intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam và giải pháp phòng ngừa

Chia sẻ: Cỏ Xanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:112

109
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tập chung nghiên cứu những vấn đề lý luận về đồng điện tử qua mạng Internet – phương tiện điện tử được sử dụng phổ biến và có tầm ảnh hưởng, chi phối lớn nhất trong giao kết hợp đồng điện tử hiện nay mà không mở rộng nghiên cứu hợp đồng được giao kết thông qua các phương tiện điện tử khác như điện thoại, điện tín, điện báo hay fax.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam và giải pháp phòng ngừa

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ HÀ MY NHỮNG RỦI RO TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ HÀ MY NHỮNG RỦI RO TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. VƢƠNG THANH THÚY Hà Nội – 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn ! NGƢỜI CAM ĐOAN HOÀNG THỊ HÀ MY
  4. DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT (ASEAN) Liên hiệp các nước Đông Nam Á (BLDS) Bộ luật dân sự (TMĐT) Thương mại điện tử (UNECE) Ủy ban Kinh tế Châu âu của Liên hợp quốc (UNCITRAL) Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ 1.1. Khái niệm ...................................................................................................... 9 1.2. Đặc điểm của hợp đồng điện tử ................................................................ 11 1.3. Vai trò của hợp đồng điện tử .................................................................... 15 1.4. So sánh hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống ............................. 18 1.4.1. Sự giống nhau............................................................................................ 19 1.4.2. Sự khác nhau: ............................................................................................ 20 1.5. Pháp luật về hợp đồng điện tử của một số quốc gia trên thế giới ......... 23 1.5.1. Pháp luật quốc tế về hợp đồng điện tử ..................................................... 23 1.5.2. Pháp luật về hợp đồng điện tử của một số quốc gia trên thế giới ............ 25 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ VÀ NHỮNG RỦI RO THƢỜNG GẶP TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM .............................................................................. 31 2.1. Thực trạng pháp luật về hợp đồng điện tử tại Việt Nam ....................... 31 2.1.1. Giao kết hợp đồng điện tử ......................................................................... 32 2.1.2. Hình thức của hợp đồng điện tử ............................................................... 45 2.1.3.Nội dung của hợp đồng .............................................................................. 46 2.1.4. Về vấn đề chữ ký trong hợp đồng điện tử ................................................. 51 2.2. Những rủi ro thƣờng gặp trong hợp đồng điện tử .................................. 54 2.2.1 Thiếu những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh, hướng dẫn việc giao kết hợp đồng điện tử qua website theo mô hình C2C. ........................................ 55 2.2.2. Thiếu những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh, hướng dẫn việc giao kết hợp đồng điện tử theo mẫu trên website. ...................................................... 56 2.2.3. Rủi ro về công chứng hợp đồng điện tử .................................................... 58 2.2.4. Khách hàng bị lộ thông tin cá nhân trong khi giao kết hợp đồng điện tử 60 2.2.5. Chưa có quy định cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài. ................................................................................................................... 63 2.2.6. Chưa có quy định cụ thể hướng dẫn giải quyết tranh chấp liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. ....................................................... 64 2.2.7. Những quy định hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử chưa đầy đủ, chưa cụ thể. ......................................................................................................... 66 2.2.8. Quyền lợi của người tiêu dùng có nguy cơ bị vi phạm – thế yêu của một bên trong giao kết hợp đồng điện tử ................................................................... 67 CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VÀ NGƢỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM .................................................................. 73 3.1.Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử tại Việt Nam ....... 73
  6. 3.1.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể viêc giao kết hợp đồng điện tử qua website theo mô hình C2C. ......................... 74 3.1.2. Xây dựng và ban hành các quy định pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể việc giao kết hợp đồng điện tử theo mẫu trên website. ............................ 75 3.1.3. Xây dựng thiết chế công chứng hợp đồng điện tử .................................... 78 3.1.4. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật riêng về bảo vệ dữ liệu cá nhân, kết hợp tăng cường bảo đảm an toàn thông tin trong giao kết hợp đồng điện tử.................................................................................................. 79 3.1.5. Ban hành hướng dẫn cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài ........................................................................................................... 81 3.1.6. Bổ sung các quy định cụ thể hơn về giải quyết tranh chấp liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng.................................................................... 82 3.1.7. Bổ sung thêm các quy định cụ thể hướng dẫn việc giao kết hợp đồng điện tử .................................................................................................................. 85 3.1.8. Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử .. 86 3.2. Những kiến nghị đối với doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng Việt Nam trong giao kết hợp đồng điện tử ....................................................................... 90 3.2.1. Giải pháp đối với doanh nghiệp................................................................ 90 3.2.2. Giải pháp đối với người tiêu dùng ............................................................ 96 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 103
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Bước vào thế kỷ thứ XX cùng với sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet và những ứng dụng của nó đã đưa loài người bước sang một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức. Sự ra đời và phát triển của thương mại điện tử đã khiến các giao dịch thương mại ngày càng phát triển, mở rộng và tự do bởi sự tiện lợi của nó. Sự tự do ở đây không phải là thiếu tính kiểm soát mà nó thể hiện ở sự vượt qua những rào cản về không gian, thời gian của các quy trình giao kết hợp đồng truyền thống, đẩy nhanh tốc độ, khối lượng giao dịch cũng như nhanh chóng nắm bắt cơ hội thiết lập các mối quan hệ đa phương của thương mại quốc tế. Cùng với những tiện ích to lớn mà việc ứng dụng công nghệ tin học vào các hoạt động thương mại cũng đã đặt ra nhiều các vấn đề ở cả phạm vi các quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế về việc hình thành cơ sở pháp lý, tạo môi trường thuận lợi, thúc đấy sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động thương mại điện tử hướng tới mục tiêu vì con người, đồng thời hạn chế, khắc phục những mặt trái của nó mang lại hoặc giải quyết những tranh chấp của nó trong quá trình ứng dụng và phát triển. Điều đó đã đặt ra cho mỗi quốc gia phải từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thương mại điện tử, đáp ứng được sự phù hợp với những đặc trưng vốn có của loại hình thương mại luôn có xu hướng vượt qua những rào cản về không gian địa lý, thu hẹp toàn cầu thành một thị trường chung, phi biên giới. Ở các quốc gia phát triển, trước những yêu cầu đòi hỏi mạnh mẽ của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thương mại, với bề dày truyền thống trong lĩnh vực thương mại điện tử, không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn hướng mạnh ra thị trường quốc tế đã từng bước xây dựng cho quốc gia mình những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thương mại điện tử. Vì vậy cho đến nay các nước này các quốc gia nay đã có một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh điều chỉnh các vấn đề thương mại và thương mại 1
  8. điện tử nói riêng. Ngoài ra những nước phát triển cũng đa góp phần quan trọng cùng với các quốc gia khác xây dựng và hoàn thành các hệ thống pháp luật quốc tế có liên quan đến các lĩnh vực thương mại điện tử, tạo ra khuôn khổ pháp lý thống nhất trên phạm vi quốc tế, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển của thương mại toàn cầu. Đối với nước ta, thực hiện chủ trương đổi mới tòan diện đất nước, trong những năm qua kể từ khi nước ta ra nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2006, nhà nước ta đã thực hiện chuyển đối mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng linh hoạt, mềm dẻo, cạnh tranh hiệu quả đáp ứng yêu cầu và thách thức của nền kinh tế quốc tế và khu vực khi tham gia vào thị trường kinh tế quốc tế với những “ luật chơi chung”. Các hoạt động thương mại được chú trọng và phát triển mạnh mẽ đối với cả các giao lưu trong nước và quốc tế. Vì vậy trong thời gian qua nhà nước ta đã nỗ lực, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện môi trường pháp lý đáp ứng yêu cầu quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng theo hướng “hội nhập, hợp tác, phát triển, cùng có lợi”. Trong lĩnh vực thương mại điện tử, nhà nước ta đã tập chung xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, tạo cơ sở cho việc thúc đẩy sự phát triển giao lưu thương mại như: Bộ Luật Dân sự năm 2015; Luật Thương mại năm 2005; Luật Giao dịch điện tử năm 2005; Luật công nghệ thông tin năm 2006; Nghị định số 57/2016/NĐ – CP ngày 09/6/2016 của Chính phủ về thương mại điện tử và Nghị định số 71/2007/NĐ – CP ngày 03/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật công nghệ thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin… Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay đã từng bước đặt nền móng cơ sở pháp lý điều chỉnh các hoạt động thương mại điện tử. Công nghệ thông tin đã có mặt ở hầu hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội, trong lĩnh vực hành chính công với Chính phủ điện tử, trong lĩnh vực báo chí là báo điện tử, trong lĩnh vực giáo dục người ta nhắc nhiều đến đào tạo trực tuyến, trong 2
  9. lĩnh vực ngân hàng phải kể đến ngân hàng điện tử, hay việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thương mại hàng hóa…và trong đó có sự hiện diện của các quan hệ hợp đồng mua bán. Tuy nhiên tìm hiểu những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành có thể thấy, các nội dung quy định về hợp đồng điện tử - một trong những nội dung cốt yếu của vấn đề thương mại điện tử chưa được đề cập một cách đầy đủ, cụ thể. Sự thiếu vắng những quy định này trong hệ thống pháp luật làm cho hoạt động thương mại điện tử bị hạn chế rất lớn, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng phát triển mạnh mẽ của loại hình thương mại này. Một trong những lý do được nêu trên là nước ta đang ở giai đoạn đầu của quá trình tiếp cận và phát triển thương mại điện tử, vấn đề hợp đồng điện tử còn khá mới mẻ đối với Việt Nam những vấn đề này còn đang trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm. Do đó các chế định pháp lý về vấn đề này còn hạn chế, cần phải được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi khách quan của hoạt động thương mại khi chúng ta đang trên tiến trình hội nhập kinh tế, quốc tế. Với nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng đã và đang nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của những ứng dụng thương mại điển tử trong các lĩnh vực, đặc biệt là thương mại quốc tế .Vận dụng được thương mại điện tử trong phát triển giao dịch thương mại sẽ là bàn đạp giúp Việt Nam phát triển kinh tế nhanh hơn, mạnh hơn, nắm bắt được cơ hội thiết lập các mối quan hệ thương mại quốc tế tốt hơn. Sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp đồng luôn là vấn đề có tính hai mặt. Bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận như giảm chi phí, tiết kiệm thời gian, tạo nhiều cơ hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, thì giao kết hợp đồng điện tử cũng có nhiều rủi ro tiềm ẩn, nảy sinh những rủi ro hết sức phức tạp mà việc thiếu hiểu biết về những rủi ro này sẽ đem lại những khó khăn, tổn thất, hậu quả khó khắc phục đối với các bên tham gia giao dịch. 3
  10. Trong kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử nước ta giai đoạn 2016 – 2020 vừa được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt ngày 08/8/2016, một trong những mục tiêu được đặt ra là tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý thương mại điện tử nhằm thúc đẩy giao lưu thương mại, hạn chế thấp nhất các rủi ro trong giao dịch điện tử trong nước và ngoài nước, phục vụ đắc lực cho quá trình hội nhập kinh tế, quốc tế. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam và giải pháp phòng ngừa” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ, qua đó góp phần tìm ra các nguyên nhân, đưa ra giải pháp hạn chế các rủi ro và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu Mạng Internet được đưa vào Việt Nam từ năm 1997. Chỉ trong một thời gian ngắn phạm vi ảnh hưởng của nó đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, đặc biệt là các giao dịch về hợp đồng, kéo theo đó là nhiều vấn đề pháp lý nảy sinh liên quan đến việc điều chỉnh các giao dịch này cũng như hoạt động của các chủ thể tham gia và đồng thời thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu luật học và kinh tế. Trước khi có luật Giao dịch điển tử năm 2005 các bài viết về hợp đồng điện tử được công bố rất ít, liên quan trực tiếp đến hợp đồng điện tử có đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ tại trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004 của Ths. Trần Đình Toản với đề tài “một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vự thương mại điện tử tại Việt Nam” , đề tài này nghiên cứu trong bối cảnh hợp đồng điện tử chưa được pháp luật thừa nhận tại nước ta, khi đó các văn bản pháp lý tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động giao kết hợp đồng điện tử chưa được ban hành. Như vậy, luận văn mới chỉ dừng lại ở lý luận tiền năng mà chưa có sự nghiên cứu đầy đủ có hệ thống về hợp đồng điện tử cũng như thực thực trạng hợp đồng điện tử tại Việt Nam. Sau khi Quốc hội ban hành Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Hợp đồng điện tử đã chính thức được thừa nhận ở nước ta, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu chuyên sâu về hợp đồng điện tử, quan trọng kể đến: 4
  11. Thứ nhất, nhóm cấp độ luận án tiến sĩ: có các đề tài nghiên cứu chuyên sâu về hợp đồng điện tử của TS. Nguyễn Văn Thoan (2010) “Ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học Ngoại Thương Hà Nội, công trình này được triển khai nghiên cứu dưới góc độ kinh tế học. Tiếp theo cần kể đến là công trình nghiên cứu của TS. Trần Văn Biên (2011) “Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Học Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Hà Nội, đây là luận án tiến sỹ đầu tiên nghiên cứu đầy đủ và chuyên sâu về hợp đồng điện tử tại Việt Nam. Mới gần đây có luận án tiến sĩ của TS. Lê Văn Thiệp (2016) “Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học,Trường Học Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Hà Nội, nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về thương mại điện tử. Thứ hai, nhóm cấp độ luận văn Thạc sĩ: tìm hiểu các công trình nghiên cứu ở cấp độ này tiêu biểu có công trình của ThS. Đỗ Thị Thu Hằng (2009), “Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội, luận văn tập chung phân tích các quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam về thương mại điện tử và hợp đồng điện tử và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật. Thứ ba nhóm sách, tạp chí nghiên cứu: tiêu biểu phải kể đến cuốn sách của GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (2006) “Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử”, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội; TS. Trần Văn Biên (2010) “Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam”, NXB Tư Pháp, Hà Nội. Tiếp đó là các bài viết của GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (2006), “ Luật giao dịch điện tử năm 2005 và những quy định về giao kết hợp đồng điện tử”, tạp chí Kinh tế đối ngoại số 19; TS. Trần Văn Biên, “Về khái niệm hợp đồng điện tử”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2010; TS. Trần Văn Biên, “Sự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng điện tử qua mạng Internet”, Tạp chí nhà nước và luật, số 10/2010; TS. Trần Văn Biên, “Pháp luật và hợp đồng điện tử”, tạp chí Tòa án nhân dân, số 20/2010; TS. Trần Văn Biên, “Khung pháp lý cơ bản về giao dịch điện tử của Việt Nam”, tạp chí thông tin khoa học xã hội, số 1/2011. 5
  12. Mặc dù các công trình nghiên cứu trên đã giành một phần lớn nội dung để nghiên cứu, phân tích và đánh giá về thương mại điện tử nói chung, các vấn đề pháp lý về hợp đồng điện tử nói riêng, việc nghiên cứu về các rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử và những biện pháp phòng ngừa chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện. Từ việc đánh giá tình hình nghiên cứu trên có thể khẳng định, việc lựa chọn. đề tài: “Những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam và giải pháp phòng ngừa” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học là cần thiết và đề tài này không bị trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã thực hiện trước đó. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu a) Mục đích Luận văn tập chung nghiên cứu những vấn đề lý luận về đồng điện tử qua mạng Internet – phương tiện điện tử được sử dụng phổ biến và có tầm ảnh hưởng, chi phối lớn nhất trong giao kết hợp đồng điện tử hiện nay mà không mở rộng nghiên cứu hợp đồng được giao kết thông qua các phương tiện điện tử khác như điện thoại, điện tín, điện báo hay fax. Từ nền tảng lý luận về giao kết hợp đồng điện tử và những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử, tác giả sẽ đi sâu phân tích những vấn đề lý luận về hợp đồng điện tử, thực trạng khung pháp lý và những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam từ đó đưa ra các biện pháp giúp phòng ngừa các rủi ro này. b) Phạm vi Xuất phát từ mục đích nêu trên luận văn sẽ tập chung nghiên cứu những nội dung cụ thể sau: (i) một số vấn đề lý luận chung về hợp đồng điện tử; (ii) thực trạng pháp luật về hợp đồng điện tử và những rủi ro pháp lý thường gặp trong giao kết hợp đồng điện tử; (iii) kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử và các giải pháp đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 6
  13. Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, đánh giá, so sánh, diễn giải, tổng hợp nhằm làm rõ những vấn đề cần được nghiên cứu. Trong số các phương pháp sử dụng luận văn đặc biệt lưu ý tới phương pháp so sánh vì nó cho phép nhìn nhận vấn đề một cách đầy đủ, khách quan trên có sở đối chiếu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, điều này là hết sức cần thiết trong điều kiện hiện nay của Việt Nam vì đây là lĩnh vực còn khá mới mẻ trong khi đó chúng ta cần thiết phải nỗ lực nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại điện tử đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. 5. Điểm mới của luận văn Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau liên quan đến hợp đồng điện tử, tuy nhiên mỗi bài viết lại đề cập đến các khía cạnh, cung như có cách tiếp cận khác nhau về hợp đồng điện tử. Theo quan điểm cá nhân của tác giả, đa phần các bài viết đều nhìn nhận và tiếp cận hợp đồng điện tử dưới góc độ kinh tế học. Thông qua đề tài "Những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam và giải pháp phòng ngừa" tác giả muốn tiếp cận vấn đề hợp đồng điện tự dưới góc độ luật dân sự. Theo đó: Thứ nhất, luận văn sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận chung về hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam. Thứ hai, luận văn sẽ đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng điện tử tại Việt Nam và đi sâu phân tích việc sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp đồng là vấn đề có tính hai mặt, bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận, thì giao kết hợp đồng điện tử cũng có nhiều rủi ro tiềm ẩn gây thiệt hại về mặt kinh tế cho các bên tham gia hợp đồng cũng như khó khăn cho cơ quan tài phán trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh. Luận văn sẽ đưa ra sự nhận diện và kiểm soát vấn đề rủi ro có thể phát sinh khi giao kết hợp đồng. 7
  14. Thứ ba, Luận văn sẽ đưa ra sự nhận diện vấn đề rủi ro có thể phát sinh khi giao kết hợp đồng, để từ đó thấy được những khó khăn, vướng mắc, kết hợp với sự tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về việc xây dựng và ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng điện tử từ đó rút ra bài học kinh nghiệm nhằm định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về giao dịch điện tử trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ` Luận văn nghiên cứu tương đối có hệ thống về những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử, kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về phương diện lý luận và ý nghĩa thực tiễn: Hoàn thành luận văn này, tác giả hy vọng luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện quy định của pháp luật hợp đồng điện tử; Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập, là cơ sở tham khảo cho các công trình nghiên cứu sau này về giao dịch điện tử nói chung và hợp đồng điện tử nói chung. Một trong những ý nghĩa mà tác giả thấy tâm đắc nhất đó là luận văn sẽ nâng cao nhận thức của người đọc về hợp đồng điện tử, những rủi ro thường gặp và các biện pháp phòng ngừa các rủi ro này để từ đó có các biện pháp phòng tránh rủi ro bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia giao dịch. 7.Kết cấu của luận văn Luận văn được trình bày gồm các nội dung chủ yếu sau: Mở đầu Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng điện tử. Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng điện tử và nhhững rủi ro thường gặp trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam. Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử và các giải pháp đối với Doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam. 8
  15. Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ 1.1. Khái niệm Hợp đồng điện tử (Tiếng Anh là e-contracts hay on-line contracts) là một loại hình cơ bản của giao dịch điện tử. Theo Điều 11 Luật Mẫu về Thương mại điện tử của UNCITRAL năm 1996 “Hợp đồng điện tử được hiểu là hợp đồng được hình thành thông qua việc sử dụng các phương tiện truyền dữ liệu”.[13, Điều 11] ` Theo Ủy ban Kinh tế Châu âu của Liên hợp quốc (UNECE), hợp đồng điện tử là hợp đồng nhằm đáp ứng các yêu cầu của các đối tác thương mại điện tử. Hợp đồng bao gồm các điều khoản cơ bản có thể đảm bảo rằng một hay nhiều giao dịch thương mại điện tử, sau này có thể được ký kết giữa các đối tác thương mại trong khuôn khổ pháp lý cho phép. Hợp đồng điện tử nhằm đề cập tới mọi hình thức liên lạc điện tử có thể để ký kết các giao dịch thương mại điện tử [26, tr.183-184]. Ở Việt Nam, hợp đồng điện tử là một thuật ngữ pháp lý mới, chính thức xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 2005, sau khi Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2005. Mặc dù được xây dựng trên cơ sở tham khảo Luật mẫu về thương mại điện tử năm 1996 của UNCITRAL, nhưng khác với luật mẫu và pháp luật của nhiều nước trên thế giới, Luật giao dịch điện tử năm 2005 của Việt Nam đưa ra định nghĩa chính thức về hợp đồng điện tử tại Điều 33 như sau: “ Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu”[21, Điều 33], trong đó thông điệp dữ liệu được hiểu là “ thông tin được tạo ra, gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử”[21,Điều 4(2)]. Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức: trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax, và các hình thức tương tự khác [21, Điều 10]. 9
  16. Nếu như pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước đều không đưa ra định nghĩa chính thức về hợp đồng điện tử, thì ngược lại định nghĩa về hợp đồng điện tử được một số nhà nghiên cứu khoa học hoặc hoạt động thực tiễn pháp lý đưa ra trong các công trình nghiên cứu, bài viết hay hội thảo khoa học, trong đó: Theo Luật sư Oliver Iteanu – Đoàn Luật sư Paris: Hợp đồng điện tử là sự gặp gỡ trên mạng viễn thông quốc tế giữa một lời đề nghị giao kết hợp đồng thể hiện bằng phương tiện nghe nhìn và một lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Sự gặp gỡ này có thể được thực hiện một cách tức thời, nhờ sự trao đổi tương tác. [17, tr.106] Hoặc là “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu, hay nói cách khác là hợp đồng có sử dụng thông điệp dữ liệu”.[11, tr.367]. Đây là định nghĩa được đưa ra trong cuốn chuyên khảo Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư – những vấn đề pháp lý cơ bản do TS. Nguyễn Thị Dung chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2008. Trong tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2010, TS. Trần Văn Biên cũng đã phân tích, tìm hiểu và đưa ra khái niệm về hợp đồng điện tử “Tóm lại, nói đến hợp đồng điện tử là nói đến một phương thức thiết lập hợp đồng chứ không phải là một loại hợp đồng dựa trên một đối tượng cụ thể nào” [1,tr.36]. Ngày nay người ta hiểu khái niệm hợp đồng điện tử thông thường là những hợp đồng được giao kết thông qua phương tiện điện tử mà trong đó internet đóng vai trò cơ bản và được coi là điều kiện tiên quyết. Như vậy, Luật giao dịch điện tử năm 2005 của Việt Nam định nghĩa hợp đồng điện tử theo cách khái quát. Sự liệt kê thường không bao giờ đầy đủ, cách định nghĩa này là hợp lý, nó dự liệu được tất cả các phương tiện điện tử được sử dụng để giao kết hợp đồng và giúp tránh khỏi sự lạc hậu trước sự phát triển của công nghệ thông tin, bởi rất có thể trong tương lai sẽ có thêm những phương tiện điện tử khác được phát minh, sáng chế mà được sử dụng làm phương tiện điện tử. 10
  17. Qua những phân tích ở trên có thể kết luận hợp đồng điện tử là những hợp đồng được giao kết qua mạng Internet - phương tiện điện tử được sử dụng phổ biến và có tầm ảnh hưởng, chi phối nhất trong giao kết hợp đồng điện tử hiện nay. 1.2. Đặc điểm của hợp đồng điện tử Xét về bản chất hợp đồng điện tử cũng có những đặc điểm chung cơ bản giống với hợp đồng truyền thống và đều phải tuân theo những quy định chung về giao kết hợp đồng được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Tham gia vào hợp đồng điện tử có ít nhất hai bên (có thể là hai doanh nghiệp ký hợp đồng với nhau hoặc có thể là doanh nghiệp ký hợp đồng với người tiêu dùng). Về cơ sở hình thành hợp đồng điện tử cũng xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấp dứt quyền và nghĩa vụ như các hình thức hợp đồng phổ biến mà chúng ta đang áp dụng, chỉ khác là chúng được xác lập thông qua phương tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu. Dù là hợp đồng truyền thống hay hợp đồng điện tử, dù được giao kết bằng lời nói, hành vi, bằng văn bản hay bằng các phương tiện điện tử thì điều quan trọng là hợp đồng chỉ hình thành nếu các bên giao kết hoàn toàn tự nguyện, đạt được sự thỏa thuận rõ ràng, cụ thể về quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Trong đó sự thống nhất và tự do ý chí giữa các bên – cơ sở triết học của hợp đồng là điều quan trọng nhất dù là loại hợp đồng gì. Hợp đồng điện tử khi giao kết hay thực hiện đều phải tuân thủ những chuẩn mực chung nhất của hợp đồng nói chung liên quan tới hình thức của hợp đồng, chủ thể của hợp đồng, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, chế độ trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp phát sinh nếu có. Khi giao kết hợp đồng điện tử hay hợp đồng truyền thống các bên đều phải tuân thủ các nguyên tắc giao kết hợp đồng được quy định tại Bộ luật Dân sự đó là nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã 11
  18. hội và nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Trong giao kết hợp đồng điện tử, việc trao đổi thông tin đa phần được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử và chính yếu tố kỹ thuật công nghệ này đã làm thay đổi cách thức, quy trình, thủ tục ký kết hợp đồng điện tử và hệ quả tiếp theo là làm thay đổi cách thức thực hiện hợp đồng điện tử và ít nhiều chi phối cả luật điều chỉnh. “Khía cạnh kỹ thuật làm cho quá trình giao kết hợp đồng điện tử phát sinh nhiều vấn đề chưa từng gặp trong giao kết hợp đồng bằng phương thức truyền thống và đây cũng chính là đặc điểm riêng của hợp đồng điện tử” [6, tr.24- 25]. Sự khác biệt này sẽ khiến cho hợp đồng điện tử mang một số tính riêng biệt cơ bản sau đây: - Về phương tiện ký kết: “Hợp đồng điện tử được ký kết thông qua các phương tiện điện tử và mạng viễn thông, điển hình là mạng Internet. Chính các công cụ này đã giúp mở rộng phạm vi ký kết hợp đồng điện tử ra khắp thế giới” [27, tr.19]. Đặc biệt là việc sử dụng mạng Internet trong quá trình ký kết hợp đồng điện tử đã giúp các bên có thể ký kết hợp đồng điện tử với mọi đối tác từ mọi nơi trên thế giới mà không bị rào cản về biên giới quốc gia hạn chế. Với hợp đồng truyền thống các bên sau khi gặp gỡ, trao đổi, thống nhất với nhau bằng các tài liệu giấy tờ và ký bằng tay. Hợp đồng điện tử thì lại có một phương thức giao kết khác, các bên sẽ không mất thời gian gặp gỡ, trao đổi và ký tay mà thực hiện việc giao kết trên các phương tiện điện tử và hợp đồng sẽ được ký bằng chữ ký điện tử. Một thương nhân, dù ở đâu, ở từng địa phương trong một quốc gia hay ở phạm vi quốc tế, dù vào thời điểm nào cũng có thể giao dịch với đối tác của mình mà không có bất kỳ trở ngại nào. Tuy nhiên việc xác định vị trí, địa điểm, nơi mà thương nhân này tiến hành giao dịch trở nên khó khăn hơn so với hợp đồng truyền thống, thậm chí đôi khi là không thể thực hiện. Điều này sẽ dẫn đến rất nhiều các vấn đề pháp lý phức tạp khi phải xác định địa điểm giao kết hợp đồng, đặc biệt là khi giao kết với thương nhân nước ngoài. 12
  19. - Về chủ thể: Hợp đồng điện tử ngoài các chủ thể là người mua và người bán, thì khi giao kết hợp đồng điện tử còn có một chủ thể khác không kém phần quan trọng là các nhà cung cấp dịch vụ mạng và các cơ quan chứng thực chữ ký. - Về vấn đề nội dung hợp đồng: hợp đồng điện tử có một số điểm khác biệt với hợp đồng truyền thống như địa chỉ pháp lý, ngoài các địa chỉ pháp lý thông thường hợp đồng điện tử còn có địa chỉ e-mail, địa chỉ website, địa chỉ xác định nơi và ngày giờ gửi. - Tính vô hình, phi vật chất: môi trường điện tử là môi trường số hóa, môi trường ảo, vì vậy các hợp đồng điện tử mang tính chất vô hình, nghĩa là hợp đồng điện tử được tồn tại, được chứng minh, được lưu trữ bởi các dữ liệu điện tử, điện từ chứ không nhận biết một cách vật chất được. Tính vô hình và phi vật chất này, khiến cho việc xác định một số yếu tố của hợp đồng trở nên khác, và khó khăn hơn so với hợp đồng bằng giấy truyền thống. Ví dụ như: vấn đề bản gốc, vấn đề chữ ký của hai bên, vấn đề bằng chứng của hợp đồng để làm cơ sở pháp lý khi tranh tụng trước tòa… - Tính rủ ro: Phương thức giao kết hợp đồng điện tử cũng có nhiều rủi ro. Với sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử, người ta cũng đang phải đối mặt với những rủi ro phát sinh từ việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử mà nguyên nhân phát sinh rủi ro là do chính tính vô hình và tính hiện đại về mặt kỹ thuật của hợp đồng điện tử mang lại. Trong một môi trường ảo, đôi khi rất khó khăn để xác định năng lực pháp lý của đối tác giao kết hợp đồng, xác định xem đơn hàng trên internet là đơn hàng thật hay đơn hàng giả. Tính “vô hình” khiến cho việc lưu trữ hợp đồng nhằm đảm bảo bằng chúng về hợp đồng trong trường hợp xảy ra tranh chấp cũng là điều không đơn giản. Làm thế nào để có một chữ ký điện tử đáng tin cậy? làm thế nào để bảo mật hợp đồng điện tử và chữ ký điện tử? làm thế nào để hạn chế rủi ro chống phá sự tấn công của các hacker… Đó là những câu hỏi làm đau đầu không chỉ các nhà kinh doanh mà còn cả những nhà làm luật khi giao dịch điện tử phát triển trên toàn thế giới. 13
  20. Trên thực tế nhiều người đã phải chịu thiệt thòi do những rủi ro này mang lại. Nhiều khách hàng bị mất tiền do bảo mật thẻ tín dụng không tốt, nhiều doanh nghiệp không lấy được tiền hàng do hợp đồng bị giả mạo chữ ký điện tử, nhiều vụ tranh chấp rơi vào bế tắc khi cơ quan giải quyết tranh chấp không tìm được cơ sở pháp lý để bảo về quyền lợi của các bên có lợi ích bị xâm phạm v.v.. - Luật điều chỉnh: Với tính đặc thù về mặt kỹ thuật công nghệ như đã phân tích, hợp đồng điện tử một mặt chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật về hợp đồng như Bộ Luật Dân sự năm 2015, mặt khác, việc ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử còn cần phải tuân theo một quy đình và thủ tục đặc biệt nhằm phòng tránh rủi ro do chính yếu tố kỹ thuật đem lại. Vì vậy bên cạnh pháp luật về hợp đồng, hợp đồng điện tử còn chịu sự điều chỉnh của một số văn bản pháp luật riêng. Đặc biệt là việc giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài, một vấn đề thường phát sinh khi nghiên cứu về nội dung pháp luật điều chỉnh việc giao kết hợp đồng điện tử nói riêng và hợp đồng nói chung. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ, nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng cho phép các bên tham gia trong hợp đồng, dù là hợp đồng truyền thống hay hợp đồng điện tử, được quyền thỏa thuận, lựa chọn thống nhất luật áp dụng mà các bên cho là thích hợp để điều chỉnh hợp đồng của mình. Tuy nhiên, nếu các bên không thống nhất được vấn đề này, việc xác định luật nào sẽ áp dụng cho hợp đồng trở nên khó khăn. Với các hợp đồng được giao kết với các quốc gia khác nhau cũng vậy, mặc dù trong quan hệ hợp đồng không có ranh giới quốc gia, các giao dịch được tiến hành một cách phi biên giới. Song trên thực tế sẽ có những giao dịch mà chủ thể ở các nước khác nhau, và các chủ thể này có quốc tịch khác nhau với nơi họ cư trú hoặc có trụ sở. Một giao dịch như vậy có thể được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống luật khác nhau. Trong những trường hợp như vậy, việc xác định luật pháp của quốc gia nào điều chỉnh hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài là vấn đề hết sức phức tạp. Rõ ràng những quy định về giao kết hợp đồng điện tử, không thể hoàn toàn giống những quy định về giao kết hợp đồng truyền thống. Chính vì vậy luật điều 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2