do dân, vì dân là nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu đó, một trong những biện pháp cơ bản là thực hiện chế độ giám sát, kiểm tra các hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau như chất vấn, khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức hệ thống cơ quan kiểm tra bên trong bộ máy nhà nước. Đặc biệt trong hệ thống cơ quan hành chính, hệ thống kiểm tra giám sát lại càng đặc biệt được quan tâm. Trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, quyền tư pháp - quyền xét xử được giao cho Toà án. Theo Lênin, Toà án là cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động của Toà án là một hoạt động của nhà nước. Toà án sử dụng quyền lực nhà nước để thực hiện chức năng xét xử. Toà án là giải pháp phán xử tranh chấp một cách hoà bình trong đó có sự kiện được phân tích kỹ lưỡng và việc tự biện hộ cho mình cũng được xem xét và cân nhắc. Đây là một nhiệm vụ quan trọng có tác dụng thiết lập nên trật tự lâu dài. Cũng như các chế độ chính trị khác đã đang tồn tại trong lịch sử, trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam cũng không tránh khỏi các hiện tượng vi phạm pháp luật của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội, không ngoại trừ cơ quan nhà nước. Xu hướng sự lạm quyền của các cơ quan nhà nước cũng là một trong những biểu hiện của vi phạm pháp luật. Sự lạm quyền biểu hiện ở nhiều mặt khác nhau trong hoạt động thực hiện chức năng nhà nước, diễn ra mang tính phổ biến, dưới các dạng hình thức khác nhau như ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thi hành pháp luật, bảo vệ pháp luật... Vì vậy, cũng phải có những cơ chế cần thiết để bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong chế độ XHCN. Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhà nước của dân, do dân vì nhân dân thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi mọi 21
- cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước phải tuân thủ pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế chính sách để xây dựng thực hiện, đảm bảo nguyên tắc này nhằm xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một thiết chế có tính riêng biệt tạo điều kiện cho nhân dân phát huy quyền làm chủ tập thể của mình, phát huy tính dân chủ XHCN trong đời sống xã hội. Đây là một cơ chế quan trọng để người dân thực hiện việc kiểm tra đối với tính đúng đắn hoạt động của các cơ quan nhà nước, là cơ sở để cho các cơ quan nhà nước nhìn nhận và phát hiện ra các khiếm khuyết trong hoạt động quản lý của mình để từ đó có điêù kiện khắc phục. Từ khi thành lập Nước Việt nam dân chủ cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định được quy định về khiếu nại, tố cáo của nhân dân để đáp ứng với đòi hỏi thực tiễn. Về mặt hình thức, các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo đã tạo ra một cơ chế có ý nghĩa hết sức quan trọng và tích cực trong việc bảo đảm dân chủ, quyền công dân, kiểm tra giám sát của công dân đối với cơ quan nhà nước, giữa các cấp, các ngành trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh tính tích cực của cơ chế này, tính hạn chế của nó đã bộc lộ đó là thủ tục giải quyết còn đơn giản, thiếu bình đẳng về mặt pháp lý giữa người khiếu nại và người bị khiếu nại, người bị khiếu nại có quyền giải quyết khiếu nại về mình. Những điểm hạn chế này cũng chính là một trong những nguyên nhân, lý do của việc xem xét giao chức năng xét xử tranh chấp hành chính cho Toà án nhân dân. 22
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn