intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

40
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn này nghiên cứu hướng tới mục đích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về vị trí, vai trò, quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong tòa án, thông qua đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng của những người này trong quá trình xét xử giải quyết vụ án hình sự. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015

  1. ĐẠI HỌC QUỐCaGIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẢI PHƢƠNG NGƢỜI TIẾN HÀNHaTỐ TỤNG TRONG TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠCaSĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSaNguyễn Ngọc Chí HÀ NỘI –2020
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quảanêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụavà trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thànhatất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời camađoan này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chânathành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Hải Phƣơng i
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài .............................................................................. 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................................. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .......................................................... 5 a. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................................. 5 b. Phạm vi.................................................................................................................... 5 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ...................................................... 5 6. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 6 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...1 1.1. Khái niệm ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân ............ 1 1.2. Cơ sở của việc quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, quyền và nghĩa vụ của ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân ........................ 10 1.2.1. Yêu cầu giải quyết vụ án hình sự và yêu cầu xét xử .......................................13 1.2.2. Cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thực hiện quyền tư pháp............ 15 1.2.3. Yêu cầu phát triển đất nước, xã hội ................................................................ 17 1.2.4. Cơ cấu tổ chức tòa án ...................................................................................... 17 1.2.5. Số lượng, năng lực, trình độ của Đội ngũ thẩm phán và cán bộ của tòa án ....18 1.3. Mối quan hệ giữa ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong TAND với ngƣời tiến hành tố tụng hình sự khác và mối quan hệ giữa ngƣời tiến hành tố tụng trong TAND với nhau ............................................................................................. 19 1.3.1. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND với những người tiến hành tố tụng hình sự trong Cơ quan điều tra ........................................... 19 1.3.2. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND với những người tiến hành tố tụng hình sự cơ quan Viện kiểm sát ........................................... 20 1.3.3. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án, Phó Chánh án Tòa án .............. 22 ii
  4. 1.3.4. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên ....................................................................................................................... 23 1.4. Ngƣời tiến hành tố tụng trong toà án theo luật tố tụng hình sự của một số nƣớc trên thế giới ....................................................................................................24 1.4.1. Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án của Hàn Quốc ........................ 24 1.4.2. Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án của (CHDCND) cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa .................................................................................. 26 1.4.3. Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án của Cộng hoà Pháp ................ 29 1.4.4 Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án của liên bang Hoa Kỳ ............. 31 Kết luận chương 1 .....................................................................................................37 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TÒA ÁN NHÂN DÂN .......................................................................................................38 2.1. Thực trạng ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân .........38 2.1.1. Thực trạng Pháp luật về người tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân ............................................................................................................................. 38 2.1.2. Thực trạng người tiến hành tố tụng trong Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay .................................................................................................55 2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lƣợng hiệu quả hoạt động của ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân ....................................................... 65 2.2.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật ............................................................ 65 2.2.2. Một số giải pháp khác ..................................................................................... 66 Kết luận chương 2 .....................................................................................................74 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 77 iii
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắta Tiếng Việt BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX : Hội đồng xét xử TAND : Toà án nhân dân THTT : Tiến hành tố tụng CHXHCN : Cộng hoà xã hội chủ nghĩa iv
  6. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Số lượng Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký ................................ 56 Bảng 2.2. Chất lượng Thẩm phán Toà án ....................................................... 57 Bảng 2.3: Số lượng án giải quyết từ năm 2014-2018 ..................................... 62 Bảng 2.4: Tỷ lệ, nguyên nhân án hủy, sửa từ năm 2014-2018 ....................... 63 v
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Toà án là trung tâm, hoạt động xét xử là trọng tâm và được xác định là khâu đột phá trong chiến lược cải cách tư pháp mà Nghị quyết 49, năm 2005 của Bộ Chính trị đã đề ra. Trên cơ sở này, Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định tổ chức, nguyên tắc hoạt động của hệ thống Tòa án nước ta. Theo đó, Hệ thống Tòa án nhân dân bao gồm: Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương và hệ thống tòa án quân sự. Tòa án có chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp, đồng thời để thực hiện được chức năng này luật quy định người tiến hành tố tụng trong tòa án với các quyền hạn, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ tương ứng với mỗi loại người tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung theo hướng “phân định hợp lý thẩm quyền giữa các cấp tòa án nhằm tháo gỡ khó khăn cho cấp huyện; theo đó, bổ sung cho tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài, vụ án liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, vụ án mà bị cáo là thẩm phán, điều tra viên, kiểm sát viên, cán bộ chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người”. Trên cơ sở này, BLTTHS năm 2015 cũng quy định thẩm quyền cho người có thẩm quyền THTT nói chung và người THTT trong tòa án nói riêng với định hướng “những thẩm quyền có tính chất quyết định việc “đóng, mở” một giai đoạn tố tụng, những thẩm quyền liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân giao cho thủ trưởng cơ quan tố tụng quyết định; hầu hết những thẩm quyền có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho điều tra 1
  8. viên, kiểm sát viên, thẩm phán trực tiếp quyết định” [48, tr 26]. Do đó, quyền hạn, trách nhiệm của Chánh án, phó Chánh án tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên, Thư ký tòa án có những quy định riêng tương ứng với vị trí của từng chức danh tố tụng. Quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản liên quan đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho người THTT trong tòa án tiến hành các hoạt động tố tụng giải quyết vụ án bảo đảm xét xử vụ án khách quan, công bằng, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người không làm oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm. Thực tiễn tố tụng hình sự nước ta cho thấy người tiến hành tố tụng trong Tòa án nhân dân có vai trò quan trọng, trong quá trình xét xử giải quyết vụ án; Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được còn bộc lộ những hạn chế như: Có những vi phạm pháp luật trong quá trình xét xử nhất là trong việc định tội và quyết định hình phạt, xử lý mức bồi thường thiệt hại đối với người phạm tội; còn chưa thực sự tạo điều kiện để bị cáo và người tham gia tố tụng khác thực hiện quyền bào chữa, quyền tranh tụng tại phiên tòa…do đó, không những đã vi phạm quyền con người của người bị cáo buộc phạm tội mà còn làm cho vụ án không được giải quyết khách quan…. Hạn chế nêu trên có những nguyên nhân khách quan, chủ quan do đó đã ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, không đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp mà Nghị quyết 49 chỉ ra và định hướng tôn trọng, ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền con người của Hiến pháp năm 2013 và quy định của BLTTHS năm 2015. Vì vây, học viên lựa chọn đề tài: “Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề cải cách tư pháp hiện nay đang được đặt lên hàng đầu đặc biệt là Tòa án nhân dân trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay đang là một vấn đề cấp bách và được nhiều người đề cập tới như: TS Nguyễn Ngọc Chí-Khoa 2
  9. luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Hoàn thiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hình sự. T.S Nguyễn Ngọc Chí, Đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự. “Giáo trình luật tố tụng hình sự” Khoa luật- Đại học Quốc gia Hà Nội. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Th.S Đinh Văn Quế, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2007. Luận vănNgười tiến hành tố tụng trong Tòa án nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nguyễn Thị Diệu Hiền, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Bên cạnh đó cũng có những giáo trình luật tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học quốc gia Hà Nội, các sách chuyên khảo đều có những chương riêng viết về cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Trên chuyên trang của báo pháp luật hình sự, tố tụng hình sự có rất nhiều bài viết của các tác giả liên quan đến cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Giáo trình pháp luật nước ngoài cũng có những chương viết về những vấn đề liên quan. Trong cuốn giáo trình giới thiệu hệ thống pháp luật Hoa Kỳ tại chương 7 là bài viết về các thẩm phán liên bang. Qua quá trình tham khảo trên đây cho thấy ở trong nước và ngoài nước đã có một số công trình nghiên cứu về người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ chung và chưa khái quát được người tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân ở một số công trình nghiên cứu hay một số bài viết. Năm 2015 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam ra đời thì hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào về người tiến hành tố tụng theo quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bộ luật này đã thêm người tiến tố tụng là 3
  10. Thẩm tra viên và tăng thẩm quyền của cho một số người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án. Do đó, tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu nhằm làm rõ các vấn đề về lý luận chung cũng như quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong Tòa án. Bên cạnh đó tác giả nghiên cứu những quy định về người tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án ở một số nước trên thế giới để thấy được chúng ta học tập và tiếp thu những kiến thức của thế giới nhằm hoàn thiện hơn Bộ luật tố tụng hình sự của Việt Nam. Đề tài “Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015” theo Bộ luật hiện nay là đề tài mang tính cấp thiết, đòi hỏi tính khách quan, vừa có lý luận, vừa có thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích Đề tài được nghiên cứu hướng tới mục đích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về vị trí, vai trò, quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong tòa án, thông qua đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng của những người này trong quá trình xét xử giải quyết vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ Từ mục đích nêu trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ cụ thể như sau: Khái quát được những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm, vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong cơ quan Toà án. Quy định của pháp luật Việt Nam, nhất là quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong Toà án. Thực trạng áp dụng các quy đinh của Bộ luật tố tụng hình sự về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng trong Toà án. 4
  11. Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Toà án các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài a. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các lý thuyết và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng hình sự trong cơ quan Tòa án và thực tiễn xét xử, áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án hình sự của người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án. b. Phạm vi Trên cơ sở mục đích, đối tượnganghiên cứu đã xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu nghiên cứu về những gì liên quan đến vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam. Luận văn còn nghiên cứu quy định của một số nước trên thế giới về người THTT trong Toà án, trên cơ sở rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Thực tiễn hoạt động của người THTT trong TAND trong khoảng 5 năm trở lại đây trên địa bàn thành phố Hà Nội. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài được thựcahiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và pháp luật về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp ở nước ta. 5
  12. Quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp diễn dịch, phương pháp thống kê, điều tra xã hội học về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa học: Luật hình sự, luật TTHS. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở đầu, hai chương và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo cụ thể: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân theo luật tố tụng hình sự. Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Tòa án nhân dân. 6
  13. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm ngƣời tiến hành tố tụng hình sự trong Tòa án nhân dân Để giải quyết vụ án hình sự đòi hỏi phải có các chủ thể tố tụng, trong đó có người tiến hành tố tụng trong các cơ quan đại diện công quyền thực hiện các chức năng của TTHS. Người tiến hành tố tụng trong tòa án là những người trực tiếp thực hiện chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp với các quyền hạn, trách nhiệm tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Vì lẽ đó người THTT trong TTHS có một số đặc điểm nổi bật sau: Thứ nhất, Người THTT trong tòa án là các chủ thể trực tiếp thực hiện chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp của tòa án Trong bộ máy nhà nước, Toà án là một trong những chủ thể thực hiện quyền tư pháp. Do đó, quyền tư pháp không thể thực hiện một cách độc lập nếu hoạt động xét xử của Toà án không độc lập. Sự độc lập của Toà án được hiểu trong các mối quan hệ theo chiều ngang với các cơ quan, tổ chức bên ngoài hệ thống toà án, theo chiều dọc với Toà án cấp trên và Toà án cấp dưới. Chức năng của các cơ quan nhà nước nói chung là xác định những phương diện hoạt động chủ yếu của cơ quan nhà nước đó. Chức năng chung của Nhà nước là quản lý xã hội. Thông qua việc sử dụng một thứ quyền lực đặc biệt để đảm bảo cho mọi tổ chức, công dân trong xã hội phải phục tùng nhằm thực hiện chức năng quản lý xã hội. Trong bất kỳ thể chế chính trị nào, nhà nước đều có mục đích cuối cùng là biến ý chí giai cấp thống trị thành pháp luật và dùng mọi biện pháp trong đó có sức mạnh cưỡng chế, bạo lực của bộ máy bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Về cơ bản chức năng của nhà nước được thực hiện dưới ba hình thức: Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật 1
  14. và bảo vệ pháp luật. Ba hình thức trở thành chức năng của ba bộ phận cấu thành quyền lực nhà nước là quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền tư pháp theo nghĩa được giao cho hệ thống toà án – là hệ thống cơ quan độc lập được nhà nước tổ chức ra và giao cho chức năng xét xử, không có cơ quan nào có thể thay thế toà án để thực hiện chức năng xét xử. Hoạt động xét xử của toà án có vai trò, ý nghĩa to lớn, thông qua hoạt động này công lý được thực thi, pháp luật được chấp hành, quyền công dân và quyền con người được bảo vệ. Bản chất hoạt động của toà án là hoạt động áp dụng pháp luật dưới hình thức, phương thức xét xử, nó không thực hiện việc sáng tạo luật, không thực hiện hoạt động điều hành. Qua hoạt động của mình, Toà án có chức năng chuyển tải ý chí của giai cấp thống trị vào đời sống xã hội. Do đó, nếu hoạt động của toà án khách quan, minh bạch, áp dụng đúng pháp luật trong xét xử thì sẽ chuyển tải được quyền lực nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị một cách khách quan, thể hiện đúng bản chất của pháp luật và quyền lực đích thực của nhà nước. Ngoài ra, Toà án còn có chức năng là động lực thúc đẩy sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Thông qua hoạt động áp dụng pháp luật của toà án, những yếu kém, lạc hậu của pháp luật sẽ được bộc lộ. Thông qua hoạt động xét xử Toà án còn có chức năng tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Việc xét xử đúng pháp luật có tác động vào ý thức con người, giúp họ nâng cao ý thức pháp luật, góp phần tạo định hướng dư luận lên án những hành vi tội ác, khuyến khích hành vi tôn trọng pháp luật, răn đe các tư tưởng coi thường pháp luật. V.I. Lênin đã viết: “Toà án cần phải đảm đương một nhiệm vụ khác còn quan trọng hơn nữa. Đó là nhiệm vụ bảo đảm cho người lao động chấp hành một cách nghiêm chỉnh nhất kỷ luật và kỷ luật tự giác,…” 2
  15. Chức năng, quyền hạn, trách nhiệm nêu trên của tòa án chỉ có thể thực hiện được thông qua những con người cụ thể, đó là người tiến hành tố tụng trong tòa án mà trước hết là thẩm phán. Thẩm phán là người trực tiếp thực hiện chức năng xét xử. Việc quy định Toà án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án trong đó có án hình sự là nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tránh những việc làm tuỳ tiện, bởi vì không phải bất cứ ai hay bất cứ tổ chức nào cũng có quyền kết tội một công dân. Chỉ có Toà án là cơ quan được pháp luật của Nhà nước quy định có quyền thay mặt nhà nước ra phán quyết một người là có tội hay không và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, để thực hiện được nhiệm vụ trên thì thẩm phán- người trực tiếp giải quyết các vụ án và đưa ra phán quyết giữ một vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng. Thẩm phán được giao nhiệm vụ quyết định tối cao về sinh mạng, tự do, các quyền, trách nhiệm và tài sản của công dân. Như vâỵ, hoạt động xét xử là việc phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp các hành vi của chủ thể pháp luật. Một phán quyết của Thẩm phán liên quan trực tiếp đến sức khoẻ, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân. Nó ảnh hưởng tới những lợi ích của nhà nước, của các tổ chức và những giá trị được thừa nhận chung trong xã hội. Do đó, nảy sinh nhu cầu hoạt động xét xử cần phải đảm bảo tính cẩn trọng kỹ lưỡng, tỉ mỉ. Đây chính là cơ sở của việc Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình. Khi Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những quyết định của mình thì những quyết định của Thẩm phán sẽ cẩn trọng hơn, kỹ lưỡng hơn. Từ đó việc xét xử sẽ đúng người, đúng tội, đảm bảo công lý, bất bình đẳng không xảy ra. Ngoài thẩm phán còn có những người khác tham gia vào việc thực hiện chức năng xét xử của tòa án, như Hội thẩm/ bồi thẩm, thư ký tòa án, và Chánh án, phó Chánh án. Chánh án, Phó chánh án toà án bên cạnh việc thực hiện chức năng xét xử còn thực hiện chức năng hành chính tư pháp với tư cách là 3
  16. người đứng đầu tòa án, chịu trách nhiệm đối với toàn bộ hoạt động của tòa án trong quá trình xét xử. Thứ hai, Khi hoạt động xét xử chủ thể tiến hành tố tụng trong tòa án có các quyền hạn, trách nhiệm; quyền và nghĩa vụ tố tụng do pháp luật quy định. Để thực hiện chức năng xét xử thì cần phải có đội ngũ những người THTT hình sự trong Tòa án nhân dân. Những người THTT hình sự trong Tòa án là những người trực tiếp thực hiện hoạt động xét xử và Hội đồng xét xử quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Do đó, để pháp luật được nghiêm minh, công tác xét xử đạt hiệu quả phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động của người THTT hình sự trong TAND. Chức năng, nhiệm vụ của họ đặc biệt quan trọng, điều này đòi hỏi họ phải vô tư, khách quan, công bằng trong hoạt động xét xử của mình. Bên cạnh đó thì trình độ chuyên môn, năng lực của người THTT hình sự trong TAND này phải được bồi dưỡng, nâng cao. Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người THTT đều phải tuân theo quy định của pháp luật, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó. Bởi lẽ, đây là những nhiệm vụ, quyền hạn Nhà nước trao cho người THTT, mà không trao cho bất kỳ một chức danh nào khác trong bộ máy Nhà nước. Chỉ những người THTT trong tòa án mới có thẩm quyền xét xử giải quyết vụ án hình sự, do đó họ có các quyền hạn, trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ tố tụng để thực hiện chức năng xét xử. Quyền hạn, trách nhiệm; quyền và nghĩa vụ tố tụng của những người tiến hành tố tụng trong tòa án, tương ứng với vị trí, vai trò của họ trong hoạt động xét xử giải quyết vụ án hình sự. Những người tiến hành TTHS có nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng hoạt động của họ có mối liên hệ mật thiết, thống nhất với nhau và đều có trách nhiệm là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích 4
  17. của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. “Khi THTT giải quyết các vụ án, người THTT không được lợi dụng quyền tiến hành giải quyết vụ án xâm phạm đến quyền của những người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo”[44]. Như vậy, vai trò của người THTT trong cơ quan Toà án có thể coi là người duy nhất được Nhà nước, cụ thể là Toà án giao trách nhiệm thực hiện các hành vi tố tụng trong hoạt động khởi tố, xét xử vụ án hình sự. Những người tiến hành TTHS trong cơ quan Toà án là người nhân danh Toà án thực hiện các hoạt động TTHS theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Người tiến hành TTHS là người có vai trò quan trọng, giữ vị trí trung tâm trong hoạt động TTHS. Thứ ba, Những người tiến hành tố tụng hình sự trong tòa án được bầu hoặc bổ nhiệm theo trình thủ tục pháp luật quy định Điều kiện để bầu và bổ nhiệm người THTT ở mỗi quốc gia là khác nhau, tuỳ theo quy định của quốc gia đó. Thông thường đều có các tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, trình độ pháp luật, học vấn, năng lực chuyên môn. Ở Việt Nam, người THTT trước hết phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tiêu chuẩn về sức khoẻ. Việc bầu và bổ nhiệm người THTT phải tuân thủ các tiêu chuẩn chặt chẽ do pháp luật quy định sao cho phù hợp với nhiệm vụ mà ngành tư pháp đặt ra đối với những cá nhân thực hiện hoạt động của cơ quan THTT. Theo BLTTHS năm 2015 thì người tiến hành tố tụng trong TAND bao gồm: Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thẩm tra viên và thư ký Toà án. Họ là những người trực tiếp được tuyển dụng vào hệ thống Toà án, được bổ nhiệm của Chủ tịch nước, được Hội đồng đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện bầu để thực hiện nhiệm vụ theo tố tụng. 5
  18. Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án thì cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân bao gồm: Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên. Như vậy Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tòa án, Thẩm tra viên là những người THTT trong Tòa án nhân dân. Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký tòa án, Thẩm tra viên là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm theo quy định của pháp luật. Hội thẩm nhân dân không được biên chế trong Tòa án nhân dân họ được Mặt trận tổ quốc hiệp thương và bầu ra đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân ở nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau tham gia vào hoạt động xét xử nhằm thể hiện quyền lực làm chủ của người dân. Nhà nước ta là của dân, do dân và vì dân [35,tr.30]. Người tiến hành tố tụng là một chức danh tư pháp thể hiện cấp bậc, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của một người được Nhà nước bổ nhiệm nếu đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định và được giao nhiệm vụ tiến hành các hoạt động trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định [43,tr 9]. Như vậy, người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm, bầu theo quy định của pháp luật để thực hiện các chức năng của Toà án nhân dân. Mỗi người có chức năng, vị trí, vai trò khác nhau, khi tiến hành tố tụng luôn đảm bảo tính khách quan, công bằng và bình đẳng, đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự. Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân là loại chủ thể quan trọng của Tố tụng hình sự. Việc bổ nhiệm các chủ thể THTT trong cơ quan Toà án theo điều kiện và cách thức do luật định. Điều kiện và cách thức bổ nhiệm người tiến hành TTHS ở mỗi nước là khác nhau, tuỳ theo quy định pháp luật TTHS nước đó. 6
  19. Tuy nhiên, thông thường đều quy định các điều kiện về phẩm chất, chính trị, trình độ pháp luật, học vấn, năng lực chuyên môn. Thứ tư, hoạt động của những người THTT trong tòa án hướng tới mục tiêu giải quyết vụ án khách quan, dân chủ, công bằng không bỏ lọt tội phạm không làm oan người vô tội; bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý Trong Toà án thì người THTT giữ vị trí trung tâm trong hoạt động tố tụng và tạo nên uy tín, sức mạnh của Toà án. Người THTT được pháp luật quy định có nhiệm vụ quyền hạn thực hiện giải quyết các vụ án hình sự. Hoạt động của người THTT có ý nghĩa quyết định đến tính chính xác, khách quan của bản án, quyết định của Toà án. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự luôn tiềm ẩn những yếu tố có thể ảnh hưởng đến sự vô tư khách quan của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký toà án. Các biểu hiện đó trên thực tế thường phức tạp, đa dạng và xuất phát từ nhiều nguyên nhân, chủ thể khác nhau. Tất cả sự không vô tư, khách quan của người THTT với bất kỳ mục đích nào đều ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của họ. Chính vì vậy người THTT khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn luôn phải nắm vững được nhiệm vụ nặng nề của mình và phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó. Điều này sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của người THTT trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Người THTT có hành vi không vô tư khách quan giải quyết vụ án hình sự dẫn đến oan sai thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Bên cạnh đó thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia cũng là một quy định thể hiện sự tham gia của nhân dân vào quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chế định Hội thẩm nhân dân đã đưa tiếng nói của nhân dân vào quá trình xét xử, giúp cho việc xét xử khách quan, phù hợp với quyền 7
  20. lợi và nguyện vọng của nhân dân cũng như bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân trực tiếp thực hiện quyền tư pháp. Hoạt động xét xử của toà án có vai trò, ý nghĩa to lớn, thông qua hoạt động này công lý được thực thi, pháp luật được chấp hành, quyền công dân và quyền con người được bảo vệ. Qua hoạt động của mình, Toà án có chức năng chuyển tải ý chí của giai cấp thống trị vào đời sống xã hội. Do đó, nếu hoạt động của toà án khác quan, minh bạch, áp dụng đúng pháp luật trong xét xử thì sẽ chuyển tải được quyền lực nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị một cách khách quan, thể hiện đúng bản chất của pháp luật và quyền lực đích thực của nhà nước. Tố tụng hình sự là quá trình chứng minh tội phạm và người phạm tội, vì vậy luôn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất của con người, của công dân. Yêu cầu đặt ra là phải quy định và kiểm soát nghiêm ngặt quá trình này. Theo Hiến pháp năm 2013 quy định về dân chủ, pháp quyền, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Việc áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ được giao cho thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng quy định chặt chẽ căn cứ, điều kiện tiến hành các biện pháp tố tụng nhằm tránh lạm dụng. Bất kỳ hành vi nào trong quá trình giải quyết vụ án đều không thể chấp nhận và cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải đối diện với những chế tài như: Chứng cứ đã thu thập sẽ bị tuyên vô hiệu, ngoài ra người tiến hành tố tụng vi phạm còn phải bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này đòi hỏi người THTT phải thay đổi nhận thức, thói quen, cách làm để kịp thời đáp ứng những yêu cầu mới của pháp luật. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân luôn đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội.Nguyên tắc suy đoán vô tội là nguyên tắc quan trọng có tính chất nền tảng. Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948 khẳng định: “Bất kỳ người nào bị buộc tội đều có 8
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2