intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự hiện nay ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

31
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận của người đại diện trong tố tụng dân sự như khái niệm, đặc điểm, lịch sử hình thành; vai trò, giá trị pháp lý và thực tiễn trong đời sống pháp lý cũng như nền kinh tế thị trường; phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành, thực tiễn hoạt động của người đại diện trong tố tụng dân sự. Trên cơ sở, đánh giá những ưu điểm cũng như chỉ ra những mặt hạn chế của của pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân sự.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự hiện nay ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN VŨ TOÀN NGƢỜI ĐẠI DIỆN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN VŨ TOÀN NGƢỜI ĐẠI DIỆN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN NAY Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình HÀ NỘI - 2013 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n TrÇn Vò Toµn 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGƢỜI ĐẠI 6 DIỆN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của người đại diện trong pháp 6 luật tố tụng dân sự 1.1.1. Khái niệm người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự 6 1.1.2. Đặc điểm của người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự 9 1.1.3. Vai trò của người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự 11 1.1.4. Sự khác nhau giữa người đại diện và người bảo vệ quyền, lợi 13 ích hợp pháp của đương sự 1.2. Phân loại người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự 15 1.3. Sơ lược các quy định của pháp luật về người đại diện trong 19 pháp luật tố tụng dân sự từ năm 1945 đến nay 1.3.1. Giai đoạn năm 1945 đến năm 1989 19 1.3.2. Giai đoạn năm 1989 đến nay 22 Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN 25 HÀNH VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 2.1. Căn cứ phát sinh đại diện và những trường hợp không được 25 làm người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự 2.1.1. Căn cứ phát sinh đại diện trong tố tụng dân sự 25 2.1.2. Những trường hợp không được làm người đại diện trong pháp 28 luật tố tụng dân sự 2.2. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện trong pháp luật tố tụng 30 dân sự 2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật trong tố 30 tụng dân sự 4
  5. 2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện do Tòa án chỉ định 41 trong tố tụng dân sự 2.2.3. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền trong tố 42 tụng dân sự 2.3. Chấm dứt và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt đại diện của 51 đương sự trong tố tụng dân sự 2.3.1. Căn cứ chấm dứt đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự 51 2.3.2. Hậu quả của việc chấm dứt đại diện trong tố tụng dân sự 61 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP 62 LUẬT VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về người đại 62 diện trong pháp luật tố tụng dân sự 3.1.1. Đánh giá chung việc thực hiện các quy định của pháp luật về 62 người đại diện trong tố tụng dân sự 3.1.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về xác định 64 địa vị pháp lý của người đại diện trong tố tụng dân sự 3.1.3. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về chỉ định 71 người đại diện trong tố tụng dân sự 3.1.4. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền và 73 nghĩa vụ người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự 3.1.5. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về không được 75 làm người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự 3.1.6. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về chấm dứt 77 đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự 3.2. Những nguyên nhân hạn chế và một số kiến nghị nhằm nâng 78 cao vai trò của người đại diện trong tố tụng dân sự 3.2.1. Những nguyên nhân hạn chế trong việc thực hiện các quy 78 định của pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân sự 3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của người đại diện 82 của đương sự trong tố tụng dân sự KẾT LUẬN 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89 5
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự PLTTGQCVADS : Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Người đại diện là một chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Và với xu thế phát triển của xã hội văn minh, đại diện luôn là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống xã hội cũng như trong môi trường pháp lý. Trong những năm vừa qua, từ hoạt động của mình, người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự đã và đang khẳng định được vị thế, vai trò của mình trong tố tụng, ngày càng chứng tỏ là một trong những thành phần khó có thể thiếu trong tố tụng dân sự. Kế thừa có chọn lọc các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Bộ luật dân sự (BLDS) năm 1995... chế định người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự được quy định và ngày một hoàn thiện hơn trong BLDS năm 2004. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những quy định được pháp luật ghi nhận một cách chung nhất, khái quát nhất về địa vị pháp lý cùng những vấn đề có liên quan đến người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự mà lại thiếu những văn bản giải thích, hướng dẫn thi hành. Trong thực tiễn tố tụng đã phát sinh rất nhiều bất cập liên quan đến Người đại diện: xác định sai địa vị pháp lý của người đại diện, thực hiện đại diện qua nhiều cấp hoặc lúng túng trong việc một số trường hợp cụ thể… dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tố tụng, đến quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia tố tụng dân sự. Đây có phải là do các quy định của pháp luật tố tụng dân sự chưa đầy đủ hay là do ý thức, sự hiểu biết về pháp luật của các chủ thể tham gia tố tụng, các cơ quan, người tiến hành tố tụng?! Năm 2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, 7
  8. định hướng đến năm 2020 và nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Hai nghị quyết này đã xác định nhiều định hướng quan trọng, toàn diện đối với việc xây dựng hệ thống pháp luật và chương trình cải cách tư pháp. Cụ thể là Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 đã được Quốc hội sửa đổi một số điều vào năm 2011. Trong năm 2012, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ban hành một số nghị quyết: nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP, nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP, nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS đã được sửa đổi bổ sung, trong đó có nhiều quy định có liên quan đến người đại diện. Xuất phát từ thực trạng trên cho thấy việc tìm hiểu, nghiên cứu để hoàn thiện các quy định về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự đã trở thành một nhu cầu cấp bách và liên tục nhằm đáp ứng hữu ích cho các yêu cầu của thực tiễn khách quan... Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài "Người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự hiện nay ở Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong lĩnh vực tố tụng dân sự đã có nhiều tác giả, nhiều công trình nghiên cứu về người tham gia tố tụng dân sự. Tuy nhiên không có nhiều công trình nghiên cứu về người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự như luận án tiến sĩ luật học: "Bảo đảm bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự" của Nguyễn Công Bình, một số bài viết: "Người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án dân sự", của Nguyễn Công Bình, đăng trên Tạp chí Luật học số 6/1998; "Đại diện theo ủy quyền, từ pháp luật nội dung đến tố tụng dân sự", của Nguyễn Minh Hằng, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2005; "Quyền người đại diện của đương sự được quy định tại Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự", của TS. Nguyễn Văn Dũng, đăng trên Tạp chí Nghề luật, số 04/2006; "Người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của đương sự 8
  9. trong tố tụng dân sự", của tác giả Hoàng Thu Yến, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2006; "Bố mẹ có quyền đại diện cho người con bị tâm thần khởi kiện xin li hôn hay không", của Tưởng Duy Lượng, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2006; "Người mù không có người đại diện có quyền khởi kiện dân sự", của Từ Văn Thiết, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 18/2006; "Một số suy nghĩ về đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự", của Tưởng Duy Lượng, đăng trên Tạp chí Khoa học pháp luật, số 01(38), 2007; "Chế định đại diện theo qui định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ góc độ Luật so sánh", của Ngô Huy Cương, đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4/2009... Những công trình nghiên cứu này cũng chỉ đề cập một cách khái quát, chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện đối với chế định người đại diện pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu đề tài "Người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự hiện nay ở Việt Nam" nhằm những mục tiêu chủ yếu sau đây: - Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận của người đại diện trong tố tụng dân sự như khái niệm, đặc điểm, lịch sử hình thành; vai trò, giá trị pháp lý và thực tiễn trong đời sống pháp lý cũng như nền kinh tế thị trường. - Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành, thực tiễn hoạt động của người đại diện trong tố tụng dân sự. Trên cơ sở, đánh giá những ưu điểm cũng như chỉ ra những mặt hạn chế của của pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân sự. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Dựa trên cơ sở mục đích nghiên cứu của đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu được xác định như sau: 9
  10. - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về người đại diện trong tố tụng dân sự như khái niệm, đặc điểm, vai trò... của người đại diện trong tố tụng dân sự. - Nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về người đại diện trong tố tụng như quy định của BLDS năm 2004, các quy định của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi năm 2011) và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan về những vấn đề liên quan đến người đại diện, những trường hợp không được làm người đại diện, quyền và nghĩa vụ của người đại diện, hậu quả pháp lý của việc chấm dứt đại diện... - Nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện các quy định của pháp luật hiện hành về người đại diện trong tố tụng dân sự tại các Tòa án trong những năm qua. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nhà nước pháp quyền; cơ sở lý luận khoa học của các ngành luật có liên quan: khoa học luật dân sự, khoa học luật hình sự. Đồng thời việc nghiên cứu luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích thư viện, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, đánh giá và tổng kết kinh nghiệm. 6. Những kết quả đạt đƣợc của luận văn Luận văn về đề tài "Người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự hiện nay ở Việt Nam" cho ta cái nhìn đẩy đủ hơn về khái niệm, đặc điểm, vai trò người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, qua đó phản ánh đẩy đủ bản chất của quan hệ "đại diện" trong pháp luật tố tụng dân sự. Luận văn phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn phát sinh. Qua đó, đề xuất một số giải giải pháp nhằm 10
  11. hoàn thiện những quy định của pháp luật về người đại diện trong tố tụng dân sự. Những đóng góp của luận văn có giá trị không chỉ giúp cho hoạt động thực thi pháp luật mà còn trong nghiên cứu khoa học; những kiến nghị, đề xuất của luận văn là cơ sở để ban hành những văn bản pháp luật có liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về người đại diện trong tố tụng dân sự. Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về người đại diện trong tố tụng dân sự. Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự và một số kiến nghị. 11
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NGƢỜI ĐẠI DIỆN TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm ngƣời đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự Thuật ngữ "Tố tụng dân sự" được hiểu là trình tự, thủ tục hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem xét, giải quyết và thi hành các vụ việc dân sự. Trong tố tụng dân sự, các chủ thể tham gia tố tụng bao gồm đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người đại diện của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch, người giám định... Trong đó, người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự là một chủ thể cơ bản, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong tố tụng dân sự. Tố tụng dân sự là trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, các vụ án dân sự tại Tòa án; trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Hoạt động tố tụng dân sự được thực hiện bởi hai loại chủ thể khác nhau, đó là người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Nếu thiếu một trong hai loại chủ thể nêu trên thì sẽ không hình thành quan hệ tố tụng. Pháp luật tố tụng dân sự chia người tham gia tố tụng thành hai nhóm: - Nhóm thứ nhất là đương sự, là nhóm không thể thiếu trong hoạt động tố tụng, có quyền lợi, nghĩa vụ gắn liền với việc giải quyết vụ án; - Nhóm thứ hai là những người tham gia tố tụng khác, bao gồm những người có liên quan đến hoạt động tố tụng và họ không phải là những người có quyền lợi, nghĩa vụ gắn với việc giải quyết vụ án. Để tìm hiểu rõ khái niệm người đại diện trong tố tụng dân sự thì trước hết phải bắt đầu hiểu đại diện là gì? Người được đại diện là ai? 12
  13. "Đương sự" là một khái niệm cơ bản khi tiếp cận dưới nhiều góc độ. Đã có nhiều khái niệm về đương sự được đưa ra nhưng theo Từ điển Tiếng Việt thì "đương sự là người, là đối tượng trực tiếp của một việc đang giải quyết" [24, tr. 346], còn theo Từ điển Từ và ngữ Hán Việt thì đương sự là người có liên quan trực tiếp đến một việc. Trong khoa học pháp lý thì đương sự được hiểu "là người có quyền, nghĩa vụ được giải quyết trong một việc khiếu nại hoặc một vụ án " [7, tr. 165]. Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, đương sự được hiểu là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách và được liệt kê cụ thể tại khoản 1 Điều 56 BLTTDS. Theo quy định này, "đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan" [25]. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, các chủ thể thường tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ. Tuy vậy, trong một số trường hợp, người khác có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ và từ đó đã hình thành quan hệ đại diện. Những người thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật được gọi là người đại diện. Theo quy định tại Điều 139 BLDS năm 2005, "đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện" [26]. Như vậy, đại diện được hiểu là một quan hệ pháp luật, một mối liên hệ pháp lý. Đó là mối liên hệ giữa người đại diện với người được đại diện. Chủ thể của quan hệ đại diện bao gồm người đại diện và người được đại diện. Trong tố tụng dân sự, người nhân danh người khác - người được đại diện - tham gia tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được gọi là người đại diện. Người đại diện trong tố tụng dân sự có thể là cá nhân hoặc cũng có thể là pháp nhân nhưng phải là người có năng lực hành vi 13
  14. tố tụng dân sự. Người đại diện thực hiện hành vi nhân văn được người đại diện nên cần phải có một giới hạn nhất định cho hành vi đó. Giới hạn này được gọi là phạm vi thẩm quyền đại diện. Phạm vi thẩm quyền đại diện là giới hạn quyền, nghĩa vụ theo đó người đại diện nhân danh người được đại diện tham gia tố tụng dân sự. Theo quy định này, người đại diện luôn nhân danh (người khác) và vì lợi ích của người khác tham gia tố tụng dân sự trong phạm vi đại diện. Người được đại diện trong tố tụng dân sự là đương sự, có thể là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan. Họ là người ủy quyền, tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ đại diện trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Đương sự được đại diện có thể là cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng dân sự chưa đủ hoặc bị hạn chế năng lực hành vi tố tụng dân sự nên theo quy định của pháp luật phải có người đại diện. Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự có thể ủy quyền cho người khác là đại diện theo ủy quyền của mình. Các chủ thể khác là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác đều hoạt động thông qua hành vi của những người nhất định có thẩm quyền đại diện cho chủ thể đó. Mặt khác, người đại diện theo pháp luật được quy định trong Bộ luật dân sự cũng là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của pháp luật. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng được coi là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của người được bảo vệ (khoản 2 Điều 73 BLTTDS). Quan hệ đại diện có thể xác lập theo quy định của pháp luật quyết định của cơ quan có thẩm quyền hoặc cũng có thể xác định dựa theo ý chí của các chủ thể tham gia nên Điều 73 BLTTDS đã chia người được đại diện thành người đại diện theo pháp luật (cha, mẹ đối với con chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ...) và người đại diện theo ủy quyền. 14
  15. Từ những vấn đề trên có thể đưa ra kết luận: Người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự là người do pháp luật quy định hay được đương sự ủy quyền mà tham gia tố tụng dân sự thay mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự mà mình đại diện trước tòa án. 1.1.2. Đặc điểm của ngƣời đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự Đầu tiên, người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự được hình thành trên cơ sở quan hệ "đại diện". Đại diện trong tố tụng dân sự được hiểu là một quan hệ pháp luật, một mối liên hệ pháp lý trong tố tụng dân sự. Quan hệ đại diện đó có thể được xác lập theo quy định của pháp luật, theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền hoặc theo sự ủy quyền. Đó là mối liên hệ giữa người đại diện với đương sự được đại diện. Người đại diện là người nhân danh người được đại diện tham gia vào quan hệ tố tụng dân sự vì quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện. Đương sự được đại diện có thể là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan ủy quyền cho người đại diện tham gia vào các quan hệ tố tụng dân sự, tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ đại diện trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Người đại diện là người có trách nhiệm phải thực hiện những công việc nhất định trong phạm vi đại diện của mình. Về chủ thể, thông thường người đại diện của đương sự phải là các cá nhân. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng dân sự quy định có trường hợp ngoại lệ như cơ quan tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác cũng là người đại diện của đương sự. Đó là: cơ quan dân số, gia đình, trẻ em, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật Hôn nhân và gia đình quy định; Công đoàn cấp trên của Công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp càn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do Luật lao động quy định; cơ 15
  16. quan tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, bảo vệ lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mà mình phụ trách. Trong trường hợp này, pháp luật có qui định trường hợp pháp nhân có quyền khởi kiện nhưng thực tế khi tiến hành khởi kiện thì người đại diện của pháp nhân ấy phải thay mặt pháp nhân ký đơn khởi kiện. Như vậy, pháp nhân thì có quyền nhưng thực hiện quyền đó thì vẫn phải do người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Về mục đích, việc đại diện của người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự được thực hiện thông qua hành vi nhân danh "thay mặt" đương sự thực hiện những quyền, nghĩa vụ mà đáng lẽ đương sự mình thực hiện. Hoạt động đó của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự bao giờ cũng có mục đích: Một mặt, việc tham gia tố tụng của họ góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhất là trong trường hợp đương sự là người không có, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi tố tụng dân sự. Mặt khác, việc tham gia tố tụng của họ còn có tác dụng nhất định trong việc làm rõ sự thật của vụ việc dân sự. Về năng lực hành vi tố tụng dân sự, để thực hiện việc đại diện, người đại diện của đương sự phải là người có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự có mối quan hệ mật thiết với năng lực hành vi dân sự. Một chủ thể được xác định là có năng lực hành vi tố tụng dân sự nếu chủ thể đó có năng lực hành vi dân sự. Những người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì không thể thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án được. Theo quy định của pháp luật hiện hành, người có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ là người từ 18 tuổi trở lên. Vì vậy, chỉ có những người này mới có thể trở thành người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt mà pháp luật quy định, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền (khoản 3 Điều 142 BLDS). 16
  17. Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự còn được qui định trong BLDS, đó là: Quyền dân sự của các cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định trong Bộ luật dân sự được pháp luật bảo hộ. Khi các quyền này bị vi phạm thì những người được hưởng quyền có thể yêu cầu Nhà nước bảo vê. Đây chính là năng lực pháp luật tố tụng dân sự. Khoản 1 Điều 57 BLDS năm 2005 định nghĩa: Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cá nhân có năng lực dân sự từ khi sinh ra, pháp nhân có năng lực từ khi được thành lập hoặc đăng ký hoạt động. Tuy nhiên, không phải cứ có năng lực pháp luật dân sự là cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự của mình ngay được mà phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định về độ tuổi, trí tuệ (đối với cá nhân); người đại diện (đối với pháp nhân)... Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của người đại diện luôn gắn liền với quyền và nghĩa vụ của người được đại diện, phụ thuộc vào người được đại diện. Bởi lẽ người đại diện là người "thay mặt" cho đương sự thực hiện những quyền và nghĩa vụ mà đáng lẽ đương sự phải thực hiện. Chính vì là "thay mặt" nên người đại diện chỉ có thể thực hiện được những quyền, nghĩa vụ của đương sự. Người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự không tự nhiên có các quyền, nghĩa vụ khác ngoài quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Đối với người đại diện theo ủy quyền, họ chỉ được thực hiện các quyền, nghĩa vụ trong phạm vi ủy quyền. 1.1.3. Vai trò của ngƣời đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự Theo cách giải thích trong Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2003 thì khái niệm "vai trò "được hiểu là "tác dụng, chức năng của một vật, một cá thể, một sự kiện... một cái gì đó" [24, tr. 1095]. Như vậy, nói 17
  18. đến vai trò của người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự là nói đến những tác động, ảnh hưởng của người đại diện đối với từng cá nhân, tổ chức trong tố tụng dân sự thông qua hoạt động đại diện của mình..., là nói đến những tác động, ảnh hưởng của người đại diện đối với quá trình xây dựng và phát triển tạo lập công bằng xã hội. Vai trò của người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự thể hiện ở những điểm sau đây: Một là, việc tham gia tố tụng của họ có tác dụng đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhất là trong trường hợp họ là người không có, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi tố tụng dân sự. Hai là, việc tham gia tố tụng của họ còn có tác dụng nhất định trong việc là rõ sự thật của vụ việc dân sự. Bên cạnh đó, hoạt động của họ còn thúc đẩy sự dân chủ, tiến bộ của xã hội... góp phần hoàn thiện và bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc xác định đúng đắn vai trò của người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Các hoạt động của người đại diện trong pháp luật tố tụng dân sự có tác động không chỉ đến hoạt động của những người tham gia tố tụng mà đến cả hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng. Đối với cơ quan tiến hành tố tụng thì việc đánh giá đúng vai trò của người đại diện của đương sự sẽ tạo ra sự phối hợp cần thiết giữa Tòa án và người đại diện trong việc đi tìm ra sự thật, qua đó đảm bảo những quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà mình đại diện. Đối với đương sự, việc xác định đúng vai trò của người đại diện sẽ giúp cho họ biết được cách thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Qua người đại diện, không những họ bảo vệ được quyền, lợi ích của mình mà còn nâng cao được lợi ích pháp luật, tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Ngoài ra, chính bản thân người đại diện cũng cần được xác định đúng vai trò của mình trong tố tụng dân sự. Nếu xác định đúng vị trí, vai trò của 18
  19. mình họ sẽ tự tin hơn, chủ động hơn trong việc thay mặt đương sự thực hiện những quyền, nghĩa vụ nhất định. Họ sẽ biết mình phải làm gì và làm như thế nào để thực hiện tốt đúng chức trách của họ - những người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự. 1.1.4. Sự khác nhau giữa ngƣời đại diện và ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự Trong tố tụng dân sự, ngoài người đại diện của đương sự còn có người khác được đương sự nhờ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Người này được gọi là người bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của đương sự, "người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người có đủ các điều kiện do pháp luật quy định và được đương sự yêu cầu tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho họ" [24, tr. 120]. Sở dĩ có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là bởi vì trong nhiều trường hợp đương sự (hoặc người đại diện của đương sự) thường không đủ kiến thức, hiểu biết cũng như trình độ chuyên môn về luật pháp để tự bảo vệ quyền và lợi ích cho mình (hoặc cho người mà họ đại diện) và họ phải nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích cho mình. Tuy nhiên, trong hoạt động tố tụng, người đại diện đôi khi không đồng nhất là người bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Xét về tổng thể thì quy định của pháp luật về người đại diện và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự tương đối giống nhau như cùng mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, có một số quyền và nghĩa vụ tương tự... nhưng bên cạnh đó còn một số điểm khác biệt nhất định. Thứ nhất, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng dân sự độc lập với đương sự. Tuy cùng tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự nhưng việc tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp 19
  20. pháp của đương sự khác với người đại diện của đương sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng song song cùng đương sự. Khi tham gia tố tụng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có vị trí pháp lý tương đối độc lập với đương sự, không bị ràng buộc bởi việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự như người đại diện. Việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự chủ yếu bằng việc hỗ trợ, giúp đỡ đương sự về nhận thức pháp luật và bằng việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Thứ hai, về chủ thể, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải là người có đủ điều kiện do pháp luật quy định. Theo quy định của BLTTDS thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng không nhất thiết phải là Luật sư. Tuy vậy, khác với trường hợp người đại diện, pháp luật qu định chặt chẽ điều kiện làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà không phải là Luật sư. Họ phải là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đẩy đủ (18 tuổi trở lên), chưa bị kết án nhưng đã được xóa án tích, không đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, quản chế hành chính và không phải là cán bộ, công chức trong các ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an. Ngoài ra, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cần "được Tòa án chấp nhận" (Điều 63 BLTTDS). Nếu Tòa án chấp nhận thì sẽ cấp "Giấy chứng nhận bảo vệ quyền đương sự". Thực chất đây là một loại "giấy phép" nhằm mục đích kiểm tra và giám sát hoạt động của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự trong tố tụng dân sự. Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự do pháp luật quy định. Theo quy định của BLTTDS thì người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự chỉ được thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được quy định tại Điều 64 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2