intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo Luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

24
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là nghiên cứu toàn diện quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; đánh giá tổng quát về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân xảy ra ở Việt Nam trong những năm qua; chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật; tìm ra những vấn đề, đòi hỏi phải hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo Luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐỨC LỰC NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HOẠT ĐỘNG NHẰM LẬT ĐỔ CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN VĂN LUYỆN HÀ NỘI - 2011 1
  2. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mụclục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương1: lý luận chung về trách nhiệm hình sự đối với tội 9 hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 1.1. Khái niệm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 9 1.2. Trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính 14 quyền nhân dân 1.2.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự 14 1.2.2. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ 15 chính quyền nhân dân 1.3. Nội dung trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ 17 chính quyền nhân dân 1.4 ý nghĩa của việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt 24 động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân Chương 2: Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với tội 27 hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân và thực tiễn áp dụng 2.1. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động 27 nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 2.1.1. Khách thể của tội phạm 27 2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm 28 2.1.3. Chủ thể của tội phạm 35 2.1.4. Mặt chủ quan của tội phạm 37 2.1.5. Hình phạt đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 40 2.2. Phân biệt cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự đối tội hoạt động 42 nhằm lật đổ chính quyền nhân dân với một số tội phạm khác trong chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia 2.2.1. Phân biệt cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt 42 động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân và tội phản bội Tổ quốc 2.2.2. Phân biệt cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt 45 động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân và tội bạo loạn 3
  3. 2.2.3. Phân biệt cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt 47 động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân và tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân 2.2.4. Phân biệt cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt 49 động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân và tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2.3. Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối vơi tội hoạt động 52 nhằm lật đổ chính quyền nhân dân trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay 2.4. Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động điều tra, truy tố, 69 xét xử tội phạm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 2.4.1. Những khó khăn, vướng mắc 69 2.4.2. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc 73 Chương 3: hoàn thiện pháp luật hình sự và một số giải pháp nâng 75 cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 3.1. Yêu cầu khách quan phải hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng 75 những quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 3.2. Những kiến nghị về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 78 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật 82 hình sự năm 1999 về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 3.3.1. Giải pháp phòng, chống tội phạm 82 3.3.2. Giải pháp tuyên truyền vạch rõ các âm mưu, phương thức, thủ 87 đoạn của tội phạm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 3.3.3. Giải pháp nâng cao trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị của đội ngũ 88 cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng KẾT LUẬN 92 NHỮNG BÀI VIẾT ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ CHUYÊN NGÀNH 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 4
  4. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 So sánh tỉ lệ số vụ đã xét xử sơ thẩm về các tội xâm phạm 54 an ninh quốc gia với số vụ đã xét xử sơ thẩm về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 2.2 So sánh tỉ lệ số vụ án đã xét xử sơ thẩm hàng năm với số 55 vụ đã xét xử sơ thẩm về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ 2.1 Số lượng vụ án đã khởi tố, truy tố, xét xử về tội hoạt 56 động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân năm 2000 đến nay 2.2 Số lượng bị can, bị cáo đã bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội 58 hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân từ năm 2000 đến nay 5
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một giá trị thiêng liêng của bất kỳ ai là công dân của đất nước Việt Nam. Được thành lập và trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc ngoại xâm, chúng ta đã phải đánh đổi bằng máu và nước mắt, biết bao nhiêu thế hệ hy sinh cả tuổi thanh xuân, nhiều người đã để lại một phần cơ thể nơi chiến trường, hay sống một cuộc sống thực vật, tất cả những hy sinh mất mát đó, chỉ nhằm mục đích, giành độc lập tự do cho dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng Nhà nước vững mạnh với mục tiêu "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân". Ấy vậy mà! những kẻ phản động trong và ngoài nước, không chỉ số cũ mà cả số mới, không hiểu được những giá trị cao đẹp đó, lại hận thù giai cấp "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân", họ là những người bị ảnh hưởng bởi tư tưởng phản động, những người đã từng phục vụ trong chế độ ngụy quyền, còn luyến tiếc chế độ cũ, nghe theo sự dụ dỗ của các thế lực thù địch, thành lập các tổ chức phản động, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, xâm phạm sự tồn tại và vững mạnh của chính quyền nhân dân. Kể từ khi đất nước thống nhất (mùa xuân năm 1975), có rất nhiều tổ chức phản động được thành lập, hoạt động chống phá, nhằm lật nhằm đổ chính quyền nhân dân như tổ chức của Hoàng Cơ Minh trong cái gọi là: "Việt Nam canh tân cách mạng đảng" mà tiền thân của nó là "Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam", Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh với cái gọi "Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước Giải phóng Việt Nam", chúng được các quốc gia thù địch, tài trợ và giúp sức, kêu gào chống cộng, vũ trang, đột nhập về Việt Nam, móc nối với bọn phản động ở trong nước hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. 1
  6. Khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, chuyển mình từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Cùng với sự thay đổi này, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa cũng thay đổi. Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, có hàng loạt tổ chức phản động được thành lập, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, ngoài các tổ chức phản động cũ như: "Việt Tân", "Việt Cách", hàng loạt các tổ chức phản động mới cũng ra đời như: "Đảng nhân dân hành động", sau này kết hợp với "Tập hợp thanh niên dân chủ" và Hoàng Minh Chính lập ra"Đảng dân chủ Việt Nam". Nguyễn Hữu Chánh với "Đảng dân tộc", Nguyễn Công Bằng với cái gọi là "Đảng vì dân" … Các tổ chức phản động không còn hoạt động theo những phương thức, thủ đoạn trước đây. Chúng hoạt động với những phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn, với rất nhiều chiêu bài như: lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, lôi kéo, kích động gây hằn thù giữa các tôn giáo, dân tộc, nếu có xảy ra mâu thuẫn thì lợi dụng vấn đề này, để gây áp lực với Nhà nước ta trên bình diện quốc tế. Bọn chúng lợi dụng thế mạnh về công nghệ thông tin, lợi dụng kẽ hở về quản lý hành chính trong lĩnh vực đất đai, để gây chia rẽ, lôi kéo người vào tổ chức phản động, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Hiện nay, mặc dù đất nước ta đang được hòa bình phát triển đúng hướng, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, nhưng không vì thế mà chúng ta chủ quan trước những hoạt động chống phá của các tổ chức phản động. Hơn lúc nào hết chúng ta phải tăng cường các biện pháp làm thất bại chiến lược "Diễn biến hòa bình", bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ sự tồn tại và vững mạnh của chính quyền nhân dân. Trong đó xây dựng và hoàn thiện quy định của pháp luật về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là một trong những biện pháp để thực hiện mục tiêu trên. Thực tiễn đấu tranh phòng 2
  7. chống tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân trong thời gian qua ở nước ta đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu giải quyết về mặt lý luận như: trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, đường lối xử lý của Đảng và Nhà nước đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Nhìn chung chưa có công trình khoa học đầu tư nghiên cứu về vấn đề này. Tình hình đó đã và đang đặt ra yêu cầu, cần thiết, cấp bách phải nghiên cứu một cách nghiêm túc cả về lý luận và thực tiễn, hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về tội phạm này, góp phần giữ vững an ninh quốc gia, phát triển đất nước. Với lý do trên đây, tôi chọn đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo Luật hình sự Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Về các công trình nghiên cứu về trách nhiệm hình sự nói chung có các công trinh nghiên cứu đáng chú ý như: PGS.TSKH. Lê Cảm, "Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự”, chương thứ sáu, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2005. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa “Trách nhiệm hình sự và hình phạt”, Nxb Công an nhân dân, năm 2001. Phạm Mạnh Hùng với các bài viết: “Khái niệm trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Luật học, số 01/2002. “Cơ sở của trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Luật học, số 6/2002. Là tội xếp thứ hai trong Chương "Các tội xâm phạm an ninh quốc gia", tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân đã được các nhà nghiên cứu luật học đề cập trong một số công trình nghiên cứu, cũng như sách báo pháp lý hình sự. Có thể nhắc đến một số công trình nghiên cứu đáng chú ý như sau: Luận án tiến sĩ của tác giả Bạch Thành Định "Các tội xâm phạm an ninh quốc gia trong luật hình sự Việt Nam", Trường Đại học luật Hà 3
  8. Nội, năm 2001; PGS.TSKH. Lê Cảm (chủ biên) "Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền", Nxb Tư pháp, năm 2007; PGS.TS Kiều Đình Thụ với các bài: "Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, lịch sử, thực trạng và phương hướng hoàn thiện", Tạp chí Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, năm 1994. "Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm hình sự với các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, năm 1995. "Về các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia", Tạp chí Khoa học Công an nhân dân, năm 1995; TS. Trần Đình Nhã "Về sửa đổi, bổ sung Chương I phần các tội phạm của Bộ luật hình sự ", Tạp chí Khoa học Công an, năm 1996. Ngoài ra, một số giáo trình do tập thể tác giả biên soạn phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu trong các trường đại học có đề cập đến tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân như: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội do PGS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2005; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Tập I), Trường Đại học luật Hà Nội do PGS. TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân năm 2005; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm) do tập thể TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện… biên soạn, Nxb Công an nhân dân, năm 2001. Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân của các tổ chức phản động luôn là vấn đề thời sự, nổi cộm được quan tâm, nghiên cứu, phản ánh trên các báo, tạp chí, báo điện tử nêu lên các thủ đoạn, phương thức hoạt động của những con người và tổ chức phản động, qua đó có biện pháp đấu tranh chống lại các tổ chức này như các bài:"Nguyễn Sĩ Bình và tổ chức Đảng nhân dân hành động", " Sự thật về cái gọi là Đảng dân chủ Việt Nam" và "Trần Anh Kim và bước đường tội lỗi", đăng trên trang http://www.cand.com.vn. Bài viết "Âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo để 4
  9. chống phá cách mạng Việt Nam và một số yêu cầu đặt ra", của Trần Đắc Hiên, Văn phòng Chính Phủ đăng trên trang Web http://www.tapchicongsan.org.vn. Bài viết "Vấn đề dân tộc trong mưu đồ hiểm độc của các thế lực thù địch chống Việt Nam", của Hoàng Huân đăng trên trang Web http://www.cema.gov.vn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu công khai mới chỉ dừng lại ở việc đề cập khái quát hoặc mô tả sơ bộ về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Các bài viết trên các báo, tạp chí chỉ mang tính chất cảnh báo về thực trạng của hoạt động chống phá nhằm lật đổ chính quyền nhân dân của các tổ chức phản động, cũng như nghiên cứu về trạng thái tâm lý, mối nguy hiểm của tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân đối với an ninh quốc gia, nghiên cứu ở mặt nghiệp vụ phản gián trong việc triệt phá các tổ chức phản động, chứ chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng, cũng như chỉ ra những tồn tại, vướng mắc trong thực tế, để đề xuất các ý kiến lập pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu toàn diện quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; đánh giá tổng quát về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân xảy ra ở Việt Nam trong những năm qua; chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật; tìm ra những vấn đề, đòi hỏi phải hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Qua đó, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
  10. Luận văn giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu toàn diện về mặt lý luận về trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này qua các vụ án, các bản án đã xét xử. - Chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, vướng mắc trong việc áp dụng. Đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm này. 3.3. Đối tượng nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, quy định về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo Luật hình sự Việt Nam. Nghiên cứu các vụ án, các bản án đã xét xử, tìm hiểu một cách sâu sắc tội phạm này, cũng như một số tội trong Chương "Các tội xâm phạm an ninh quốc gia", có dấu hiệu pháp lý khá giống nhau, để thấy được những điểm khác nhau giữa lý luận và thực tiễn. -Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có liên quan đến tội phạm này, những số liệu thống kê, tổng kết trong các báo cáo tổng kết của ngành Tòa án nhân dân,Viện kiểm sát nhân dân, thông tin trên các báo, tạp chí, báo điện tử để tổng hợp các kiến thức, lý luận về trách nhiệm hình sự nói chung, trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân nói riêng. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo Luật hình sự Việt Nam trong thời gian từ năm 2000 đến nay trong phạm vi toàn quốc. 6
  11. 4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, điều tra hình sự… những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự. Hoạt động của các tổ chức phản động cũng như thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc trưng, phổ biến như: Lịch sử, lôgic, so sánh, phân tích tổng hợp, thống kê, chuyên gia… 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và có hệ thống về trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Có thể xem những nội dung sau đây là đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn: - Phân tích làm rõ: Khái niệm Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khái niệm chính quyền nhân dân, khái niệm lật đổ chính quyền nhân dân và khái niệm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; khái niệm trách nhiệm hình sự; khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; nội dung của trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân và ý nghĩa của việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này. - Làm sáng tỏ những dấu hiệu pháp lý đặc trưng (Cơ sở pháp lý) của trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo Luật hình sự Việt Nam, phân biệt, so sánh tội phạm này với một số tội khác trong Chương "Các tội xâm phạm an ninh quốc gia" có dấu hiệu pháp lý khá giống nhau. 7
  12. - Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng, đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định luật hình sự về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong tình hình mới. 6. Ý nghĩa của luận văn Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên nghiên cứu một cách khá có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân ở cấp độ luận văn thạc sĩ. Kết quả nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa tích cực nhất định đối với việc nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này. Qua kết quả nghiên cứu và các đề xuất trong luận văn, tác giả muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc xây dựng và phát triển lý luận về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân nói riêng và pháp luật hình sự Việt Nam nói chung. Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà nghiên cứu luật học, cán bộ nghiên cứu, sinh viên, học viên cao học, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về trách nhiệm hình sự đối tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân Chương 2: Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân và thực tiễn áp dụng Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự và một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 8
  13. Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HOẠT ĐỘNG NHẰM LẬT ĐỔ CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN 1.1. KHÁI NIỆM TỘI HOẠT ĐỘNG NHẰM LẬT ĐỔ CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN Theo triết học Mác - Lênin, tội phạm là một hiện tượng xã hội phát sinh do điều kiện kinh tế nhất định, nó là hiện tượng tiêu cực của xã hội, ra đời và tồn tại cùng với sự phát triển của xã hội. Việc quy định một tội phạm nào đó trong Bộ luật hình sự, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ các quan hệ xã hội mà Nhà nước đó phải duy trì. Pháp luật luôn là công cụ hữu hiệu nhất thể hiện ý chí của Nhà nước, của giai cấp thống trị. Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam cũng không ngoài mục đích nhằm bảo vệ sự tồn tại và vững mạnh của chính quyền nhân dân. Để hiểu rõ về khái niệm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân trước hết phải tìm hiểu một số khái niệm như: Nhà nước, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khái niệm chính quyền nhân dân, khái niệm lật đổ chính quyền nhân dân. Triết học Mác - Lênin chỉ ra rằng: Nhà nước không phải là hiện tượng vĩnh cửu, bất biến. Nhà nước là một phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội phát triển đến một mức độ nhất định và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại đó mất đi. "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì Nhà nước xuất hiện" [1, tr. 394]. Theo Jean Jacques Rousseau trong Khế ước xã hội thì: 9
  14. Nhà nước là sản phẩm của một khế ước (một hợp đồng) được ký kết trước hết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có Nhà nước dựa trên cơ sở mỗi người tự nguyện nhường một phần trong số quyền tự nhiên vốn có của mình giao cho một tổ chức xã hội đặc biệt là Nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích chung của cả cộng đồng [Dẫn theo 22, tr. 64]. Vì vậy, chủ quyền trong Nhà nước thuộc về nhân dân, Nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên trong xã hội và mỗi thành viên trong xã hội đều có quyền yêu cầu Nhà nước phục vụ họ. Thực chất, Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt với bộ máy thực hiện cưỡng chế và quản lý đời sống xã hội; Nhà nước có lãnh thổ và thực hiện sự quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ; có chủ quyền quốc gia; là tổ chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật và đảm bảo sự thực hiện pháp luật; có quyền định ra và thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc. Từ các đặc điểm trên đi đến định nghĩa về Nhà nước: "Nhà nước là hình thức tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích trước hết của giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động chung nảy sinh từ bản chất của xã hội" [22, tr. 87]. Khái niệm Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện đầy đủ trong Điều 2 Hiến pháp năm 1992: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức" [25]. Đó là Nhà nước của nhân dân: nhân dân có toàn quyền quyết định tính chất, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, mục tiêu, phương hướng hoạt động, xu hướng 10
  15. phát triển của bộ máy Nhà nước, sử dụng bộ máy Nhà nước để thực hiện quyền lực của mình và kiểm tra, giám sát sự hoạt động của bộ máy Nhà nước. Nhà nước do nhân dân: là Nhà nước mà các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương đều do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập để thực hiện quyền làm chủ Nhà nước của mình. Nhà nước vì nhân dân: là Nhà nước mà mọi chủ trương, chính sách, pháp luật đều được xây dựng và thực hiện xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Khái niệm chính quyền nhân dân phát sinh từ bản chất của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. "Chính quyền nhân dân là chính quyền hợp hiến xuất phát từ ý nguyện của đa số nhân dân thông qua một cuộc bầu cử tự do, trung thực, công bằng và bình đẳng theo hiến pháp và luật pháp quy định". Nói cách khác thì chính quyền ấy nhất thiết phải do dân quyết định, tức là nhân dân phải là người thực hiện quyền lực, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các đại biểu của mình. Để thực hiện quyền làm chủ của mình, nhân dân có quyền bầu cử, tự do ứng cử, tham gia các cơ quan quyền lực Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp. Từ cơ quan quyền lực cao nhất quyết định tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Nhà nước do nhân dân bãi miễn nếu không đáp ứng những yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm "ủy thác" để nói về việc nhân dân trao một phần quyền lực của mình cho Nhà nước [20]. Từ việc đưa ra và phân tích khái niệm Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và khái niệm chính quyền nhân dân trên đây cho thấy hai khái niệm này đồng nghĩa. Việc dùng khái niệm chính quyền nhân dân trong các cấu thành tội phạm của chương " Các tội xâm phạm an ninh quốc gia" nói chung, tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân nói riêng, có ý nghĩa nhấn mạnh chính quyền mà các thế lực thù địch đang âm mưu chống phá không mang ý nghĩa bình thường như 11
  16. các thể chế chính trị khác trên thế giới mà đó là chính quyền của toàn thể dân tộc Việt Nam. Nhân dân Việt Nam phải đổ biết bao mồ hôi và xương máu, trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, để giành độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Chính quyền đó phải mãi mãi trường tồn. Những hành động xâm phạm đến sự tồn tại, vững mạnh của chính quyền nhân dân tức là xâm phạm đến toàn thể nhân dân Việt Nam, đi ngược lại xu thế của xã hội. Những hành động này phải bị nghiêm trị để bảo vệ sự tồn tại vững mạnh của chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chúng ta cũng cần phải làm rõ khái niệm lật đổ chính quyền nhân dân: Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông thì:"lật đổ" có nghĩa là "làm cho sụp đổ bằng bạo lực" một chế độ, một chính quyền, một thể chế quyền lực này bằng một chế độ, một chính quyền, một thể chế quyền lực khác bằng bạo lực [36, tr. 495]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: "Lật đổ chính quyền là dùng sức mạnh chính trị, vũ trang hoặc các phương pháp đặc biệt khác để xóa bỏ bộ máy thống trị của một giai cấp, một tập đoàn đang cầm quyền, thay thế bằng bộ máy thống trị của một giai cấp một tập đoàn khác" [35, tr. 662]. Từ khái niệm lật đổ chính quyền trong Từ điển Bách khoa Việt Nam rút ra khái niệm lật đổ chính quyền nhân dân: "là việc các thế lực phản động dùng sức mạnh chính trị, vũ trang hoặc các phương pháp đặc biệt nhằm mục đích lật đổ chính quyền nhân dân, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thiết lập chế độ, Nhà nước theo hệ tư tưởng mà các thế lực phản động tôn thờ". Việc làm rõ khái niệm lật đổ chính quyền nhân dân sẽ là nền tảng cho việc nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân theo Luật hình sự Việt Nam. Khái niệm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân: Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), đưa ra khái niệm về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân như sau: "Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là hành vi 12
  17. thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân" [15, tr. 336]. Trong sách chuyên khảo "Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" do PGS.TSKH Lê Cảm chủ biên định nghĩa: "Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là hành vi (bằng hành động hoặc không hành động) nhằm xâm phạm sự tồn tại vững mạnh của chính quyền nhân dân trong nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [5]. Hành vi phạm tội của tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân xâm phạm trực tiếp sự tồn tại của chính quyền nhân dân. Đối tượng tác động là chính quyền nhân dân các cấp từ Trung ương đến địa phương tùy theo quy mô của tội phạm những người phạm tội có thể hoạt động nhằm lật đổ chính quyền ở một cấp, ở một địa phương nào đó trong lãnh thổ Việt Nam song mục tiêu cuối cùng là lật đổ chính quyền, thay đổi chế độ xã hội. Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân được giới hạn bởi hai loại hành vi của mặt khách quan tội phạm đó là hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức phản động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Hoạt động thành lập tổ chức là hoạt động khởi xướng thành lập tổ chức, soạn thảo, viết đề cương, điều lệ, kế hoạch thành lập tổ chức; đứng ra tuyên truyền lôi kéo người khác vào tổ chức; vạch ra kế hoạch hoạt động của tổ chức. Hoạt động tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là việc gia nhập tổ chức phản động khi biết rõ tổ chức ấy có mục đích lật đổ chính quyền nhân dân, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, tán thành, tích cực hoạt động theo mục tiêu, kế hoạch của tổ chức đó. Một người bị coi là phạm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm. Theo PGS.TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm dấu hiệu của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm 13
  18. cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [4, tr. 102]. Trên cơ sở phân tích trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân như sau: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện nhằm mục đích lật đổ chính quyền nhân dân. 1.2. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HOẠT ĐỘNG NHẰM LẬT ĐỔ CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN 1.2.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự Trách nhiệm hình sự là khái niệm cơ bản của Luật hình sự, quan điểm và nhận thức vầ khái niệm này là cơ sở lý luận cho việc xây dựng các khái niệm khác của luật hình sự là khái niệm dùng để chỉ hậu quả pháp lí bất lợi mà một người phải gánh chịu trước Nhà nước và xã hội vì họ đã thực hiện những hành động mà pháp luật hình sự cấm hoặc không thực hiện nhĩa vụ mà pháp luật hình sự bắt buộc phải thực hiện. Nhà nước bảo vệ những quan hệ xã hội này bằng việc quy định những cấu thành tội phạm cụ thể và hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) tương ứng trong Bộ luật hình sự, nếu một người thực hiện hành vi bị cấm được nêu trong cấu thành tội phạm cụ thể thì họ phải gánh chịu một hậu quả pháp lý nhất định. Hậu quả pháp lý ấy chính là trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội nên nó là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với các dạng trách nhiệm pháp lý khác. Theo từ điển luật học: “Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình”[35,tr. 801]. Hiện nay, còn có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm trách nhiệm hình sự: 14
  19. PGS.TSKH. Lê Cảm cho rằng: “Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định”[5, tr.609]. GS.TS. Đỗ Ngọc Quang cho rằng: “Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện”[18, tr.41]. GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa và PGS. TS Lê Thị Sơn lại cho rằng: “Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả bất lợi về hành vi phạm tội của mình. Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích”[17, tr.281-282]. Tuy nhiên, các quan điểm này đều thống nhất trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý của việc phạm tội. Trách nhiệm hình sự được thực hiện trong phạm vi quan hệ pháp luật hình sự giữa một bên là Nhà nước và một bên là người phạm tội. Nhà nước có quyền truy tố, xét xử và buộc người phạm tội phải chịu hình phạt nhất định tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ thực hiện và phải mang án tích trong một thời hạn nhất định sau khi đã chấp hành xong hình phạt. Như vậy, có thể hiểu: “ Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự quy định đối với người phạm tội”. 1.2.2. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 15
  20. Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức phản động, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện nhằm mục đích lật đổ chính quyền nhân dân. Trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân cũng biểu hiện đầy đủ những đặc điểm của trách nhiệm hình sự nói chung đó là: Trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức phản động hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Ví dụ: Nguyễn Đan Quế (tên gọi khác là Nguyễn Châu), trước năm 1975 là bác sĩ làm việc tại Bệnh viện Chợ Rãy, là người lớn lên và được nuôi dưỡng dưới chế độ tư bản nên Nguyễn Đan Quế tiếp thu ý thức hệ tư sản muốn lật đổ chính quyền nhân dân thiết lập Nhà nước theo độ tư bản. Năm 1978, Nguyễn Đan Quế bị bắt, tập trung cải tạo vì cầm đầu tổ chức phản động “Mặt trận dân tộc tiến bộ”. Năm 1988 được ra tù lại tiếp tục soạn thảo tài liệu “Học thuyết Nhà nước và nhân bản” và thành lập tổ chức “ Cao trào nhân bản” hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Nguyễn Đan Quế đã bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 20 năm tù về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân được xác định bằng trình tự đặc biệt theo quy định của pháp luật mà các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải thực hiện. Trình tự này bắt đầu bằng hoạt động khởi tố của cơ quan điều tra, hoạt động truy tố của Viện kiểm sát, hoạt động xét xử của Tòa án, hoạt động thi hành án của cơ quan thi hành án. Trách nhiệm hình sự đối với tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân được biểu hiện cụ thể ở việc người phạm tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khác nhất của 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
20=>2