Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (Trên cơ sở các số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
lượt xem 8
download
Luận văn nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quyền công tố, THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND, từ đó làm căn cứ đánh giá thực trạng công tác THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND hai cấp thành phố Hà Nội từ năm 2007 đến năm 2011 và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND thành phố Hà Nội trong thời gian tới,... Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (Trên cơ sở các số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CAO VIỆT CƢỞNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN (Trên cơ sở các số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CAO VIỆT CƢỜNG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN (Trên cơ sở các số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng HÀ NỘI - 2013 2
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC THỰC HÀNH 7 QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố trong 7 giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm quyền công tố 7 1.1.2. Thực hành quyền công tố 14 1.2. Khái niệm, đối tượng, phạm vi kiểm sát tuân theo pháp luật 19 trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 1.2.1. Khái niệm kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều 19 tra các vụ án hình sự 1.2.2. Đối tượng, phạm vi kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai 21 đoạn điều tra các vụ án hình sự 1.3. Các quy định pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền 23 công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự 2003 1.4. Các quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thực 27 hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.4.1. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành 27 3
- quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 1.4.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát tuân 48 theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 1.5. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân 55 theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG 57 TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY (2007 - 2011) 2.1. Những kết quả đạt được trong công tác thực hành quyền công 57 tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2007- 2011 2.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội 57 2.1.2. Tình hình tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân 59 thành phố Hà Nội 2.1.3. Đánh giá chung về những kết quả đạt được trong công tác 61 thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2007-2011 2.2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn 71 chế trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2007- 2011 2.2.1. Một số tồn tại, hạn chế 71 2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 76 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP 82 NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 4
- 3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự 82 3.2. Các giải pháp khác 87 3.2.1. Đổi mới công tác cán bộ, tăng cường bồi dưỡng phẩm chất 87 đạo đức, nâng cao trình độ về chính trị, nghiệp vụ và trách nhiệm của cán bộ, kiểm sát viên 3.2.2. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo 92 Viện kiểm sát nhân dân hai cấp 3.2.3. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho 95 Viện kiểm sát và hoàn thiện chế độ chính sách đối với cán bộ, kiểm sát viên 3.2.4. Tăng cường quan hệ phối hợp trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ 95 giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, Tòa án KẾT LUẬN 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99 PHỤ LỤC 104 5
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra KSV : Kiểm sát viên THQCT : Thực hành quyền công tố TNHS : Trách nhiệm hình sự TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao 6
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một cơ quan giữ vị trí rất quan trọng và là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ: "Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng đảm bảo thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp" [6]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định: "Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra" [7]. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI trong việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục khẳng định: ...Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp. Đổi mới hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, mở rộng thẩm quyền xét xử đối với các khiếu kiện hành chính; Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án, bảo đảm các điều kiện để thực hiện có hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp… [10]. Việc nghiên cứu để hoàn thiện các cơ chế bảo vệ pháp luật, trong đó có vấn đề THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp là một trong những 7
- nhiệm vụ cấp thiết vì nó không chỉ liên quan đến tổ chức và hoạt động của VKSND mà còn liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, trước hết và đặc biệt là các cơ quan tư pháp. Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, trong những năm qua ngành Kiểm sát nhân dân đã có nhiều cố gắng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao và đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ trong hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp, công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND vẫn còn những tồn tại, thiếu sót. Trong đó, công tác THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật ở giai đoạn điều tra còn yếu kém, một số kiểm sát viên (KSV) được phân công nhiệm vụ THQCT ở giai đoạn điều tra chưa nắm vững các quy định của pháp luật, chưa bám sát được tiến độ điều tra, có khi còn ỷ lại cho điều tra viên, năng lực trình độ tổng hợp, phân tích, đánh giá chứng cứ còn hạn chế, thiếu toàn diện dẫn đến nhiều vụ gặp không ít khó khăn cho cơ quan và người tiến hành tố tụng ở các giai đoạn sau, làm ảnh hưởng đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. Những yếu kém, tồn tại trên có nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Trong đó chủ yếu là do năng lực trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp, vận dụng và áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra, THQCT của điều tra viên, KSV còn nhiều bất cập, yếu kém, dẫn đến những sai sót trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thực tế nêu trên cho thấy, công tác THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là một trong những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu để có những giải pháp khắc phục những tồn tại, yếu kém, nâng cao hơn nữa chất lượng trong công tác THQCT và kiểm sát 8
- điều tra các vụ án hình sự, đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, học viên đã lựa chọn đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (Trên cơ sở các số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm đề tài luận văn cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Sau khi Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Kết luận 79/KL-TW về "Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra" được ban hành, đã có một số công trình nghiên cứu khoa học ở các cấp độ khác nhau về vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát (VKS) theo yêu cầu cải cách tư pháp trong đó có đề tài khoa học cấp Bộ: "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay" - Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC); đề tài khoa học cấp Bộ: "Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp", Viện Khoa học kiểm sát - VKSNDTC; đề tài khoa học cấp Bộ: "Vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08- NQ/TW của Bộ Chính trị", Viện Khoa học kiểm sát - VKSNDT; đề tài:"Chức năng của Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự", của Phạm Đức Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; đề tài: "Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự", của Vũ Đức Hạnh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Cùng với đó, còn có nhiều bài viết về chủ đề này được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành luật. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một 9
- cách đầy đủ về chức năng THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND trên địa bàn thành phố Hà Nội gắn với yêu cầu cải cách tư pháp, đồng thời nghiên cứu thực tiễn công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự để thấy được những bất cập, vướng mắc còn chưa được tháo gỡ. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quyền công tố, THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND, từ đó làm căn cứ đánh giá thực trạng công tác THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND hai cấp thành phố Hà Nội từ năm 2007 đến năm 2011 và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND thành phố Hà Nội trong thời gian tới, góp phần cùng với các cơ quan tư pháp của thành phố bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức và công dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích cơ sở lý luận về quyền công tố, THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND. - Phân tích đánh giá thực trạng công tác THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND hai cấp thành phố Hà Nội và rút ra nguyên nhân khách quan, chủ quan của một số tồn tại, hạn chế trong công tác THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND hai cấp thành phố Hà Nội. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hơn chất lượng, hiệu quả công tác THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND hai cấp thành phố Hà Nội trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay. 10
- 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về chức năng, nhiệm vụ của VKSND khi THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề về THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND trên cơ sở các số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2007 - 2011 (đề tài không nghiên cứu số liệu của VKS quân sự Thủ đô). 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm và đường lối của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, so sánh, tổng hợp, khảo sát thực tiễn… để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra. 6. Những đóng góp khoa học của đề tài Đề tài đã nghiên cứu một cách cơ bản những qui định của pháp luật về chức năng THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND, đồng thời nghiên cứu những tồn tại trong thực tiễn áp dụng Bộ luật TTHS 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành mà nay pháp luật hiện hành vẫn chưa thể tháo gỡ, những vướng mắc trong việc thực hiện các qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đối với những vấn đề liên quan đến việc thực hiện chức năng công tố trong hoạt động điều tra của VKS từ đó đưa ra những kiến giải khoa học về việc tổ chức thực hiện và bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, góp phần hoàn thiện hơn nữa tổ chức và hoạt động của VKS theo yêu cầu cải cách tư pháp. 11
- 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Chương 2: Thực trạng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây (2007 - 2011). Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội. 12
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN CÔNG TỐ VÀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm quyền công tố Trong khoa học luật tố tụng hình sự (TTHS), việc xác định khái niệm quyền công tố và theo đó là THQCT có ý nghĩa lí luận và thực tiễn rất quan trọng. Giải quyết tốt vấn đề này giúp cho việc xác định chính xác vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKS trong hệ thống cơ quan nhà nước. Có thể tóm tắt các quan điểm khác nhau đó thành 4 nhóm chính như sau: - Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền công tố gắn liền với sự phát triển của khoa học pháp lý, khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con người được đề cao, đòi hỏi phải có một cơ quan thay mặt Nhà nước đứng ra bảo vệ quyền bị xét xử bởi các cơ quan tư pháp. - Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là một quyền độc lập, chỉ có trong xã hội dân chủ, nhằm bảo vệ quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật khi tham gia tố tụng tại phiên tòa và thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật. Cơ quan công tố là mối dây liên lạc giữa các cơ quan công quyền với quần chúng, giữa các cơ quan công quyền với nhau nhằm phục vụ lợi ích hợp pháp của các bên theo quy định của pháp luật. Những người theo quan điểm này nhấn mạnh quyền công tố là một loại quyền năng mà khi có sự phân chia triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì cần phải có một loại cơ quan đặc biệt để thực hiện quyền tư pháp nhưng "chống" lại 13
- quyền xét xử nhằm bảo vệ các đạo luật, bảo vệ Chính phủ và các thể nhân bị Tòa án xét xử, đó là quyền công tố. - Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước, đại diện công quyền để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật thống trị ra cơ quan xét xử, do đó quyền công tố không thể xuất hiện cùng với Nhà nước mà chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử chuyên nghiệp và độc lập [25]. - Nhóm quan điểm thứ tư cho rằng, quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà nước, từ Nhà nước chủ nô đến các Nhà nước đại diện [42]. Qua nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy các cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công tố xuất hiện khá muộn, gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế, phi dân chủ, thực hiện sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, việc ra đời của các cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công tố không đồng nhất với quyền công tố. Quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, nó luôn gắn liền với bản chất của Nhà nước và là một một bộ phận không thể tách rời của công quyền và xuất hiện cùng với Nhà nước. Nhà nước xuất hiện và tồn tại khi xuất hiện và tồn tại giai cấp (xuất hiện và tồn tại những đối kháng mang tính giai cấp). Để quản lý xã hội, Nhà nước phải ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, giữ cho các quan hệ xã hội được thực hiện theo ý chí của giai cấp thống trị nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong bất kỳ một xã hội nào, cũng tồn tại những mâu thuẫn mang tính giai cấp và có những hành vi đấu tranh giai cấp dưới các hình thức khác nhau, biểu hiện cụ thể là những hành vi vi phạm pháp luật chống lại ý chí của giai cấp thống trị, đe dọa đến quyền thống trị của Nhà nước mà cần phải trừng trị. Để trừng trị người vi phạm pháp luật thì Nhà nước phải buộc được tội họ thông qua một cơ quan 14
- của Nhà nước, đại diện cho Nhà nước. Quyền buộc tội của Nhà nước chính là quyền công tố, quyền này có thể do một cá nhân, một cơ quan được Nhà nước giao để thực hiện nó tùy thuộc vào sự phát triển của tổ chức bộ máy nhà nước qua các thời kỳ lịch sử và phụ thuộc vào bản chất của các kiểu Nhà nước. Mặt khác, qua nghiên cứu so sánh lịch sử tư pháp hình sự trên thế giới cho thấy, về cơ bản khái niệm quyền công tố đã được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội loài người. Chẳng hạn, ở Nhà nước chiếm hữu nô lệ Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ V trước Công nguyên đã tồn tại hai hình thức tố tụng - công tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước khi mà người đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật) và tư tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án xảy ra do sự vi phạm đến các lợi ích riêng của ai đó); còn ở La Mã cổ đại trong thời kỳ tan rã của nền dân chủ quân sự và hình thành Nhà nước chiếm hữu nô lệ, thì công tố đã được tiến hành đối với cả các vụ án quan trọng nhất trực tiếp xâm hại (hoặc đe dọa nghiêm trọng) đến trật tự xã hội - các lợi ích công cộng (delicta publica), khác với các vụ án động chạm đến các lợi ích cá nhân (delicta privata). Từ những lí do trên, chúng tôi có cùng quan điểm với nhóm quan điểm thứ tư là: Quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà nước, từ Nhà nước chủ nô đến các Nhà nước đại diện. Ở nước ta hiện nay thì khái niệm về quyền công tố còn có nhiều quan điểm khác nhau và khái quát lại thì có một số quan điểm sau: - Quan điểm thứ nhất đồng nhất khái niệm quyền công tố với khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS. Có thể thấy rõ quan điểm này xuất phát từ chức năng của VKS để xem xét quyền công tố. Quan điểm này cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là 15
- THQCT. Theo quan điểm này, công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật [26]. Theo chúng tôi, quan điểm trên là chưa chính xác, đã đánh đồng quyền công tố với quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS, phủ nhận tính độc lập của hai quyền năng trên mặc dù chúng có nội dung và phạm vi tác động khác nhau. - Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò duy nhất của VKS trong việc thực hiện quyền công tố chỉ ở một lĩnh vực TTHS và ở một giai đoạn duy nhất của tố tụng hình sự là giai đoạn xét xử sơ thẩm [39]. Theo chúng tôi, quan điểm này đã thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi của quyền công tố, không phản ánh được đầy đủ bản chất của quyền này. Bản chất của công tố là buộc tội của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Hoạt động buộc tội không chỉ trong việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án mà được thực hiện xuyên suốt trong quá trình điều tra. - Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật [41]. Người theo quan điểm này cho rằng, quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, TTHS, cùng với sự phát triển của xã hội, của các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự, tố tụng dân sự và tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Theo chúng tôi, quan điểm trên đã quá mở rộng khái niệm, nội dung và phạm vi quyền công tố, xóa nhòa ranh giới giữa TTHS và các lĩnh vực tố tụng khác. Bởi bản chất của quyền công tố là quyền buộc tội của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi phạm tội, nên quyền công tố chỉ có trong lĩnh 16
- vực TTHS. Các lĩnh vực tố tụng khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính VKS chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia vào các hoạt động tố tụng đó. - Quan điểm thứ tư cho rằng, quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội. Nói cách khác, quyền công tố do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự. Đó là hoạt động của Điều tra viên, KSV và những người khác được pháp luật quy định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội [40]. Quan điểm nêu trên cho rằng không chỉ Cơ quan điều tra (CQĐT) và Cơ quan công tố mà cả Cơ quan xét xử và Cơ quan thi hành án đều là chủ thể thực hiện quyền công tố. Theo chúng tôi, quan điểm trên đã nhầm lẫn chủ thể của quyền công tố, mỗi một giai đoạn TTHS đều do một chủ thể nhất định trong quá trình TTHS tiến hành với chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định cho mỗi chủ thể. Hiểu khái niệm quyền công tố theo quan điểm trên đã nhầm lẫn giữa các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. - Quan điểm thứ năm cho rằng, quyền công tố bao gồm quyền khởi tố, điều tra vụ án, quyền truy tố và buộc tội bị cáo trước Tòa án. Đại diện cho quan điểm này là các luật gia theo truyền thống pháp luật của Pháp. Quyền công tố luôn gắn liền với hoạt động buộc tội nhân danh, do vậy quyền công tố chỉ được thực hiện trong một lĩnh vực duy nhất, đó là lĩnh vực TTHS. Chủ thể tham gia vào hoạt động THQCT chỉ bao gồm CQĐT (Điều tra viên) và Viện Công tố (Công tố viên). Quyền công tố được sử dụng để bảo vệ không chỉ các lợi ích công mà cả lợi ích của cá nhân khi bị hành vi phạm tội xâm hại. - Quan điểm thứ sáu cho rằng, quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm 17
- hành chính, vi phạm luật dân sự, luật kinh tế và luật hình sự. Và quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó [14]. Theo quan điểm này, quyền công tố chỉ thuộc về Nhà nước, Nhà nước không thể không thực hiện quyền công tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp luật, người có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và đồng thời, Nhà nước là chủ thể tham gia vào nhiều loại quan hệ pháp luật khác nhau. - Quan điểm thứ bảy cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước đưa các việc làm phạm pháp liên quan đến lợi ích chung ra Tòa án để xét xử, vì Nhà nước nhân danh xã hội duy trì trật tự chung bằng pháp luật. Sự can thiệp của Nhà nước vào các việc phạm pháp nói trên là do nhu cầu duy trì mọi xung đột xã hội gắn với trật tự công cộng mà trách nhiệm của Nhà nước phải đứng ra điều hòa - đó là bản chất của quyền lực công. Quyền lực công được Nhà nước giao cho cơ quan nào phụ thuộc vào từng kiểu Nhà nước. Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền lực công, quyền đó thuộc về Nhà nước được bắt nguồn từ nhu cầu phải duy trì trật tự xã hội bằng pháp luật để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và những lợi ích chung có liên quan mà bất kỳ Nhà nước nào cũng đều cần phải can thiệp duy trì vì đó là môi trường tồn tại của Nhà nước, là trách nhiệm xã hội của Nhà nước vì Nhà nước nhân danh xã hội để duy trì các xung đột trong vòng trật tự. Quyền công tố là quyền lực công, đòi hỏi phải xử lý các vụ việc xâm phạm đến lợi ích chung một cách công khai bằng con đường Tòa án. Vì thế, quyền công tố thường gắn với quyền tài phán của Tòa án [12], [43]. Theo chúng tôi thì quan điểm như vậy là không đủ cơ sở, bởi lẽ trong thực tiễn tố tụng thì ngoài lĩnh vực TTHS, người thực hiện hành vi phạm tội ngoài khách thể trực tiếp (quan hệ xã hội trực tiếp bị tội phạm xâm hại) thì đều xâm hại đến trật tự xã hội chung. Còn trong các lĩnh vực tố tụng khác, hoạt động xét xử của Tòa án đều nhằm bảo vệ, xác định quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia tranh chấp mà các quan hệ pháp lý trong các vụ việc tranh chấp không phải lúc nào cũng phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật. 18
- - Quan điểm thứ tám cho rằng, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện các chức năng do luật TTHS quy định để kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra tội phạm, truy tố và buộc tội người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm trước Tòa án nhằm góp phần ra được các bản án có căn cứ, công minh và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền tự do của công dân, cũng như các lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nước trong hoạt động TPHS. Theo quan điểm này, quyền công tố mà VKS nhân danh Nhà nước thực hiện có thể được hiểu theo hai nghĩa (trên hai bình diện) như sau: Theo nghĩa hẹp - khi nó được hiểu là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS các chức năng truy tố và buộc tội trước Tòa án người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm; Theo nghĩa rộng - khi nó được hiểu là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS các chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra tội phạm, truy tố và buộc tội trước Tòa án người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm [2]. Nếu như chỉ hiểu theo nghĩa hẹp, thì nội dung của quyền công tố chỉ được thể hiện trong phạm vi (giới hạn) từ sau khi kết thúc việc điều tra tội phạm và vụ án hình sự được chuyển sang VKS để truy tố người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm trước Tòa án (1) và, chấm dứt sau khi Tòa án xét xử xong với việc tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật đối với người đó (2), tức là trong hai giai đoạn của hoạt động TPHS - truy tố bị can (1) và buộc tội bị cáo của VKS tại phiên tòa xét xử của Tòa án (2). Hai giai đoạn này tương ứng với việc thực hiện hai chức năng của VKS nhân danh Nhà nước - chức năng truy tố (1) và chức năng buộc tội (2). Còn nếu như hiểu theo nghĩa rộng, thì nội dung của quyền công tố được thể hiện trong phạm vi (giới hạn) từ khi bắt đầu việc điều tra tội phạm (1) vụ án hình sự được chuyển sang VKS để truy tố người đã thực hiện hành 19
- vi nguy hiểm cho xã hội bị luật Hình sự cấm trước Tòa án (2) và, chấm dứt khi Tòa án xét xử xong với việc tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật đối với người đó (3), tức là trong ba giai đoạn của hoạt động tư pháp hình sự - điều tra tội phạm (1), truy tố bị can (2) và buộc tội bị cáo của VKS tại phiên tòa xét xử của Tòa án (3). Ba giai đoạn này tương ứng với việc thực hiện ba chức năng của VKS nhân danh Nhà nước - chức năng kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra (1), chức năng truy tố (2) và chức năng buộc tội (3). Trên đây là một số quan điểm về quyền công tố. Chúng tôi đồng nhất với cách phân tích, lập luận thể hiện quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật TTHS, nó luôn gắn liền với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm). Bản chất của hoạt động TTHS là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng để phát hiện và truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Trong hoạt động TTHS luôn tồn tại ba chức năng tố tụng cơ bản đó là chức năng buộc tội; chức năng gỡ tội; chức năng xét xử. Buộc tội là một chức năng tố tụng nhằm truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Cơ quan thực hiện chức năng buộc tội có trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc cụ thể đối với cá nhân cụ thể và có nhiệm vụ đưa ra những tài liệu, chứng cứ cụ thể cho sự buộc tội đó. Với những lập luận trên, chúng tôi đưa ra khái niệm quyền công tố như sau: Quyền công tố là quyền thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là VKSND) để phát hiện tội phạm, truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. 1.1.2. Thực hành quyền công tố 1.1.2.1. Khái niệm, phạm vi thực hành quyền công tố Cũng như khái niệm về "quyền công tố", khái niệm "thực hành quyền công tố" cũng như nội dung, đối tượng tác động và phạm vi của nó còn ít được đề cập đến và chưa rõ ràng. Các công trình nghiên cứu trong và ngoài 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn