intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhượng quyền thương mại

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

56
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu mà luận văn hướng tới là làm sáng tỏ về mặt lý luận hoạt động nhượng quyền thương mại và pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại; phân tích thực trạng thực trạng pháp luật hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay, đánh giá những ưu điểm cũng như những mặt hạn chế, còn tồn tại trong các quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng nhượng quyền thương mại; đưa ra kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi của pháp luật hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhượng quyền thương mại

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ TUYẾT NHUNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG Hà Nội – 2009
  2. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 01 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHƢỢNG QUYỀN 05 THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 1.1. Khái quát chung về nhƣợng quyền thƣơng mại 05 1.1.1. Khái lược quá trình hình thành và phát triển của hoạt động nhượng 05 quyền thương mại trên thế giới và ở Việt Nam 1.1.2. Quan niệm về nhượng quyền thương mại 10 1.1.3. Đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại 15 1.1.4. Đánh giá tác động của hoạt động nhượng quyền thương mại 17 1.2. Những vấn đề chung về pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhƣợng 24 quyền thƣơng mại 1.2.1. Khái niệm pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại 24 1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại 26 1.2.3. Sơ lược về pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại 32 ở Việt Nam Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP 36 ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI 2.1. Khái niệm và phân loại hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại 37 2.1.1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại 37 2.1.2. Phân loại hợp đồng nhượng quyền thương mại 40 2.2. Chủ thể của hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại 42 2.3. Nội dung và hình thức của hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại 47 2.3.1. Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại 47 2.3.2. Hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại 58
  3. 2.4. Một số vấn đề pháp lý liên quan giữa pháp luật hợp đồng nhƣợng 59 quyền thƣơng mại với pháp luật Sở hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh 2.4.1. Một số vấn đề pháp lý liên quan giữa pháp luật hợp đồng nhượng 59 quyền thương mại với pháp luật Sở hữu trí tuệ 2.4.2. Một số vấn đề pháp lý liên quan giữa pháp luật hợp đồng nhượng 62 quyền thương mại với pháp luật cạnh tranh Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN VÀ 69 NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 3.1. Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật hợp đồng nhƣợng 69 quyền thƣơng mại ở Việt Nam 3.1.1. Tình hình thực tế 69 3.1.2. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng nhượng quyền 71 thương mại 3.1.3. Một số kiến nghị cụ thể góp phần hoàn thiện pháp luật hợp đồng 73 nhượng quyền thương mại ở Việt Nam 3.2. Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả thực thi của pháp 87 luật hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại ở Việt Nam 3.2.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi của pháp luật hợp 87 đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam 3.2.2. Một số kiến nghị cụ thể góp phần nâng cao hiệu quả thực thi của 90 pháp luật hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam KẾT LUẬN 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Được biết đến như là một trong những phương thức kinh doanh hữu hiệu, mang lại danh tiếng và lợi nhuận cho các thương nhân cũng như sự tăng trưởng vững chắc cho cả nền kinh tế, nhượng quyền thương mại (franchising) đã ngày càng khẳng định được vị trí vai trò của mình trong đời sống thương mại của các quốc gia trên thế giới. Ở Mỹ vào năm 2001, có khoảng 800.000 cơ sở kinh doanh theo phương thức franhchise với hơn 10 triệu nhân công và 625 tỷ USD doanh số. Tại Trung Quốc, trong hai năm 2002, 2003 số các cửa hàng nhận quyền thương mại đã lên tới 70.000 với doanh số bán hàng chiếm 7.8% doanh số toàn quốc [22]. Trên bình diện toàn thế giới, doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhượng quyền thời điểm năm 2000 đạt 1.000 tỷ USD với khoảng 320.000 doanh nghiệp từ 75 ngành nghề khác nhau [32, tr.28]. Ở Việt Nam, hoạt động nhượng quyền thương mại trong những năm gần đây đang có xu hướng phát triển nhanh. Hàng loạt các doanh nghiệp có tên tuổi ở Việt Nam đã tiến hành nhượng quyền thương mại ở trong và ngoài nước. Những cái tên như Cà Phê Trung Nguyên, Phở 24, AQ Silk, Kinh Đô Bakery, Thời trang Foci…đã trở nên quen thuộc với nhiều người tiêu dùng. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, lại là một trong bốn thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới [31, tr.163], Việt Nam là mảnh đất hứa đầy tiềm năng cho sự phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại. Điều này đã đặt ra cho Việt Nam những thách thức lớn trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại - một điều kiện vô cùng quan trọng cho sự thành công và phát triển của phương thức kinh doanh này. 1
  5. Sự hợp tác giữa các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại được thể hiện thông qua Hợp đồng nhượng quyền thương mại. Hợp đồng nhượng quyền thương mại là kết quả của sự tự do và thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia quan hệ, là căn cứ pháp luật có giá trị ràng buộc cao nhất để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình cũng như là cơ sở để giải quyết tranh chấp. Đứng về góc độ quản lý Nhà nước, hợp đồng nhượng quyền thương mại còn là cơ sở để Nhà nước quản lý hoạt động nhượng quyền trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Có thể nói, hợp đồng nhượng quyền thương mại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các chủ thể tham gia quan hệ. Xuất phát từ bản chất của quan hệ nhượng quyền thương mại là quan hệ rất phức tạp, pháp luật điều chỉnh về hợp đồng nhượng quyền thương mại cũng hết sức đa dạng, được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, tổng thể các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhượng quyền thương mại là hết sức cần thiết, góp phần đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại, thúc đẩy một môi trường kinh doanh lành mạnh, an toàn cho các chủ thể. Với những lý do đó, tác giả chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhượng quyền thương mại” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nhượng quyền thương mại là một chế định pháp lý được quy định trong Luật thương mại Việt Nam 2005. Hiện nay ở Việt Nam đã có nhiều bài viết, bài báo, tạp chí, công trình nghiên cứu về vấn đề này. Trong đó, một số vấn đề pháp lý về hợp đồng nhượng quyền thương mại cũng đã rải rác được đề cập đến. Có thể kể đến các bài viết như: “Các điều khoản độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại” của tác giả Bùi Ngọc Cường đăng trên tạp chí Nhà nước và 2
  6. pháp luật số 7/2007, bài viết: “Một số vấn đề pháp lý về chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại” của tác giả Vũ Đặng Hải Yến đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 4/2008… Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể và chuyên sâu về các vấn đề pháp lý có liên quan tới hợp đồng nhượng quyền thương mại. Vì vậy, đây sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu mà luận văn hướng tới là: - Làm sáng tỏ về mặt lý luận hoạt động nhượng quyền thương mại và pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại. - Phân tích thực trạng thực trạng pháp luật hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay, đánh giá những ưu điểm cũng như những mặt hạn chế, còn tồn tại trong các quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng nhượng quyền thương mại. - Đưa ra kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi của pháp luật hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm về hoạt động nhượng quyền thương mại và pháp luật hợp đồng nhượng quyền thương mại, các văn bản pháp luật của Việt Nam điều chỉnh về quan hệ hợp đồng nhượng quyền thương mại; một số kinh nghiệm pháp luật quốc tế trong việc quy định về hợp đồng nhượng quyền thương mại. 3
  7. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý phổ biến như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và đối chiếu, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê…Các phương pháp này được sử dụng nghiên cứu trên nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; trên cơ sở các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. 6. Bố cục của Luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được kết cấu thành 03 chương với các nội dung như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại và pháp luật hợp đồng nhượng quyền thương mại Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhượng quyền thương mại Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam 4
  8. CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 1.1. Khái quát chung về nhƣợng quyền thƣơng mại 1.1.1. Khái lƣợc quá trình hình thành và phát triển của hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại trên thế giới và ở Việt Nam 1.1.1.1. Khái lược quá trình hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới Nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng hình thức sơ khai của lối kinh doanh nhượng quyền đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ 17-18 tại Châu Âu. Tuy nhiên, hoạt động nhượng quyền thương mại (tên tiếng Anh là franchise) chính thức được thừa nhận là khởi nguồn và phát triển tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 19, khi mà Nhà máy Singer (sản xuất máy khâu) ký kết hợp đồng nhượng quyền kinh doanh đầu tiên cho đối tác của mình. Franchise thực sự phát triển mạnh, bùng phát kể từ sau năm 1945 (khi Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc), với sự ra đời của hàng loạt hệ thống nhà hàng, khách sạn và các hệ thống kinh doanh, phân phối theo kiểu bán lẻ, mà sự đồng nhất về cơ sở hạ tầng, thương hiệu, sự phục vụ là đặc trưng cơ bản để nhận dạng những hệ thống kinh doanh theo phương thức này. Phương thức kinh doanh nhượng quyền thương mại đã mang lại danh tiếng, sự thành công và niềm tự hào cho nhiều doanh nhân nước Mỹ. Người ta không thể không nhắc đến các thương hiệu đã trở thành biểu tượng của văn hóa Mỹ thông qua hoạt động nhượng quyền như McDonald’s, KFC, Holiday Inn, Dairy Qeen, 7-Eleven, Subway… Từ Mỹ, nhượng quyền thương mại đã phát triển rộng khắp trên quy mô toàn cầu. Ở Châu Âu, hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển khá mạnh 5
  9. từ những năm 1980 do nhu cầu hàng hóa, dịch vụ ngày càng tăng, quá trình đô thị hóa ngày càng mở rộng. Đến năm 1998, theo số liệu thống kê của Châu Âu thì toàn Châu Âu có tổng cộng 3.888 hệ thống nhượng quyền với 167.432 cửa hàng nhượng quyền, đóng góp khoảng 95 tỉ Euro doanh số và tạo ra hơn 1,5 triệu việc làm cho người dân các nước Châu Âu [32, tr.28]. Nhận thấy lợi ích, hiệu quả của phương thức kinh doanh này, nhiều quốc gia đã có các chính sách khuyến khích phát triển franchise. Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên luật hoá franchise và có các chính sách ưu đãi cho những cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức franchise. Chính phủ các nước phát triển khác như Anh, Pháp, Đức, Nhật, Ý... cũng noi gương Hoa Kỳ, ban hành các chính sách thúc đẩy, phát triển hoạt động franchise, khuyến khích và hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc bán franchise ra nước ngoài. Nhiều trung tâm học thuật, nghiên cứu chính sách về franchise của các chính phủ, tư nhân lần lượt ra đời, các trường đại học cũng có riêng chuyên ngành về franchise để đào tạo, đáp ứng nhu cầu mới của nền kinh tế. Tại Châu Á, vào khoảng những năm 1970, nhượng quyền thương mại mới xuất hiện với sự kiện Nhật Bản là nước đầu tiên mua franchise từ một công ty của Mỹ. Đến những năm 1980, thì nhượng quyền thương mại mới thực sự được biết đến và dần phổ biến ở Châu Á, đặc biệt ở những nước Đông Á khi những nước này có chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài. Tại Đông Nam Á, kể từ thập niên 90, các quốc gia đã nhận thấy tác động của franchise đến việc phát triển nền kinh tế quốc dân là quan trọng và là xu thế tất yếu của toàn cầu hóa, vì vậy nhiều chính sách, giải pháp phát triển kinh tế liên quan đến franchise đã được nghiên cứu, ứng dụng và khuyến khích phát triển. Năm 1992, Chính phủ Malaysia đã bắt đầu triển khai chính sách phát triển hoạt động kinh doanh nhượng quyền 6
  10. (Franchise development program) với mục tiêu gia tăng số lượng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, thúc đẩy và phát triển việc bán franchise ra bên ngoài quốc gia. Singapore, quốc gia láng giềng của Malaysia, cũng có các chính sách tương tự nhằm thúc đẩy, phát triển hoạt động nhượng quyền trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ như đào tạo, y tế, du lịch, khách sạn, nhà hàng... Gần đây nhất, kể từ thời điểm năm 2000, Chính phủ Thái Lan cũng đã có các chính sách khuyến khích, quảng bá, hỗ trợ việc nhượng quyền của các doanh nghiệp Thái Lan tại thị trường nội địa và quốc tế. Hiện nay, hoạt động nhượng quyền thương mại ở Châu Á tạo doanh thu hơn 50 tỷ USD mỗi năm [43]. Cùng với sự phát triển không ngừng của hoạt động nhượng quyền thương mại trên lãnh thổ của nhiều quốc gia là sự ra đời của các tổ chức, các hiệp hội khu vực và quốc tế về nhượng quyền thương mại. Năm 1960, Hiệp hội Nhượng quyền thương mại Quốc tế (International Franchise Association) được thành lập với khoảng 30.000 thành viên bao gồm các doanh nghiệp mua, bán franchise. Năm 1994, ghi nhận sự ra đời của một tổ chức franchise uy tín khác, đó là Hội đồng nhượng quyền thương mại Thế giới (World Franchise Council) với thành viên là hiệp hội nhượng quyền thương mại của nhiều quốc gia khác nhau. Thông qua các tổ chức này, nhiều hoạt động có ích cho doanh nghiệp, cho các nền kinh tế quốc gia đã được thực hiện như: tổ chức các hội chợ franchise quốc tế; xây dựng niên giám franchise khu vực và trên toàn thế giới; hợp tác xuất bản các ấn phẩm chuyên ngành, các website để cung cấp thông tin cho mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm đến franchise...;tư vấn, hỗ trợ, hợp tác và phát triển phương thức kinh doanh franchise. Với việc ra đời các tổ chức, hiệp hội cũng như các chính sách phát triển hoạt động nhượng quyền thương mại của Chính 7
  11. phủ các nước đã cho thấy sự lớn mạnh và vai trò to lớn của hoạt động này đối với sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. 1.1.1.2. Khái lược quá trình hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam Ở Việt Nam, hoạt động nhượng quyền thương mại thực ra đã có mặt từ trước năm 1975 thông qua hình thức nhượng quyền phân phối sản phẩm của các trạm xăng dầu của Mỹ như Mobil, Exxon (Esso), Shell và các đại lý bảo dưỡng ô tô, xe máy, sau đó là sự xuất hiện của các chuỗi cửa hàng rửa tráng phim ảnh Kodak, Fuji, Konia…[31, tr.153]. Tuy nhiên, phải đến những năm 1990, nhượng quyền thương mại mới chính thức được ghi nhận ở nước ta. Dù ra đời khá muộn song nhượng quyền thương mại ở Việt Nam đã và đang phát triển với tốc độ rất nhanh. Theo thống kê của Hội đồng nhượng quyền thương mại thế giới năm 2004, Việt Nam có khoảng 70 hệ thống nhượng quyền hoạt động, trong đó phần lớn là các thương hiệu nước ngoài. Đến năm 2006, có khoảng 530 hồ sơ đăng ký nhượng quyền thương mại trong nhiều lĩnh vực khác nhau [31, tr.154]. Thị trường Việt Nam đã ghi nhận sự thành công của rất nhiều thương hiệu nước ngoài khi tiến hành nhượng quyền ở Việt Nam. Có thể kể đến trong lĩnh vực đồ ăn nhanh có KFC, Pizza Hut (Mỹ), Lotterria (Hàn Quốc), Jollibee (Phillippines)…; trong lĩnh vực bán lẻ có Bourbon Group (Pháp), Parkson (Malaysia), Metro Cash & Carry (Đức), Medicare (Anh)…; trong lĩnh vực thời trang có Valentino Rudy (Italia) hay Piere Cardin (Pháp)…Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp trong nước cũng đã khẳng định được tên tuổi của mình thông qua phương thức kinh doanh nhượng quyền. Một trong những doanh nghiệp tiên phong đi đầu trong lĩnh vực nhượng quyền tại Việt Nam phải kể đến Công ty Cà phê Trung Nguyên. Được thành lập 8
  12. tại Buôn Mê Thuột vào năm 1996, đến năm 1998 Trung Nguyên chính thức có mặt tại thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 8/2001, Trung Nguyên phát triển hệ thống ra thị trường tại Hà Nội, đánh dấu sự hiện diện của thương hiệu trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Năm 2002, Trung Nguyên đã vươn xa ra thị trường quốc tế với sự chuyển nhượng thành công tại Nhật Bản, Mỹ, Singapore, Thái Lan…Theo đại diện của Công ty, để được kinh doanh dưới thương hiệu cà phê Trung Nguyên, các cửa hàng nhượng quyền chính thức của Trung Nguyên đều phải ký một hợp đồng ràng buộc với công ty. Theo đó, các cửa hàng này phải bài trí cửa hàng, bàn ghế theo một mẫu chung, tuân thủ công thức pha chế, an toàn vệ sinh thực phẩm cũng như duy trì chất lượng, phong cách phục vụ theo một tiêu chuẩn thống nhất trong toàn bộ hệ thống của hàng của Trung Nguyên. Ngoài việc nhận được một khoản phí nhượng quyền, Trung Nguyên còn có quyền giám sát các cửa hàng trong hệ thống của mình để bảo vệ thương hiệu của mình. Với phương thức đó, Trung Nguyên đã phát triển hệ thống của mình với hơn 500 đại lý nhượng quyền chính thức phủ khắp Việt Nam và có mặt tại nhiều quốc gia trên thế giới. Cùng với cà phê Trung Nguyên, Phở 24 cũng là một trong những doanh nghiệp tiểu biểu về nhượng quyền thương mại ở Việt Nam. Phở 24 là chuỗi cửa hàng phở cao cấp thuộc Nam An Group - một tập đoàn chuyên kinh doanh về nhà hàng được thành lập vào năm 2000 tại thành phố Hồ Chí Minh. Từ khi thành lập, Phở 24 đã nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường trong nước và phát triển trên phạm vi quốc tế. Với cách thức nhượng quyền bài bản, được chuẩn bị chu đáo, cụ thể đến từng khâu, từng chi tiết, Phở 24 đã xây dựng 50 cửa hàng nhượng quyền trong và ngoài nước tính đến ngày 20/3/2007 [31, tr.266]. Tại Diễn đàn doanh nghiệp toàn cầu (Singapore), Phở 24 đã vinh dự lọt vào vòng 9
  13. chung khảo “Giải thưởng quốc tế về nhượng quyền” do Hiệp hội nhượng quyền châu Á - FLA (Franchising & Licensing Asia) tổ chức. Sau thành công của Cà phê Trung Nguyên, Phở 24, các doanh nghiệp khác ở Việt Nam đã nhận ra tính ưu việt nổi trội của phương thức kinh doanh nhượng quyền và áp dụng theo mô hình này. Hệ thống siêu thị bán lẻ G7 Mart đã hình thành và phát triển với số lượng 500 cửa hàng. Công ty Kinh Đô Barkery đã có 100 cửa hàng nhượng quyền chính thức sau 3 năm kể từ khi cửa hàng nhượng quyền đầu tiên đi vào hoạt động vào năm tháng 10/2007. Công ty TNHH AQ Silk đã nhượng quyền thành công thương hiệu của mình tại Mỹ với giá 100.000 USD… Như vậy, có thể thấy, sự xuất hiện của hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam là khá muộn so với các nước trong khu vực và trên thế giới, song với những bước đi đầu tiên đã được khẳng định sẽ báo hiệu làn sóng nhượng quyền diễn ra mạnh mẽ trong thời gian tới. Cùng với sự phát triển đó, việc hoàn thiện pháp luật nhượng quyền thương mại nói chung và pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại nói riêng càng trở nên có ý nghĩa. 1.1.2. Quan niệm về nhƣợng quyền thƣơng mại Dù đã xuất hiện khá lâu trong đời sống thương mại ở nhiều quốc gia trên thế giới, song cho đến nay, nhượng quyền thương mại vẫn chưa có một khái niệm chung thống nhất. Tùy theo góc độ tiếp cận, chế độ kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức mà các quan niệm, định nghĩa về nhượng quyền thương mại cũng khác nhau. Nhìn nhận dưới góc độ kinh tế, nhượng quyền thương mại được hiểu là một phương thức hoạt động kinh doanh nhằm mở rộng hệ thống kinh doanh, phân phối hàng hóa, dịch vụ của các thương nhân thông qua việc chia sẻ quyền 10
  14. kinh doanh trên một thương hiệu, bí quyết kinh doanh cho một thương nhân khác [47, tr.11]. Phương thức kinh doanh này được thiết lập giữa hai chủ thế: bên nhượng quyền (franchisor) và bên nhận quyền (franchisee). Trong đó, bên nhượng quyền sẽ chuyển mô hình kinh doanh, nhãn hiệu hàng hoá/dịch vụ, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo… cho bên nhận quyền để thu một khoản phí nhượng quyền từ bên nhận quyền. Đây là hình thức để bên nhượng quyền mở rộng mạng lưới kinh doanh , khai thác được lợi ích từ thương hiệu của mình mà không phải đầu tư thêm vốn. Đối với bên nhận quyền, phương thức này giúp họ không phải nỗ lực mất công gây dựng mà vẫn được hưởng lợi từ chính tên thương mại, uy tín của bên nhượng quyền. Nhìn nhận dưới góc độ pháp lý, Hiệp hội Nhượng quyền thương mại quốc tế (The International Franchise Association) đã định nghĩa Nhượng quyền thương mại như sau: “Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng giữa bên giao và bên nhận quyền. Theo đó bên giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp (cơ sở, cửa hàng…) của bên nhận trên các khía cạnh như: bí quyết kinh doanh, đào tạo nhân viên và các chương trình xúc tiến bán hàng. Bên nhận hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hóa, phương thức, phương pháp kinh doanh do bên giao sở hữu hoặc kiểm soát và bên nhận đang hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng các nguồn lực của mình.”[31, tr.19]. Như vậy, nhượng quyền thương mại theo quan niệm của Hiệp hội Nhượng quyền thương mại quốc tế là một quan hệ hợp đồng giữa hai bên: bên giao quyền và bên nhận quyền. Hai bên này có sự ràng buộc lẫn nhau về nghĩa vụ. Bên giao phải có nghĩa vụ đề xuất hoặc duy trì sự quan tâm liên tục đến bên nhận quyền. 11
  15. Ngược lại, bên nhận quyền hoạt động dưới nhãn hiệu, phương thức kinh doanh của bên giao, phải chịu sự kiểm soát của bên giao và chịu chi phí cho sự đầu tư vào doanh nghiệp mình để tiến hành kinh doanh. Cũng tiếp cận dưới góc độ pháp lý của hoạt động nhượng quyền thương mại, Bộ luật dân sự Nga định nghĩa bản chất pháp lý của hoạt động này như sau: “Theo Hợp đồng nhượng quyền thương mại, một bên (bên có quyền) phải cấp cho bên kia (bên sử dụng) với một khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không thời hạn, quyền được sử dụng trong các hoạt động kinh doanh của bên sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền của bên có quyền bao gồm, quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối với bí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ.”[31, tr.21]. Quan niệm này đã cụ thể hơn về đối tượng của hợp đồng là một tập hợp các quyền độc quyền của bên có quyền gồm quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ. Khái niệm này cũng đã làm rõ nghĩa vụ phải trả một khoản thù lao của bên sử dụng (bên nhận quyền) cho bên có quyền (bên nhượng quyền) đồng thời xác định việc chuyển giao có thể theo một thời hạn hoặc không có thời hạn tùy theo sự thỏa thuận của các bên. Theo Bộ Quy chế của Châu Âu về nhượng quyền thương mại do Hiệp hội Châu Âu về nhượng quyền thương mại ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/1/1992, hoạt động nhượng quyền thương mại được gọi bằng một tên khác là: chuyển nhượng quyền sử dụng thương hiệu và được định nghĩa: “Chuyển nhượng quyền sử dụng thương hiệu được định nghĩa là một hệ thống thương mại hóa các sản phẩm và/hoặc các dịch vụ và/hoặc các công 12
  16. nghệ, được xây dựng dựa trên mối quan hệ hợp tác chặt chẽ và liên tục về pháp lý và tài chính giữa các doanh nghiệp khác nhau và hoạt động độc lập với nhau, giữa một bên là người chuyển nhượng quyền sử dụng thương hiệu và một bên là những người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thương hiệu, trong đó, người chuyển nhượng quyền sử dụng thương hiệu chấp nhận cho những người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thương hiệu quyền và nghĩa vụ khai thác kinh doanh đối tượng chuyển nhượng của người chuyển nhượng quyền sử dụng thương hiệu”[47, tr.16 - 17]. Định nghĩa nêu trên đã chỉ ra được một số điểm chính để nhận dạng một hoạt động nhượng quyền thương mại, đó là: (i) việc chuyển nhượng được thực hiện khi có hai chủ thể: bên nhượng quyền và bên nhận quyền, (ii) việc chuyển nhượng có thể được thực hiện đối với cả sản phẩm hàng hóa, dịch vụ hoặc công nghệ, (iii) bên nhận quyền và bên nhượng quyền là hai doanh nghiệp khác nhau, độc lập với nhau về mặt pháp lý nhưng đồng thời giữa chúng lại có mối liên hệ hợp tác chặt chẽ và liên tục, (iv) bên nhận quyền có quyền và nghĩa vụ khai thác kinh doanh đối tượng chuyển nhượng từ người nhượng quyền. Ở Việt Nam, từ góc độ pháp luật thực định, nhượng quyền thương mại được quy định tại Điều 284 Mục 8 Chương VI Luật thương mại 2005: “Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây: 1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; 13
  17. 2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.” Như vậy, cho dù dưới những cách tiếp cận khác nhau, ở những tổ chức, quốc gia khác nhau, nhưng tựu chung lại, có thể rút ra một số những dấu hiệu cơ bản để nhận diện hoạt động nhượng quyền thương mại như sau: (i) Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại, được thực hiện bởi ít nhất hai bên chủ thể khác nhau và độc lập với nhau về mặt pháp lý: bên nhượng quyền và bên nhận quyền. (ii) Đối tượng của nhượng quyền thương mại là quyền thương mại. Quyền thương mại được hiểu là quyền tiến hành kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo cách thức của bên nhượng quyền quy định; cùng với đó là việc sử dụng một tập hợp các dấu hiệu tập hợp khách hàng như: nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo…của bên nhượng quyền. (iii) Để có quyền khai thác quyền thương mại của bên nhượng quyền, bên nhận quyền phải trả một khoản phí cho bên nhượng quyền gọi là phí nhượng quyền. Khoản phí này có thể bao gồm phí nhượng quyền ban đầu và phí nhượng quyền trả định kỳ dựa trên doanh thu hàng tháng, hàng năm của bên nhận quyền. Bên nhận quyền cũng phải chịu mọi chi phí cho việc đầu tư ban đầu cho cửa hàng nhận quyền của mình. (iv) Bên nhận quyền và bên nhượng quyền dù là hai chủ thể độc lập nhưng lại luôn tồn tại một mối quan hệ ràng buộc mật thiết với nhau trong suốt thời gian nhượng quyền. Bên nhượng quyền tiến hành cung cấp tài liệu, đào tạo nhân viên, thường xuyên hỗ trợ kỹ thuật cho bên nhận quyền. Ngược lại, bên nhận 14
  18. quyền có nghĩa vụ chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và tuân thủ các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ của bên nhượng quyền. 1.1.3. Đặc điểm của hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại đặc thù, có những đặc điểm riêng biệt so với các hoạt động thương mại khác. Điều này được thể hiện qua một số những đặc trưng cơ bản sau đây: Thứ nhất, về chủ thể, các chủ thể tham gia hoạt động nhượng quyền thương mại đều phải đáp ứng những điều kiện nhất định cả dưới góc độ kinh tế lẫn pháp lý. Muốn nhượng được quyền thương mại của mình cho người khác, bên nhượng quyền phải là thương nhân đã khẳng định được vị trí vững chắc trên thương trường bằng uy tín, chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp đến khách hàng. Ngược lại, bên nhận quyền, để có thể khai thác và tiến hành kinh doanh bằng quyền thương mại của bên nhượng quyền cũng cần phải đáp ứng các điều kiện về tài chính, về kỹ năng, kinh nghiệm kinh doanh do bên nhượng quyền đề ra. Dưới góc độ pháp lý, pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định chủ thể tham gia hoạt động nhượng quyền thương mại phải là thương nhân và có tư cách pháp hoàn toàn độc lập với nhau, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động kinh doanh do mỗi chủ thể tiến hành và thực hiện. Thứ hai, về tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền, đây là một trong những đặc trưng không thể thiếu của hoạt động nhượng quyền thương mại. Bởi đó chính là cơ sở cốt lõi mang tính bản chất cho việc tồn tại và phát triển của hệ thống nhượng quyền. Khi diễn đạt điều này, ông Albert Kong, một chuyên gia quốc tế về franchise đã nói rằng “franchise là nhân bản vô tính”[33, tr.11], nghĩa là các cơ sở nhận quyền phải là một bản sao của cửa hàng nhượng quyền, để khách hàng khi bước vào bất cứ cơ sở nào của một hệ thống nhượng quyền đều 15
  19. khó có thể tìm thấy sự khác nhau giữa chúng. Khi một hệ thống nhượng quyền mất đi tính đồng bộ cũng có nghĩa là hệ thống đó đang đứng trước nguy cơ sụp đổ. Thứ ba, về đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại, là quyền thương mại - một loại tài sản vô hình. Đó là một thể thống nhất tạo nên bởi rất nhiều các quyền tài sản khác nhau như quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp (nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, công nghệ sản xuất…), quyền kinh doanh theo hệ thống vận hành với phương thức quản lý, tiếp thị, đào tạo của bên nhượng quyền… Theo cách hiểu nhượng quyền thương mại là nhượng quyền phương thức kinh doanh thì quyền thương mại có lẽ không chỉ dừng ở đó mà còn được mở rộng không ngừng cùng với sự phát triển đa dạng và nhiều biến đổi của hoạt động kinh doanh. Quyền thương mại được mở rộng hay thu hẹp đến đâu là phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên tham gia trong quan hệ nhượng quyền. Điều này đã tạo nên sự phong phú, phức tạp của khái niệm quyền thương mại cũng như tạo ra nét đặc trưng riêng biệt của hoạt động thương mại so với các hoạt động khác. Thứ tư, về mối quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền, luôn tồn tại một mối quan hệ gắn bó mật thiết và liên tục trong suốt quá trình nhượng quyền. Sự gắn bó mật thiết của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền được thể hiện trên hai phương diện: vừa là mối quan hệ mang tính “hỗ trợ”, vừa là mối quan hệ mang tính “kiểm soát”. Bên nhượng quyền hỗ trợ cho bên nhận quyền trong việc đào tạo ban đầu, trợ giúp kỹ thuật thường xuyên để bên nhận quyền điều hành hoạt động theo đúng cách thức, tiêu chuẩn của hệ thống nhượng quyền đề ra. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này chỉ thực sự phát huy được hết ý nghĩa của nó khi bên nhượng quyền có quyền năng kiểm soát bên nhận quyền, buộc bên nhận 16
  20. quyền phải tuân thủ chặt chẽ mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền. Có như vậy, bên nhượng quyền mới giảm thiểu được rủi ro trước nguy cơ bị giảm uy tín thương mại do bên nhận quyền gây ra, bảo tồn và phát triển được thương hiệu của mình. Thứ năm, về hình thức của hoạt động nhượng quyền thương mại, từ thực tiễn hoạt động của các bên tham gia quan hệ nhượng quyền thương có thể thấy hình thức của hoạt động này cũng rất phong phú, đa dạng. Dựa theo các tiêu chí khác nhau, người ta có thể phân chia nhượng quyền thương mại thành những loại khác nhau. Dựa vào nội dung của hoạt động kinh doanh, nhượng quyền thương mại có thể chia thành: (i) nhượng quyền sản xuất (processing - franchise), (ii) nhượng quyền phân phối (distribution - franchise), (iii) nhượng quyền dịch vụ (service - franchise) [28, tr.133 - 135]. Dựa vào hình thức hoạt động hay hình thức bán franchise, có thể phân loại thành: (i) nhượng quyền thương mại độc quyền (master franchise), (ii) nhượng quyền thương mại phát triển khu vực (area development franchise), (iii) nhượng quyền thương mại cho từng cá nhân riêng lẻ (single-unit franchise) [10, tr.11 - 13]. Dựa vào lãnh thổ tiến hành hoạt động nhượng quyền, có thể phân thành nhượng quyền trong nước và nhượng quyền quốc tế… 1.1.4. Đánh giá tác động của hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại 1.1.4.1. Đối với bên nhượng quyền Một trong những lợi ích dễ nhận thấy mà nhượng quyền thương mại mang lại cho bên nhượng quyền chính là việc nhân rộng mạng lưới kinh doanh mà không phải bỏ ra nhiều chi phí đầu tư. Các doanh nghiệp luôn có xu hướng phát triển và nhân rộng mạng lưới của mình, tuy nhiên bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có những giới hạn nhất định về vốn. Nhượng quyền thương mại chính là phương 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0