Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức y tế dự phòng ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 6
download
Luận văn có mục đích là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ viên chức YTDP, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức YTDP ở Việt Nam đến năm 2020. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức y tế dự phòng ở Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------ NGUYỄN THỊ THU HÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ VIÊN CHỨC Y TẾ DỰ PHÒNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Trịnh Đức Thảo Hà Nội - 2007
- MỤC LỤC Trang Mở đầu 8 Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ viên chức 14 YTDP 1.1. Khái niệm, vai trò của đội ngũ viên chức YTDP 14 1.1.1. Khái niệm viên chức và viên chức YTDP 14 1.1.1.1. Khái niệm viên chức 14 1.1.1.2. Khái niệm viên chức YTDP 18 1.1.2. Vai trò của đội ngũ viên chức YTDP 19 1.2. Tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ 22 viên chức YTDP 1.2.1. Tiêu chuẩn của viên chức y tế dự phòng 22 1.2.1.1. Tiêu chuẩn của cán bộ, công chức, viên chức 22 1.2.1.2. Tiêu chuẩn của viên chức YTDP 26 1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng của đội ngũ viên chức 28 YTDP 1.2.2.1. Các tiêu chí chung 30 1.2.2.2. Các tiêu chí cụ thể 30 1.3. Điều kiện đảm bảo chất lượng đội ngũ viên chức 33 YTDP 1.3.1. Đảm bảo về chính trị 33 1.3.2. Đảm bảo về kinh tế 34 1.3.3. Đảm bảo về pháp luật 35 Chương 2: Thực trạng chất lượng đội ngũ viên chức YTDP 37 ở Việt Nam 2.1. Tình hình kinh tế, xã hội, địa lý và dân số tác động 37 đến phát triển mạng lưới YTDP và chất lượng đội 5
- ngũ viên chức YTDP 2.1.1. Yếu tố tự nhiên, môi trường, dân số 37 2.1.2. Yếu tố kinh tế, xã hội 37 2.2. Thực trạng chất lượng đội ngũ viên chức YTDP ở 39 Việt Nam 2.2.1. Sự phát triển về số lượng của đội ngũ viên chức 39 YTDP 2.2.2. Phân bố nhân lực YTDP 41 2.2.2.1. Tuyến trung ương 42 2.2.2.2. Tuyến tỉnh 42 2.2.2.3. Tuyến huyện 46 2.2.2.4. Nhân lực YTDP khác 49 2.2.3. Về phẩm chất chính trị, tư tưởng của viên chức 49 YTDP 2.2.4. Về đạo đức, lối sống của viên chức YTDP 50 2.2.5. Về trình độ, năng lực và khả năng hoạt động thực 52 tiễn của viên chức YTDP 2.2.5.1. Trình độ đào tạo 52 2.2.5.2. Năng lực và khả năng hoạt động thực tiễn 56 2.3. Những yếu tố tác động đến chất lượng của đội ngũ 61 viên chức YTDP 2.3.1. Công tác đánh giá, phân loại viên chức YTDP 61 2.3.2. Công tác quy hoạch, tuyển dụng viên chức YTDP 63 2.3.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng viên chức YTDP 65 2.3.4. Về chế độ, chính sách đối với viên chức YTDP 67 2.4. Nguyên nhân cơ bản của những tồn tại, hạn chế 69 2.4.1. Nguyên nhân khách quan 69 6
- 2.4.2. Nguyên nhân chủ quan 70 Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng đội 73 ngũ viên chức YTDP ở Việt Nam đến năm 2020 3.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức YTDP – yêu 73 cầu cấp bách hiện nay 3.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác y tế 75 3.3. Các quan điểm nâng cao chất lượng đội ngũ viên 78 chức YTDP 3.4. Các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức 78 YTDP 3.4.1. Các giải pháp nâng cao chất lượng về phẩm chất 78 chính trị, tư tưởng 3.4.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng về phẩm chất đạo 81 đức, lối sống, phong cách làm việc 3.4.3. Các giải pháp nâng cao trình độ, năng lực và khả 84 năng tổ chức hoạt động thực tiễn 3.4.4. Các giải pháp khác 88 3.4.4.1. Hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật về cán bộ, 88 công chức, viên chức và pháp luật về lĩnh vực YTDP 3.4.4.2. Đổi mới quan điểm, nội dung và phương pháp đánh 90 giá viên chức 3.4.4.3. Nâng cao chất lượng quy hoạch viên chức và thực 92 hiện việc đề bạt, bổ nhiệm viên chức theo quy hoạch Kết luận 94 Tài liệu tham khảo. 97-100 7
- BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT BTB: Bắc Trung bộ. CSSKSS: Chăm sóc sức khoẻ sinh sản. ĐB: Đông Bắc. ĐBBB: Đồng bằng Bắc bộ. ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long. ĐNB: Đông Nam bộ. KDYTQT: Kiểm dịch y tế quốc tế. KNT,MP,TP: Kiểm nghiệm thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm. NTB: Nam Trung bộ. PCBXH: Phòng chống bệnh xã hội. PC HIV/AIDS: Phòng chống HIV/AIDS. PCSR: Phòng chống sốt rét. SKLĐ&MT: Sức khoẻ lao động và môi trường. TB: Tây Bắc. T.nguyên: Tây Nguyên. TT: Trung tâm. TTGDSK: Truyền thông giáo dục sức khoẻ. XHCN: Xã hội chủ nghĩa. YTDP: Y tế dự phòng. 4
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong những năm vừa qua, cùng với tiến trình cách mạng của dân tộc, ngành y tế nói chung, lĩnh vực YTDP nói riêng đã có nhiều đóng góp to lớn và đạt được những thành tựu đáng kể: Nhiều bệnh dịch, bệnh xã hội đã được khống chế hoặc loại trừ, sức khoẻ và tuổi thọ của người dân được tăng lên. Thực hiện quan điểm của Đảng về công tác YTDP, với phương châm “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”, hệ thống YTDP đã không ngừng phát triển và hoàn thiện đáp ứng nhiệm vụ trong từng thời kỳ phát triển của đất nước. Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định “Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế dự phòng”. Việt Nam là nước đang phát triển, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá một số bệnh không nhiễm trùng, bệnh xã hội có xu hướng gia tăng cả về tỷ lệ mắc và tỷ lệ chết như bệnh tim mạch, ung thư, sức khoẻ tinh thần. Nhóm các bệnh do ngộ độc, chấn thương, tai nạn tăng từ 1,8% (năm 1976) lên 13,7% (năm 2000). Các bệnh truyền nhiễm gây dịch nguy hiểm có xu hướng diễn biến phức tạp. Trong vòng 10 năm (1994 – 2003) một số bệnh có tỷ lệ mắc cao như: cúm, sốt rét, lao, sốt xuất huyết và một số bệnh có tỷ lệ chết cao như: lao, HIV/AIDS, sốt rét, sốt xuất huyết. Nhiều bệnh dịch lưu hành địa phương có xu hướng quay trở lại phát triển thành dịch lớn. Đặc biệt là sự xuất hiện của một số bệnh mới nguy hiểm đang là mối nguy cơ đe doạ sức khoẻ cộng đồng như: SARS, cúm H5N1, HIV/AIDS... Con người được Đảng ta quan niệm không phải chỉ là động lực phát triển kinh tế – xã hội mà còn là mục tiêu của sự phát triển kinh tế – xã hội. Một trong những những yêu cầu của nguồn nhân lực là phải có sức khoẻ thể xác cũng như sức khoẻ tâm thần tốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi người. Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 8
- nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp, xây dựng con người phát triển toàn diện, nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo bước chuyển biến mạnh về phát triển nguồn nhân lực là một trong ba lĩnh vực then chốt cần tập trung triển khai để làm chuyển động toàn bộ tình hình kinh tế – xã hội, đòi hỏi công tác y tế nói chung và YTDP nói riêng phải có những chuyển biến tích cực và đột phá để đi lên. Đáp ứng nhu cầu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân, ngày 19/3/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 35/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001 – 2010 và năm 2005 Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 46/2005/NQ-TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới, trong đó xác định nhiệm vụ “Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống y tế dự phòng”. Ngày 30/6/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Trong đó có nêu rõ xây dựng và phát triển trung tâm y tế dự phòng đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ: giám sát dịch tễ, vệ sinh phòng, chống dịch, kiểm soát và phòng chống HIV/AIDS, truyền thông giáo dục sức khoẻ, chăm sóc sức khoẻ sinh sản và xây dựng làng văn hoá sức khoẻ nhằm củng cố và phát triển mạng lưới y tế dự phòng là một trong những nội dung của phát triển hệ thống y tế Việt Nam. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác YTDP trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, thực hiện mục tiêu giảm các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng; phát hiện sớm, khống chế kịp thời dịch bệnh, không để dịch lớn xảy ra; giảm tỷ lệ mắc và tử vong do bệnh, tật; góp phần phát triển thể chất, tinh thần, nâng cao tuổi thọ, nâng cao chất lượng cải thiện đời sống và giống nòi, ngày 09/11/2006, Thủ 9
- tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 255/2006/QĐ-TTg về phê duyệt Chiến lược quốc gia y tế dự phòng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Chiến lược quốc gia YTDP Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về sự phát triển và đầu tư cho công tác YTDP trong tương lai, đồng thời Chiến lược là cơ sở định hướng y tế Việt Nam đi theo hướng phát triển của y học thế giới là “y học trong tương lai là y học dự phòng”. Chiến lược cũng là cơ sở pháp lý để xây dựng quy hoạch phát triển mạng lưới YTDP, xây dựng các chương trình hành động, dự án mục tiêu quốc gia về y tế dự phòng, đồng thời là cơ sở để phân bổ hợp lý và nâng cao hiệu quả các nguồn lực cho YTDP. Để thực hiện được các mục tiêu trong Chiến lược quốc gia YTDP Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, mạng lưới YTDP cần được củng cố, hoàn thiện, quy hoạch và nâng cao chất lượng để đáp ứng với nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhân dân thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho, trong đó yếu tố quyết định là phải có một đội ngũ cán bộ, viên chức dự phòng đủ về số lượng, có chất lượng, có chuyên môn cao, có văn hoá, y đức và khả năng sáng tạo, tiếp thu những thành quả khoa học công nghệ tiên tiến nhằm đáp ứng được đòi hỏi của tình hình mới. Vì lý do đó luận văn đề cập tới vấn đề “Nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức y tế dự phòng ở Việt Nam hiện nay”. 2. Tình hình nghiên cứu: Thực hiện tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá VIII) về “Những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân”; Nghị quyết số 46/2005/NQ-TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới; Quyết định số 153/2006/QĐ-TT ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê 10
- duyệt kế hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020; Quyết định số 255/2006/QĐ-TTg ngày 09/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược quốc gia y tế dự phòng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Viện Chiến lược và Chính sách - Bộ Y tế đã có đề tài “Quản lý nguồn nhân lực y tế trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá” (nghiệm thu năm 2004), trong đó đưa ra quan điểm phát triển y tế bền vững và trên cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ y tế đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn nhân lực y tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó trong những năm qua Bộ Y tế, Cục Y tế dự phòng Việt Nam cũng đã dự thảo một số báo cáo, đề án về hoàn thiện và nâng cao hoạt động của mạng lưới y tế dự phòng, trong đó có đề cập đến vấn đề nhân lực như: - “Báo cáo Thực trạng nhân lực và các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tại tuyến huyện”, Bộ Y tế, tháng 6 năm 2007. - Đề án “Hỗ trợ phát triển Trung tâm y tế dự phòng tuyến huyện”, Cục Y tế dự phòng Việt Nam, tháng 8 năm 2007. Tuy nhiên, trong các đề tài, đề án, báo cáo chỉ đề cập ở phạm vi hẹp hoặc chưa đề cập, phân tích về chất lượng đội ngũ viên chức YTDP, những tồn tại, hạn chế của đội ngũ viên chức YTDP, cũng như chưa đưa ra được các tiêu chí để đánh giá, nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức YTDP một cách toàn diện. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn: - Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn có đối tượng nghiên cứu là tình hình chất lượng đội ngũ viên chức YTDP Việt Nam dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Cụ thể là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ viên chức YTDP ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất 11
- các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức YTDP trong thời gian tới. - Về phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu chất lượng đội ngũ viên chức YTDP ở Việt Nam. Thời gian nghiên cứu từ năm 2002 đến năm 2006. 3. Mục đích và mục tiêu của luận văn: - Mục đích của luận văn: Luận văn có mục đích là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ viên chức YTDP, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức YTDP ở Việt Nam đến năm 2020. - Mục tiêu của luận văn: 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ viên chức YTDP. Cụ thể là làm sáng tỏ khái niệm, tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chất lượng viên chức YTDP. 2. Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ viên chức YTDP của Việt Nam từ năm 2002 đến năm 2006. 3. Phân tích yêu cầu khách quan, quan điểm và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức y tế dự phòng Việt Nam đến năm 2020. 5. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, với những phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích – tổng hợp, lịch sử – so sánh, kết hợp với các nghiên cứu khác như phương pháp thống kê, so sánh, điều tra xã hội học. Các số liệu minh hoạ trong đề tài được dựa trên các tài liệu thứ cấp như: niên giám thống kê y tế, điều tra y tế quốc gia năm 2002, báo cáo tổng kết về công tác y tế dự phòng hàng năm của Cục Y tế dự phòng Việt Nam, số liệu báo cáo của các địa phương về nhân lực y tế do Vụ Tổ chức 12
- cán bộ – Bộ Y tế tổng hợp, các chính sách có liên quan đã được ban hành và còn có hiệu lực, các bài viết trên các tạp chí, trang thông tin điện tử... Trong luận văn cũng sử dụng một số kết quả nghiên cứu của các đề tài, đề án có liên quan đã được công bố. 6. Đóng góp khoa học của luận văn: - Đưa ra những tiêu chí nâng cao chất lượng viên chức YTDP. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng viên chức YTDP nhằm góp phần tạo ra một đội ngũ viên chức YTDP có chuyên môn giỏi, có tiềm năng tự phát triển và đạo đức tốt, đáp ứng được những đòi hỏi của nhân dân về bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của đất nước. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn: Kết quả luận văn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật trong một lĩnh cụ thể – chất lượng đội ngũ viên chức YTDP. Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách, xây dựng đội ngũ viên chức YTDP có chất lượng và những người quan tâm đến vấn đề chất lượng của đội ngũ viên chức YTDP. 8. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương và 50 mục. Chương 1. Cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ viên chức YTDP. Chương 2. Thực trạng chất lượng đội ngũ viên chức YTDP ở Việt Nam. Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức YTDP ở Việt Nam đến năm 2020. 13
- Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ viên chức y tế dự phòng. 1.1. Khái niệm, vai trò của đội ngũ viên chức y tế dự phòng: 1.1.1. Khái niệm viên chức và viên chức y tế dự phòng: 1.1.1.1. Khái niệm viên chức: Trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, thuật ngữ công chức, viên chức chưa được sử dụng, thay vào đó là thuật ngữ nhân viên, được thể hiện tại các điều 37, 47, 51, 52. Điều 52 Hiến pháp năm 1946 quy định Chính phủ có quyền hạn “Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn”. Thuật ngữ nhân viên còn được sử dụng để phân biệt các đối tượng khác nhau phục vụ tại các cơ quan nhà nước. Đến ngày 20 tháng 5 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 76 Quy chế công chức Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã quy định: “công chức là những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngoài nước” (Điều 1). Như vậy chỉ những người làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước mới là công chức, còn khái niệm viên chức vẫn chưa được đề cập đến. Sau năm 1954 do nhu cầu bổ sung nguồn nhân lực cho bộ máy nhà nước ngày càng tăng, do thực tiễn khi đó không có đủ nguồn nhân lực phù hợp với những tiêu chuẩn quy định đối với công chức. Tình hình đó đòi hỏi phải có một quan niệm rộng hơn về công chức nhà nước, bao gồm các đối tượng phục vụ trong các cơ quan nhà nước và trong bộ máy của các tổ chức xã hội, đoàn thể. Vì vậy, chế độ công chức dần được thay thế bằng chế độ “cán bộ, công nhân viên chức”, bao gồm tất cả những người làm việc trong các cơ quan nhà nước, cơ quan đảng, tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế nhà nước. Tất cả đều thuộc biên chế nhà nước, hưởng lương theo những thang bậc định sẵn và được gọi là “cán bộ, công nhân viên chức nhà 14
- nước” chung chung, không phân biệt ai là cán bộ, công chức, viên chức. Điều này được thể hiện tại Điều 6 Hiến pháp năm 1959 “Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”. Về sau, thuật ngữ viên chức được sử dụng chính thức trong nhiều văn bản pháp luật thay thế cho thuật ngữ công chức trước đó, như Nghị định số 23/CP ngày 30/6/1960 của Chính phủ về việc phân loại tổ chức, phân loại chức vụ của cán bộ và viên chức thuộc khu vực hành chính – sự nghiệp, Nghị định số 97/CP ngày 02/5/1974 của Hội đồng Chính phủ hướng dẫn lập và sử dụng sổ lao động cho công nhân viên chức nhà nước. Đến Hiến pháp 1980, thuật ngữ nhân viên nhà nước bắt đầu được sử dụng chính thức, được thể hiện tại các điều 8, 10, 12, 59. Điều 8 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Tất cả các cơ quan Nhà nước và nhân viên nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân...”. Điều 12 quy định: “Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhân viên Nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật...” hoặc quy định tại Điều 59: “Công nhân, viên chức khi về hưu, già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội”. Như vậy, những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức nhà nước được gọi là cán bộ, viên chức trừ đối tượng là công nhân. Thuật ngữ viên chức tiếp tục được cụ thể hoá tại Quyết định số 117/CP ngày 15/7/1982 của Chính phủ quy định danh mục số 1 về các chức vụ viên chức nhà nước, được phân thành: viên chức lãnh đạo (chia thành 2 nhóm); viên chức chuyên môn (chia thành 5 nhóm); viên chức thực hành nghiệp vụ kỹ thuật (chia thành 3 nhóm) và một số văn bản cải cách tiền lương đối với viên chức nhà nước được ban hành năm 1985. Các văn bản này là cơ sở cho sự hình thành chế độ viên chức theo chức nghiệp. Tuy nhiên chế độ viên chức theo chức nghiệp giai đoạn này đã bộc lộ 15
- những hạn chế, đó là không đề cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của viên chức, người viên chức được trả lương theo tiêu chí cơ bản, nhất là phụ thuộc vào thâm niên công tác. Chế độ này không kích thích được việc học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ viên chức. Trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), thuật ngữ “cán bộ, viên chức” được sử dụng với nghĩa rất rộng gồm tất cả những người phục vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. “Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân...” (Điều 8), hoặc “Công đoàn là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và người lao động khác...” (Điều 9). Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 1992 thì những người phục vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước bao gồm cán bộ và viên chức. Thuật ngữ viên chức được hiểu theo nghĩa rất rộng gồm tất cả những người trong biên chế của các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và cả trong tổ chức kinh tế của nhà nước. Để thực hiện và cụ thể hoá Hiến pháp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh cán bộ, công chức (năm 1998). Tuy nhiên Pháp lệnh lại không đi theo hướng sử dụng thuật ngữ cán bộ, viên chức nhà nước mà chỉ dùng thuật ngữ “cán bộ”, “công chức” nói chung và Pháp lệnh cũng không đưa ra định nghĩa riêng cho từng đối tượng “cán bộ”, “công chức”. Điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công chức quy định chung như sau: “Cán bộ, công chức là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm: - Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội; 16
- - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng; - Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; - Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp”. Lần sửa đổi, bổ sung thứ 3 năm 2003 của Pháp lệnh cán bộ, công chức đã đánh dấu một bước tiến mới trong sự điều chỉnh của pháp luật theo hướng chuyên biệt hoá phân biệt công chức và viên chức nhà nước. Trên cơ sở Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước và Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước. Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003, cán bộ, công chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội được gọi chung là viên chức. Viên chức là công dân Việt Nam, trong biên chế được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc được giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội..., hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định của pháp luật. Như vậy, công chức trong các cơ quan nhà nước, ở mức độ nhất định thì hoạt động của họ luôn gắn với quyền lực nhà nước, trực tiếp thực hiện 17
- quyền lực nhà nước hoặc phục vụ trực tiếp cho thực hiện quyền lực nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, còn hoạt động của các viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước thuần tuý mang tính chuyên môn, hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu do chính các đơn vị sự nghiệp tạo nên. 1.1.1.2. Khái niệm viên chức y tế dự phòng: Y học dự phòng là một ngành khoa học về phòng ngừa bệnh tật và tăng cường sức khoẻ. Phạm vi của y học dự phòng rất rộng, bất cứ điều gì liên quan đến sự sống, bệnh tật của con người như đất, nước, không khí, thực phẩm, quần áo, lao động, nghỉ ngơi, giải trí... đều là đối tượng của y học dự phòng. Qua khái niệm về y học dự phòng có thể thấy vai trò quan trọng của y học dự phòng, trong đó có vai trò của những người làm trong lĩnh vực này đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, pháp luật về công vụ của nhiều nước trên thế giới đều quy định những người làm việc trong các cơ sở y tế công trong lĩnh vực y tế là công chức nhà nước. Như pháp luật về công vụ của Cộng hoà Liên bang Đức, Cộng hoà Pháp, Xing-ga-po và một số nước khác như Hoa Kỳ, Nhật Bản... Chẳng hạn như theo pháp luật Cộng hoà Pháp, công chức được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả những người làm việc trong các cơ quan nhà nước có tư cách pháp nhân công quyền, trong các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước – công sở tự quản (trong đó có các bệnh viện), nhân viên hành chính trong các đơn vị quân đội và trong Quốc hội. Khái niệm công chức trong pháp luật của Nhật Bản bao hàm cả công chức Nhà nước và công chức địa phương. Công chức Nhà nước bao gồm những nhân viên giữ những chức vụ trong bộ máy của Chính phủ trung ương, ngành tư pháp, quốc hội, quân đội, nhà trường và bệnh viện quốc 18
- lập, xí nghiệp và đơn vị sự nghiệp quốc doanh, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Pháp luật của Việt Nam thì quy định những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước nói chung và các đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực y tế dự phòng nói riêng là viên chức. Vì vậy, viên chức y tế dự phòng trước hết phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện của viên chức, đó là công dân Việt Nam, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu do chính các đơn vị sự nghiệp tạo nên, trong biên chế được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. Đơn vị sự nghiệp của Nhà nước ở đây chính là các đơn vị y tế trong lĩnh vực y tế dự phòng. Đó là các Viện trung ương và khu vực; các Trung tâm hệ dự phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các Trung tâm y tế dự phòng huyện. Với việc loại bỏ đội ngũ cán bộ y tế làm việc trong các đơn vị sự nghiệp y tế (các bệnh viện, các viện nghiên cứu, các trung tâm y tế dự phòng) – những người thực hiện một công vụ quan trọng nhất của nhà nước và xã hội là thực hiện công tác khám chữa bệnh và phòng chống dịch bệnh nâng cao sức khoẻ nhân dân ra khỏi đội ngũ công chức chưa thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân như trong các Văn kiện đại hội Đảng đã đề ra. 1.1.2. Vai trò của đội ngũ viên chức y tế dự phòng: Nghề y ở khắp mọi nơi trên thế giới đều như nhau, là nghề có quá trình đào tạo dài nhất, nhưng thời gian có thể hành nghề lại muộn nhất. Do tính chất nghề nghiệp, nhân viên y tế phải làm việc trong các điều kiện môi trường rất khác nhau với rất nhiều các yếu tố môi trường bất lợi cho sức khoẻ như: các yếu tố vật lý, yếu tố hoá, yếu tố sinh học, môi trường kín... Trong điều kiện kinh tế xã hội thực tại của Việt Nam, công việc bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân càng khó khăn, phức tạp hơn gấp bội. Lao động của người thầy thuốc là loại lao động phức tạp, đòi hỏi cả về thể 19
- lực và trí tuệ vì luôn phải đưa ra các quyết định phức tạp liên quan đến tính mạng con người. Về tâm lý, nghề y cũng đòi hỏi ở người thầy thuốc đức tính cần cù, kiên nhẫn, biết chịu đựng... Sức khoẻ của mỗi người liên quan mật thiết đến tình trạng sức khoẻ chung của cộng đồng. Một cộng đồng khoẻ mạnh cả về thể chất và tinh thần (ít người ốm đau, không có dịch bệnh, môi trường ít hoặc không bị ô nhiễm, không có các tệ nạn xã hội...) là điều kiện lý tưởng đảm bảo cho mỗi người khoẻ mạnh. Vai trò của đội ngũ viên chức y tế dự phòng thể hiện ở chính các công việc: Một là, đảm bảo một cuộc sống lành mạnh, văn minh. Để thực hiện công việc này thì y tế dự phòng có nhiệm vụ chủ động phòng, chống các bệnh liên quan tới chế độ dinh dưỡng, lối sống có hại, tai nạn và thương tích như: khống chế các bệnh do hút thuốc lá thông qua việc giảm tỷ lệ hút thuốc lá, giảm tỷ lệ mắc các loại ung thư có liên quan đến thuốc lá; giảm các yếu tố nguy cơ liên quan đến các bệnh tim mạch, bệnh đái tháo đường; giảm tỷ lệ các bệnh do lối sống không lành mạnh mang lại như nghiện hút, cờ bạc, nghiện rượu và béo phì; giảm tỷ lệ mắc ngộ độc thực phẩm, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em, tỷ lệ thiếu máu, thiếu sắt và i ốt ở bà mẹ và trẻ em; giảm tỷ lệ mắc bệnh tâm thần, trầm cảm, tỷ lệ tự tử... qua đó tăng tuổi thọ của người dân Việt Nam. Hai là, đảm bảo môi trường sống không dịch bệnh, lao động và học tập có lợi cho việc phòng bệnh và nâng cao sức khoẻ. Để thực hiện công việc này thì y tế dự phòng có nhiệm vụ tuyên truyền vận động nhân dân và hộ gia đình sử dụng nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh, xây dựng hưởng ứng phong trào “Làng Văn hóa – Sức khoẻ”; Củng cố và phát triển mạng lưới y tế trường học, đảm bảo 100% học sinh được khám sức khoẻ định kỳ hàng năm, giảm tỷ lệ các bệnh răng miệng và cận thị học đường; giám sát môi trường lao động, phát hiện và dự phòng các bệnh nghề nghiệp mới nảy sinh; giảm số người bị tai nạn, thương tích hàng năm... 20
- Ba là, chủ động phòng chống các tác nhân có hại cho sức khoẻ. Đó là: phát hiện sớm và xử lý kịp thời 100% các dịch bệnh mới phát sinh; giảm tỷ lệ mắc và tử vong hàng năm của các bệnh truyền nhiễm gây dịch đang lưu hành như: bệnh tả, bệnh dịch hạch, bệnh dại, bệnh sốt xuất huyết, bệnh sốt rét, bệnh thương hàn, bệnh viêm não; duy trì bền vững kết quả thanh toán bệnh bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh, tiến tới loại trừ bệnh sởi, bệnh phong, thanh toán bệnh mắt hột, khống chế tỷ lệ HIV/AIDS trong cộng đồng; đảm bảo trẻ em được tiêm chủng đầy đủ các loại vắc xin... Trong những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, chính quyền các cấp, cùng với sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành y tế và sự phối hợp của các Bộ, ngành, hệ thống y tế dự phòng không ngừng được củng cố và dần hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ. Công tác y tế dự phòng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt hoạt động. Nhiều dịch bệnh nguy hiểm được khống chế, đẩy lùi và thanh toán. Năm 1978, nước ta đã thanh toán được bệnh đậu mùa và năm 2000 thanh toán bệnh bại liệt. Từ năm 2002 không có bệnh dịch hạch và năm 2003, Việt Nam là quốc gia đầu tiên khống chế được dịch SARS. Các bệnh truyền nhiễm gây dịch đã giảm từ 10 đến 100 lần so với trước đây, cơ cấu bệnh tật đã thay đổi đáng kể. Phòng chống HIV/AIDS cũng như các bệnh lây truyền qua đường tình dục, quản lý, chăm sóc, tư vấn người nhiễm HIV, dự phòng lây truyền từ mẹ sang con... đã được triển khai mạnh mẽ, hạn chế sự gia tăng của đại dịch HIV/AIDS. Công nghệ sinh học được nghiên cứu và áp dụng thành công trong việc sản xuất vắc xin. Năm 2000 Việt Nam đã có khả năng đáp ứng được 5/10 loại vắc xin dùng trong tiêm chủng mở rộng. Đến năm 2005 đã cung cấp 9/10 loại vắc xin cho tiêm chủng mở rộng, trong đó 7/10 loại đã đáp ứng được 100% nhu cầu trong nước. 21
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 33,8% năm 2000 xuống còn 25,0% vào năm 2005. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ người lao động và bệnh nghề nghiệp đã trở thành hoạt động chuyên môn thường trực của hệ thống y tế dự phòng từ trung ương đến địa phương và các Bộ, ngành. Công tác kiểm dịch y tế biên giới đã triển khai tại hầu hết các cửa khẩu biên giới, góp phần ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm có thể lây lan vào nước ta, đảm bảo an ninh sức khoẻ cho quốc gia... Thành tựu của công tác y tế dự phòng đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cho người dân, thể hiện rõ nét trong việc khống chế tỷ suất tử vong của trẻ dưới 1 tuổi dưới 40‰, góp phần tăng tuổi thọ bình quân của người dân Việt Nam, hiện đạt khoảng 71 tuổi. Có được các thành tựu trên đây là nhờ sự cố gắng vượt bậc, là kết quả của sự lao động vượt mọi khó khăn của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức y tế dự phòng. 1.2. Tiêu chuẩn và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ viên chức y tế dự phòng: 1.2.1. Tiêu chuẩn của viên chức y tế dự phòng: 1.2.1.1. Tiêu chuẩn của cán bộ, công chức, viên chức: Theo quan điểm Hồ Chí Minh, tiêu chuẩn của người cán bộ vừa thấm nhuần được tính đảng, vừa phản ánh được tính khoa học. Tính đảng là phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết; Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn. Tính khoa học là đáp ứng được tình hình của cách mạng; lý luận và thực tế phải gắn với nhau, đáp ứng đúng nhu cầu các ngành công tác. Trong tiêu chuẩn chung của cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh hai mặt đức và tài. Hai mặt đó là một thể thống nhất, quan hệ biện chứng, không thể thiếu mặt nào, trong đó đức là cái gốc. Muốn có đạo đức hoàn toàn thì phải có trí tuệ, có lý luận 22
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn