intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

13
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu tổng quan về mô hình pháp lý về SGDCK một số nước trên thế giới; cơ sở pháp lý điều chỉnh và những bài học kinh nghiệm rút ra để luận giải những vấn đề chính sách phát triển TTCK tại Việt Nam; làm cơ sở, tiền đề cho việc xây dựng mô hình cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK Việt Nam hiện tại và trong tương lai.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ KHUÊ PHÁP LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2009
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ KHUÊ PHÁP LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Giang Thu Hµ néi - 2009
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH CHỨNG 5 KHOÁN TẠI VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, lịch sử hình thành, nguyên tắc pháp lý và quan 5 điểm chỉ đạo trong việc xây dựng Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam 1.1.1. Khái niệm, lịch sử hình thành Sở Giao dịch chứng khoán tại 5 Việt Nam 1.1.2. Nguyên tắc pháp lý và quan điểm chỉ đạo trong việc xây 7 dựng Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam 1.1.2.1. Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng mô 7 hình pháp lý của Sở Giao dịch chứng khoán 1.1.2.2. Hệ thống pháp luật phải đảm bảo khả năng vận hành, hoạt 8 động của Sở Giao dịch chứng khoán một cách tốt nhất 1.1.2.3. Pháp luật phải bảo đảm việc xây dựng và phát triển Sở Giao 10 dịch chứng khoán từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và khả năng phát triển trong tương lai 1.1.2.4. Pháp luật phải bảo đảm xây dựng được mô hình Sở Giao dịch 11 chứng khoán vận hành an toàn hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, bảo vệ nhà đầu tư
  4. 1.2. Vị trí pháp lý và chức năng của Sở Giao dịch chứng khoán 12 trong thị trường chứng khoán 1.2.1. Vị trí pháp lý của Sở Giao dịch chứng khoán trong thị trường 12 chứng khoán 1.2.2. Chức năng của Sở Giao dịch chứng khoán 13 1.3. Nội dung cơ bản của pháp luật quy định hình thức tổ chức và 14 hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam 1.4. Pháp luật về mô hình cơ cấu tổ chức và hoạt động của Sở 17 Giao dịch chứng khoán một số nước trên thế giới và những kinh nghiệm thực tiễn rút ra cho Việt Nam 1.4.1. Pháp luật về mô hình cơ cấu tổ chức và hoạt động của Sở 17 Giao dịch chứng khoán một số nước trên thế giới 1.4.1.1. Pháp luật về mô hình cơ cấu tổ chức của Sở Giao dịch 17 chứng khoán 1.4.1.2. Pháp luật về hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán một 25 số nước trên thế giới 1.4.2. Những kinh nghiệm thực tiễn rút ra cho Việt Nam 30 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC 35 VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM 2.1. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hình thức tổ chức và 35 hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam 2.2. Những điểm khác biệt cơ bản giữa Sở Giao dịch chứng khoán 39 và doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức pháp lý công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên theo pháp luật Việt Nam 2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật về Sở Giao dịch chứng khoán 42 tại Việt Nam hiện nay 2.3.1. Về hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý và 42 điều hành của Sở Giao dịch chứng khoán
  5. 2.3.1.1. Hình thức pháp lý 42 2.3.1.2. Bộ máy quản lý và điều hành của Sở Giao dịch chứng khoán 50 2.3.1.3. Quyền và nghĩa vụ của Sở Giao dịch chứng khoán 53 2.3.2. Thực trạng pháp luật về hoạt động của Sở Giao dịch chứng 55 khoán tại Việt Nam 2.3.2.1. Việc thực hiện các nguyên tắc hoạt động của Sở Giao dịch 55 chứng khoán 2.3.2.2. Quy định về thành viên giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán 58 2.3.2.3. Quy định về niêm yết chứng khoán tại Sở Giao dịch chứng khoán 61 2.3.2.4. Quy định về tổ chức giao dịch và giám sát giao dịch chứng 67 khoán tại Sở Giao dịch chứng khoán 2.3.2.5. Quy định về công bố thông tin trên Sở Giao dịch chứng khoán 71 2.3.2.6. Quy định về quản lý rủi ro, xử lý vi phạm, giải quyết tranh 74 chấp và các vấn đề khác Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG 78 PHÁP LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM 3.1. Sự cần thiết, cơ sở xây dựng, hoàn thiện pháp luật về mô 78 hình pháp lý cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam 3.1.1. Cơ sở lý luận 78 3.1.2. Cơ sở thực tiễn 80 3.1.2.1. Thực tiễn từ xu hướng chuyển đổi, cải tổ các Sở Giao dịch 80 chứng khoán trên thế giới 3.1.2.2. Từ thực trạng, những bất cập về cơ cấu tổ chức và hoạt động 82 của Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam
  6. 3.2. Một số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về mô 84 hình cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam 3.2.1. Giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về mô hình cơ 84 cấu sở hữu, tổ chức của Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam 3.2.1.1. Đa dạng hóa về hình thức sở hữu đối với Sở Giao dịch 85 chứng khoán 3.1.1.2. Pháp luật cần phân định chức năng quản lý Sở Giao dịch 87 chứng khoán của Chính phủ, Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và xây dựng mối quan hệ pháp lý về sự phối hợp trong hoạt động giữa các Sở Giao dịch chứng khoán với nhau, giữa Sở Giao dịch chứng khoán với Trung tâm lưu ký chứng khoán 3.3.1.3. Bổ sung thêm các quy định liên quan đến cơ cấu tổ chức và 90 hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán 3.2.2. Giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động 90 của Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam 3.2.2.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức lại thị trường giao dịch tại 90 hai Sở Giao dịch chứng khoán 3.2.2.2. Hoàn thiện pháp luật về giao dịch và giám sát giao dịch trên 92 Sở Giao dịch chứng khoán 3.2.2.3. Hoàn thiện quy định pháp luật về niêm yết chứng khoán tai 93 Sở Giao dịch chứng khoán 3.2.2.4. Hoàn thiện quy định về công bố thông tin trên Sở Giao dịch 94 chứng khoán 3.2.2.5. Hoàn thiện pháp luật quy định về quản lý rủi ro, xử lý vi 94 phạm, giải quyết tranh chấp và các vấn đề khác KẾT LUẬN 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BKS : Ban kiểm soát CTCK : Công ty chứng khoán ĐHĐCĐ : Đại hội đồng cổ đông HĐQT : Hội đồng quản trị LCK : Luật Chứng khoán SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán TNHH : Trách nhiệm hữu hạn TTCK : Thị trường chứng khoán TTGDCK : Trung tâm giao dịch chứng khoán UBCK : Ủy ban Chứng khoán UBCKNN : Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, chúng ta chứng kiến sự phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam và thấy được rõ nét vai trò của TTCK - là công cụ đắc lực giúp các chủ thể huy động vốn trung và dài hạn để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phải lựa chọn và xây dựng được một mô hình TTCK {trong đó yếu tố rất quan trọng là mô hình pháp lý về cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán (SGDCK)} sao cho phù hợp với bối cảnh nền kinh tế nước ta nói riêng và với xu hướng trào lưu quốc tế nói chung. Năm 2007 và năm 2009, SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh và SGDCK Hà Nội được thành lập trên cơ sở kế thừa từ hai Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) trước đây. Điều này cho thấy sự chuyển đổi mô hình pháp lý về cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK tại Việt Nam là một bước ngoặt có ý nghĩa to lớn và tất yếu, xuất phát từ các nhu cầu chủ quan và các điều kiện khách quan gắn với sự phát triển của thị trường và tiến trình mở cửa hội nhập của TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định pháp luật về SGDCK một số nước trên thế giới và đánh giá được đúng đắn sự phát triển của TTCK Việt Nam trong thời gian qua cũng như thực tiễn hoạt động theo mô hình pháp lý mới của các SGDCK hiện nay, chúng ta thấy xét về lâu dài, mô hình pháp lý về cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK tại Việt Nam hiện nay chưa phải là một mô hình lý tưởng và chưa phù hợp với xu thế chung của thế giới. Do vậy, với mô hình pháp lý hiện tại, SGDCK Việt Nam là công ty trách
  9. nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên do Nhà nước là chủ sở hữu chỉ là bước đệm để tiến tới một mô hình pháp lý cao hơn, hoàn thiện và hiệu quả hơn. Xu hướng quốc tế hiện nay là sau một thời gian hoạt động, các SGDCK lần lượt chuyển đổi từ mô hình pháp lý SGDCK thuộc sở hữu của các thành viên sang hình thức pháp lý SGDCK là công ty cổ phần hoặc công ty cổ phần đại chúng niêm yết tại chính SGDCK đó. Sự chuyển đổi này đã diễn ra mạnh mẽ, nhanh chóng và trở thành trào lưu, xu thế chung của các SGDCK trên thế giới. Với đề tài luận văn "Pháp luật về Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam", tác giả đi sâu nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới, phân tích và lý giải xu hướng chuyển đổi, cải tổ các SGDCK trên thế giới hiện nay. Từ đó, đối chiếu với quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ ra được những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế trong quy định pháp luật để có phương án hoàn thiện. Mặt khác, một câu hỏi được đặt ra là với mô hình pháp lý về cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK tại Việt Nam có vấn đề gì cần nghiên cứu và bàn luận sâu hơn? Đã phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay và trong tương lai gần hay chưa? Pháp luật điều chỉnh vấn đề này cần phải như thế nào để đáp ứng các yêu cầu đặt ra? Đây là một vấn đề còn bỏ ngỏ trong khoa học pháp lý và cũng là đề tài tác giả thực sự quan tâm. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu tổng quan về mô hình pháp lý về SGDCK một số nước trên thế giới; cơ sở pháp lý điều chỉnh và những bài học kinh nghiệm rút ra để luận giải những vấn đề chính sách phát triển TTCK tại Việt Nam; làm cơ sở, tiền đề cho việc xây dựng mô hình cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK Việt Nam hiện tại và trong tương lai. So sánh, đối chiếu pháp luật về SGDCK tại Việt Nam và pháp luật về SGDCK một số nước trên thế giới để từ đó tìm ra những bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn hoặc thiếu quy định điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Từ đó, đề
  10. xuất, gợi ý hoặc đưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật chứng khoán Việt Nam hiện hành. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Trong phạm vi một đề tài luận văn thạc sĩ luật học, tác giả muốn tập trung đánh giá những vấn đề cơ bản liên quan đến mô hình pháp lý về cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK; vị trí, vai trò của SGDCK đối với nền kinh tế thị trường; tầm quan trọng của vấn đề chuyển đổi cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK đối với sự phát triển của TTCK; hình thức pháp lý của SGDCK; lịch sử hình thành và phát triển, những nguyên tắc và quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng SGDCK ở Việt Nam; thực trạng mô hình cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK; xu hướng chuyển đổi cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK trên thế giới và ở Việt Nam. Đồng thời, đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm xây dựng một mô hình pháp lý về cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK ở Việt Nam trong tương lai gần, trên cơ sở xem xét lý luận và kinh nghiệm các nước trong vấn đề này. Các giải pháp được đề xuất là những gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách trên thị trường tài chính nói chung và trên TTCK Việt Nam nói riêng. 4. Những điểm mới của đề tài Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu về SGDCK ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề chuyển đổi mô hình pháp lý, cơ cấu sở hữu, tổ chức và của SGDCK tại Việt Nam từ hình thức SGDCK là công ty TNHH 1 thành viên thuộc sở hữu nhà nước sang hình thức đa dạng hóa về chủ thể sở hữu, tổ chức và hoạt động ở góc độ pháp lý thì lại là một vấn đề mới mẻ ở Việt Nam. Vì vậy, luận văn tập trung chủ yếu sự quan tâm vào pháp luật điều chỉnh việc chuyển đổi mô hình pháp lý về cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK ở Việt Nam hiện nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu
  11. Tác giả nghiên cứu vấn đề trên nển tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - Lênin; đồng thời sử dụng có chọn lọc lý luận của kinh tế học, khoa học pháp lý về chứng khoán và TTCK. Tác giả cũng dùng phương pháp so sánh, thống kê, phân tích - tổng hợp trong quá trình nghiên cứu để lý giải, đánh giá và nhận định vấn đề. Ngoài ra, phương pháp pháp điển hoá, tập hợp hoá các quy định của pháp luật cũng được sử dụng như một phương pháp tối ưu khi nghiên cứu các quy định pháp luật cụ thể. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan pháp luật về Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam. Chương 2: Thực trạng pháp luật về hình thức tổ chức và hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị xây dựng pháp luật về Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam.
  12. Chương 1 TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, NGUYÊN TẮC PHÁP LÝ VÀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO TRONG VIỆC XÂY DỰNG SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm, lịch sử hình thành Sở giao dịch chứng khoán tại Việt Nam Thị trường tập trung là thị trường trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch. Sở giao dịch chứng khoán là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập theo quy định của pháp luật. SGDCK có thể là một pháp nhân theo mô hình pháp lý công ty cổ phần hoặc công ty TNHH thuộc quyền sở hữu và quản lý của các thành viên, cung cấp các phương tiện giao dịch cho tổ chức, cá nhân đầu tư, kinh doanh và môi giới chứng khoán. Chỉ những công ty chứng khoán (CTCK) là thành viên của Sở mới được phép thực hiện giao dịch chứng khoán cho chính mình (tự doanh) hoặc cho nhà đầu tư tại hệ thống giao dịch tại SGDCK. Các chứng khoán được giao dịch trên SGDCK bao gồm cổ phiếu của công ty, chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán và trái phiếu. Chứng khoán được giao dịch tại SGDCK phải là những chứng khoán niêm yết. Các chứng khoán được niêm yết tại SGDCK thông thường là chứng khoán của những công ty lớn, có danh tiếng, đã đi vào hoạt động trong một thời gian nhất định và đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện niêm yết của Sở. Phương thức giao dịch tại SGDCK là phương thức đấu giá, trong đó các lệnh mua, bán được so khớp với nhau để hình thành giá cả cạnh tranh tốt nhất.
  13. Trên thế giới, lịch sử phát triển của TTCK gắn với sự ra đời và phát triển của SGDCK. Tại Việt Nam, TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh (nay là SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh) và TTGDCK Hà Nội (nay là SGDCK Hà Nội) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11 tháng 07 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập TTGDCK. TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28 tháng 7 năm 2000 và TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động vào ngày 8 tháng 3 năm 2005 đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể nói, tại thời điểm ra đời, TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội gặp rất nhiều khó khăn như: hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung chưa hoàn thiện; các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động trên TTCK còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa thống nhất và hiệu lực pháp lý chưa cao; đội ngũ cán bộ quản lý điều hành chủ yếu chuyển từ các ngành khác sang nên chưa có kinh nghiệm thực tiễn; sự hiểu biết của công chúng về đầu tư chứng khoán và TTCK còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội ra đời trong bối cảnh đất nước chưa thoát khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực vào những năm này, do đó, mức đầu tư cho nền kinh tế giảm sút, nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp chưa cao, thu nhập bình quân đầu người còn thấp... Tuy vậy, với sự quan tâm rất lớn của Chính phủ, các Bộ, Ngành, TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội đã phát triển về nhiều mặt, thực hiện tốt vai trò tổ chức và vận hành các hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung thông suốt, an toàn và hiệu quả. Ngày 11 tháng 05 năm 2007 TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh đươ ̣c chuyể n đổ i thành SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh theo Quyế t đinh ̣ số 599/QĐ-TTg ngày 11 tháng 05 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc
  14. chuyển TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh thành SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, đây là mô hình SGDCK đầu tiên của Việt Nam thực sự đã thành lập. Đối với TTGDCK Hà Nội, ngày 02 tháng 01 năm 2009, TTGDCK Hà Nội được chuyển đổi thành SGDCK Hà Nội. Do vậy, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của SGDCK Hà Nội sẽ có sự thay đổi nhất định so với TTGDCK Hà Nội hiện nay. Điều này cho thấy sự chuyển đổi hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các TTGDCK thành SGDCK là một tất yếu, xuất phát từ nhu cầu chủ quan và các điều kiện khách quan gắn với sự phát triển của thị trường và tiến trình mở cửa hội nhập tại Việt Nam. 1.1.2. Nguyên tắc pháp lý và quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam 1.1.2.1. Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng mô hình pháp lý của Sở giao dịch chứng khoán Trong quá trình thành lập và hoạt động, SGDCK đã có những bước phát triển vượt bậc cả về lượng và chất. Có được thành quả như này, phải kể đến vai trò quan trọng của Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước đã quán triệt và xây dựng các nguyên tắc mang tính chất pháp lý, quan điểm chỉ đạo khi xây dựng mô hình pháp lý cho SGDCK, trong đó, có nguyên tắc mang tính chỉ đạo và chiến lược lâu dài là Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng mô hình pháp lý của SGDCK. Bởi vì, TTCK có vai trò và ảnh hưởng hết sức to lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Để phát huy được hết những mặt tích cực và hạn chế một cách thấp nhất những mặt tiêu cực của TTCK thì Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc quản lý, xây dựng TTCK nói chung và SGDCK nói riêng. SGDCK đặc biệt được Nhà nước chú trọng đến vì SGDCK là nơi diễn ra các giao dịch của thị trường, tạo tính thanh khoản cho thị trường và giám sát giao dịch, bảo vệ nhà đầu tư. Ở Việt Nam, hình thành và phát triển SGDCK đồng thời là quá trình hoàn thiện tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán, đáp ứng nhu cầu của các
  15. nhà đầu tư. Bởi lẽ, khi hình thành SGDCK, ở Việt Nam chưa thực sự có một nền kinh tế thị trường; hàng hoá trên TTCK lúc đó chủ yếu là các cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá và trái phiếu chính phủ. Nhà nước mới là chủ thể có đầy đủ điều kiện cả về vật chất và tiềm lực để đầu tư toàn bộ cơ sở vật chất, đào tạo nhân lực, ban hành các quy định để thiết lập và đưa SGDCK vào hoạt động có hiệu quả. Mặt khác, Nhà nước quyết định hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Sở cũng nhằm đưa các định hướng của Nhà nước vào thực tiễn một cách tốt nhất. Ví dụ: khi Nhà nước muốn đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhanh thì phải xây dựng được một TTCK, bước đầu là xây dựng một địa điểm giao dịch chứng khoán tập trung như TTGDCK. Do vậy, định hướng xây dựng một SGDCK như thế nào phụ thuộc vào sự định hướng trong chính sách pháp luật của Nhà nước. Khi xây dựng SGDCK, nguyên tắc đầu tiên là Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc lựa chọn hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức và hoạt động của SGDCK. SGDCK là một doanh nghiệp, một đơn vị sự nghiệp hay là một cơ quan nhà nước là do Nhà nước chi phối và quyết định. Nhà nước không trực tiếp tham gia điều hành, quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động của Sở, mà Nhà nước quyết định về hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Sở bằng cách ban hành ra các quy định pháp luật, tạo hành lang pháp lý để SGDCK hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, Nhà nước đề ra chiến lược, chính sách mang tính tạm thời hoặc lâu dài để định hướng cho sự tồn tại và phát triển của Sở. Nhà nước hình thành cơ quan quản lý, giám sát hoạt động của SGDCK (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), Bộ Tài chính…) và dùng ngân sách nhà nước để chi trả lương và các hoạt động cho việc quản lý, giám sát hoạt động của Sở. 1.1.2.2. Hệ thống pháp luật phải đảm bảo khả năng vận hành, hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán một cách tốt nhất Mục tiêu đặt ra cho TTCK Việt Nam là tạo ra được một kênh huy động vốn tối ưu và hiệu quả nhất các nguồn vốn trong và ngoài nước để phát
  16. triển kinh tế. Đồng thời, phải xây dựng được mô hình pháp lý cho SGDCK phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong từng hoàn cảnh cụ thể. Khi mới thành lập và bước đầu hoạt động dưới mô hình TTGDCK, văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh hoạt động của TTGDCK là nghị định, thông tư, quy chế. Ngày 01 tháng 01 năm 2007, khi Luật Chứng khoán (LCK) năm 2006 có hiệu lực, đã tạo ra cơ sở pháp lý cao, đầy đủ hơn để SGDCK thực hiện tốt hơn chức năng của mình, tạo điều kiện cho các công ty cổ phần khi có đủ điều kiện, niêm yết chứng khoán trên SGDCK nhằm tăng nguồn cung cho thị trường. Đặc biệt, LCK là văn bản pháp lý đầu tiên quy định SGDCK là pháp nhân thành lập và hoạt động theo mô hình công ty TNHH hoặc công ty cổ phần mà không còn là đơn vị sự nghiệp có thu thuộc UBCKNN như Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK. Trong quá trình thực thi LCK, còn nhiều vấn đề nảy sinh cần phải điều chỉnh bằng pháp luật hoặc nhiều vấn đề phát sinh từ thực tiễn nên pháp luật cần phải được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế cho phù hợp, trong đó có những quy định về SGDCK cũng phải sửa đổi, bổ sung nếu không phù hợp. Khi đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua việc ban hành luật để khắc phục những vấn đề nói trên. Xác định hệ thống pháp luật phải đảm bảo khả năng vận hành và hoạt động của SGDCK được thực hiện một cách tốt nhất cũng chính là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ cho sự hoạt động và phát triển của SGDCK, TTCK, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; tránh việc thiếu cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động của Sở cũng như tránh tình trạng sự hoạt động của Sở nằm ngoài khuôn khổ pháp lý hoặc bộc lộ nhiều tiêu cực kìm hãm sự phát triển TTCK nói chung. Tuy nhiên, việc ban hành các quy định điều chỉnh hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ quyền hạn của SGDCK phải dựa trên những kinh nghiệm thực tiễn qua việc vận hành và hoạt động của SGDCK. Có được như vậy, hệ thống pháp luật điều chỉnh vấn đề này mới mang tính khả thi cao. 1.1.2.3. Pháp luật phải bảo đảm việc xây dựng và phát triển Sở Giao dịch chứng khoán từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn,
  17. phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và khả năng phát triển trong tương lai Việc xây dựng và tạo lập một TTCK ở Việt Nam là cần thiết và là nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bằng mọi cách phải cho ra đời một TTCK mà không dựa trên nền tảng vốn có của nền kinh tế. Trước đây, Thái Lan đã phải đóng cửa thị trường gần 10 năm mới quay trở lại hoạt động là một bài học lớn cho Việt Nam. Việc thờ ơ, không chú trọng đến một TTCK phù hợp chính là tự tước đi cho đất nước những cơ hội để tham gia hội nhập với thế giới, từ bỏ đi cơ hội thu hút vốn từ bên ngoài vào Việt Nam, không phát huy được vai trò quan trọng trong việc huy động vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu quá kỳ vọng vào những giá trị tích cực mà thị TTCK đã mang lại cho nền kinh tế để xây dựng một thị trường vượt trội, to lớn hoặc tham vọng thì lại dễ đổ vỡ hoặc phát sinh nhiều tính tiêu cực. Bước đầu để đáp ứng cho nhu cầu giao dịch chứng khoán trên thị trường, Nhà nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật và cho ra đời mô hình TTGDCK (TTGDCK Hà Nội và TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh). TTGDCK do Chính phủ thành lập. Hoạt động của TTGDCK không vì mục tiêu lợi nhuận, với sự tham gia đầy đủ của các tổ chức tài chính trung gian và có hệ thống giao dịch bán tự động, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu mua, bán chứng khoán trên thị trường và quản lý được hoạt động giao dịch trên TTGDCK. TTGDCK sẽ là mô hình thử nghiệm vừa là bước đệm cho việc thành lập SGDCK với quy mô lớn và hiện đại hơn. Kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và khi LCK được thông qua, TTCK Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ, vượt bậc, nằm ngoài mong đợi của những quan điểm, nhận định, dự báo lạc quan nhất trước đó. Quy mô giao dịch, khối lượng giao dịch, giá trị giao dịch tăng mạnh, thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước; hàng hoá cung cấp cho thị trường ngày một đa dạng và chất lượng hơn; tính thanh khoản của thị trường ngày càng cao. Với mô hình pháp lý của TTGDCK sẽ không còn thích hợp nữa, cần thiết phải chuyển đổi mô hình pháp lý TTGDCK thành mô hình pháp lý SGDCK để đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của tình hình thị trường
  18. hiện nay. Mô hình pháp lý SGDCK là công ty TNHH nhà nước một thành viên đang là lựa chọn tốt nhất cho Việt Nam, khắc phục được những hạn chế khi các TTGDCK còn là đơn vị sự nghiệp có thu của Nhà nước. Dưới mô hình pháp lý SGDCK là một doanh nghiệp, SGDCK linh hoạt và chủ động hơn trong việc điều hành, giám sát thị trường. Tuy nhiên, khi thị trường đã phát triển vượt bậc, đạt đến một trình độ cao, SGDCK hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nữa thì khi đó, mô hình pháp lý của SGDCK sẽ được Nhà nước nghiên cứu và định hướng cho phù hợp, và như vậy, pháp luật cũng phải thay đổi và xây dựng một mô hình SGDCK hiệu quả hơn. 1.1.2.4. Pháp luật phải bảo đảm xây dựng được mô hình Sở Giao dịch chứng khoán vận hành an toàn hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, bảo vệ nhà đầu tư Đây vừa là mục tiêu vừa là vai trò của pháp luật về SGDCK. Dù có khác nhau về quy mô, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các SGDCK trên thế giới, nhưng định hướng phát triển SGDCK nhằm hướng tới một thị trường có tổ chức, có quản lý và giám sát, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường, bảo vệ nhà đầu tư một cách hiệu quả, thì ở hệ thống pháp luật về SGDCK của nước nào cũng có. TTCK là một thì trường tài chính bậc cao, chứa đựng trong đó đầy yếu tố rủi ro và tiêu cực, nhất là trong những giai đoạn thị trường quá "nóng" hay quá "lạnh" và ngày càng chịu ảnh hưởng lớn hơn từ thị trường tài chính và TTCK toàn cầu. Do vậy, từ hoạt động thực tiễn của SGDCK, chúng ta phải dự báo và phát hiện trước được những dấu hiệu bất thường hoặc tiêu cực của thị trường; dự đoán được điều gì sẽ xảy ra hoặc có thể xảy ra để có biện pháp chủ động ứng phó. Biện pháp pháp lý là biện pháp cơ bản và quan trọng tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho thị trường hoạt động hiệu quả. Mặt khác, SGDCK cũng là một chủ thể tham gia TTCK, hoạt động của SGDCK cũng cần phải công khai, minh bạch trong việc công bố thông tin, giao dịch và các vấn đề khác mới tạo được tạo sự yên tâm cho các chủ thể
  19. khi tham gia vào TTCK. Để làm được như vậy, pháp luật cần phải có quy định về cơ chế giám sát hoạt động của SGDCK. Nói cách khác, SGDCK phải chịu sự quản lý của Nhà nước và phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. SGDCK không thể đứng trên các chủ thể khác và càng không thể hoạt động ngoài đối tượng điều chỉnh của pháp luật. 1.2. VỊ TRÍ PHÁP LÝ VÀ CHỨC NĂNG CỦA SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TRONG THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 1.2.1. Vị trí pháp lý của Sở Giao dịch chứng khoán trong thị trƣờng chứng khoán TTCK ngày càng trở nên phát triển và có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Trong một TTCK hoàn chỉnh, không thể thiếu được SGDCK bởi SGDCK có vị trí pháp lý rất quan trọng trong TTCK. SGDCK với vị trí pháp lý là chủ thể điều hành và tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán, đã tạo tính thanh khoản cho thị trường. Nếu chứng khoán của một tổ chức phát hành mà việc mua đi bán lại quy đổi từ tiền sang chứng khoán và ngược lại một cách nhanh chóng, thuận lợi thì sẽ tạo ra sức hút đối với nhà đầu tư, đồng thời, tổ chức phát hành sẽ dễ huy động vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vị trí pháp lý của SGDCK được pháp luật các nước thừa nhận rộng rãi và là chế định không thể thiếu trong văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK. Pháp luật các nước thường quy định SGDCK là một tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập theo quy định của pháp luật, có con dấu, trụ sở riêng, tự chủ hoặc có nguồn tài chính riêng, nhân danh mình chịu trách nhiệm trước pháp luật. SGDCK có thể là một pháp nhân dưới hình thức pháp lý công ty cổ phần hoặc công ty TNHH thuộc sở hữu của các thành viên của Sở, hoặc cũng có thể là một tổ chức cung cấp các phương tiện giao dịch cho các nhà kinh doanh và môi giới chứng khoán để mua bán chứng khoán.
  20. Với sự phát triển của TTCK, cùng với sự tiến bộ về khoa học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá, SGDCK ngày càng trở nên quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia và nhất là đối với nhà đầu tư và tổ chức trung gian. 1.2.2. Chức năng của Sở giao dịch chứng khoán Một trong những chức năng quan trọng của SGDCK là thiết lập một thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức, vận hành liên tục với các chứng khoán được chọn lựa theo tiêu chí lựa chọn hàng hoá niêm yết của pháp luật cho từng SGDCK. Tuỳ thuộc vào quy mô và sự phát triển của TTCK ở mỗi quốc gia trong từng giai đoạn để xây dựng cơ chế vận hành SGDCK cho phù hợp. Mặc dù hoạt động của SGDCK không mang lại vốn trực tiếp cho tổ chức phát hành chứng khoán, nhưng thông qua SGDCK, các chứng khoán phát hành được giao dịch liên tục, làm tăng tính thanh khoản và tính khả mại cho các chứng khoán. Các tổ chức phát hành có thể phát hành để tăng vốn qua TTCK, các nhà đầu tư có thể dễ dàng mua hoặc bán chứng khoán, chuyển đổi các loại chứng khoán mà họ sở hữu thành tiền hoặc các loại chứng khoán khác. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn nhà đầu tư chứng khoán, bởi vì nó đảm bảo tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Đây là một chức năng quan trọng đảm bảo cho TTCK hoạt động một cách năng động và hiệu quả. SGDCK còn có chức năng quan trọng là tạo ra một thị trường liên tục trong việc phát hành chứng khoán ra công chúng. Chứng khoán được mua đi bán lại rất lớn với mức biến đổi của thị giá bởi các giao dịch diễn ra liên tục và kế tiếp nhau tạo ra các khoản đầu tư có tính thanh khoản, dễ lưu thông trên thị trường, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản vay có thế chấp. SGDCK còn có chức năng xác định giá chứng khoán căn cứ trên cung cầu của thị trường. Chức năng xác định giá chứng khoán một cách công bằng rất quan trọng trong hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán. Tuy nhiên, giá
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2