Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền con người và đảm bảo quyền con người ở Việt Nam
lượt xem 25
download
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn đảm bảo quyền con người ở nước ta hiện nay. Thông qua đó, nêu lên những giải pháp nhằm đảm bảo quyền con người ở Việt Nam trên mọi lĩnh vực đạt được hiệu quả cao hơn nữa.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền con người và đảm bảo quyền con người ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THU HẰNG QUYỀN CON NGƯỜI VÀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THU HẰNG QUYỀN CON NGƢỜI VÀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí Öc HÀ NỘI - 2013 2
- Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Lª Thu H»ng 3
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI 6 1.1. Mối liên hệ giữa cá nhân, xã hội, nhà nước và quyền con người 6 1.1.1. Khái niệm quyền con người 6 1.1.2. Địa vị pháp lý của cá nhân trong xã hội 8 1.2. Lịch sử phát triển của tư tưởng nhân quyền và nhà nước 11 pháp quyền 1.2.1. Lịch sử phát triển của tư tưởng nhân quyền 11 1.2.2. Lịch sử phát triển của nhà nước pháp quyền 15 1.3. Các thế hệ quyền con người 26 1.4. Các chuẩn mực quốc tế về quyền con người 29 Chương 2: LỊCH SỬ TƢ TƢỞNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM 40 2.1. Truyền thống nhân nghĩa khoan dung của dân tộc 40 2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người 43 2.2.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người 45 2.2.2. Những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về quyền con người 47 2.3. Quan điểm của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam về 57 quyền con người 2.4. Những thành tựu về nhân quyền ở Việt Nam và những vấn đề 65 đặt ra trong việc phát triển, đảm bảo và bảo vệ quyền con người 2.4.1. Những thành tựu về nhân quyền ở Việt Nam 65 2.4.2. Những vấn đề đặt ra trong việc phát triển, bảo đảm và bảo vệ 74 quyền con người 4
- Chương 3: CÁC CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI 77 Ở VIỆT NAM 3.1. Hiến pháp, cơ chế bảo hiến và vai trò của nó trong việc bảo vệ 77 quyền con người 3.2. Bảo đảm và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hành pháp 81 3.2.1. Bảo đảm quyền con người qua cơ chế khiếu nại, tố cáo 81 3.2.2. Bảo vệ quyền con người qua cơ chế cải cách hành chính 93 3.3. Bảo đảm quyền con người trong pháp luật tố tụng dân sự 98 3.4. Bảo đảm quyền con người trong pháp luật tố tụng hình sự 105 3.5. Bảo đảm quyền con người thông qua vai trò của chính quyền 111 địa phương 3.6. Chuyển hóa các điều ước quốc tế về quyền con người vào 115 pháp luật Việt Nam KẾT LUẬN 120 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 121 5
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CƯQT : Công ước quốc tế ĐƯQT : Điều ước quốc tế XHCN : Xã hội chủ nghĩa 6
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là một trong những yếu tố cơ bản, nền tảng của một xã hội dân chủ, văn minh. Tư tưởng về quyền con người đã hình thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại; tuy nhiên không phải trong bất cứ hình thái - xã hội nào, trong bất cứ kiểu Nhà nước nào nó cũng tồn tại và được thừa nhận một cách đầy đủ. Vì thế, quyền con người là một phạm trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu tranh không ngừng của toàn nhân loại nhằm vươn tới những lý tưởng, giải phóng hoàn toàn con người nhằm xây dựng một xã hội thật sự công bằng, dân chủ và nhân đạo. Giai cấp tư sản khi thực hiện cách mạng tư sản, đã coi quyền con người như một vũ khí của mình để tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến và để tập hợp lực lượng trong xã hội; do đó từ thế kỷ XVIII vấn đề về quyền con người đã được giai cấp tư sản đề cập đến như Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1789, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789. Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị đập tan năm 1945, vấn đề quyền con người trở thành mối quan tâm của cả Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) và tư bản chủ nghĩa, nên khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời thì vấn đề cơ bản, đầu tiên của tổ chức này là vấn đề quyền con người. Liên hợp quốc đã ban hành hàng loạt các văn kiện khẳng định các quyền và tự do của tất cả mọi người, đặc biệt là Hiến chương Liên hợp quốc 1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 thì vấn đề về quyền con người đã chuyển sang một bước ngoặt mới trong lịch sử nhân loại, trở thành một quan hệ cơ bản được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế. Đến nay thì quyền con người đã được ghi nhận, khẳng định trong Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. Vấn đề đảm bảo quyền con người 7
- ở mọi lĩnh vực hoạt động cụ thể cũng được tất cả các quốc gia trên thế giới coi trọng. Ở Việt Nam, kể từ khi giành được độc lập năm 1945, Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền con người. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 02/9/1945 được coi là một văn kiện có tính lịch sử trên phương diện quốc tế về quyền con người. Trên cơ sở đó, quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta qua các thời kỳ 1946, 1959, 1980 và 1992. Điều 50 Hiến pháp năm 1992 của nước ta khẳng định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng và bảo đảm thực hiện" [33]. Nước ta đang trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì việc đảm bảo quyền con người lại càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết, nhằm làm cho Việt Nam sớm hội nhập với thế giới và khu vực, góp phần xây dựng nền văn hóa nhân quyền toàn cầu. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên đây, việc nghiên cứu để làm rõ khái niệm, bản chất và cấu trúc của quyền con người; lịch sử tư tưởng về quyền con người ở Việt Nam; đồng thời làm rõ các cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài trong nƣớc và nƣớc ngoài Quyền con người và đảm bảo quyền con người là một vấn đề cơ bản, được tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt coi trọng trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, các giá trị về quyền con người và đảm bảo quyền con người luôn gắn liền với những thành tựu mà nhân loại đã đạt được. 8
- Trên thế giới, từ cơ sở Luật quốc tế về quyền con người, các khu vực quốc gia đều xây dựng cho mình các thiết chế để đảm bảo và phát huy quyền con người trên thực tế. Cùng với các căn cứ pháp lý về quyền con người, các quan điểm, tư tưởng và quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này đã phản ánh hết sức phong phú và đa dạng như: tác phẩm "Nhân quyền, bảo vệ nhân quyền theo Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị" của Lippman Matther, tạp chí Quốc tế California, số 10 - 1980; tác phẩm "Việc áp dụng Hiệp ước Châu âu về quyền con người của Tòa án Pháp" của Steiner Eva, tạp chí luật Kings Collages, số 6-1996; tác phẩm "Các đảm bảo quyền cá nhân theo Hiến pháp Liên bang Mỹ" của Scialia Antomin, nhà xuất bản Martinus Nijhoff publishers, Dordrecht 1994… Các tác phẩm nêu trên đề cập đến các vấn đề lý luận về quyền con người nói chung, quyền con người ở từng lĩnh vực nói riêng, về tổ chức và hoạt động thực tiễn đảm bảo quyền con người ở các quốc gia trong Cộng đồng Châu Âu, cũng như các quốc gia, tổ chức khác trên thế giới. Ở nước ta, việc nghiên cứu về quyền con người và đảm bảo quyền con người là vấn đề đã được Đảng, Nhà nước ta cùng các nhà khoa học xã hội hết sức quan tâm trong thời kỳ đổi mới. Có thể kể đến những công trình như sau: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong xây dựng Nhà nước pháp quyền", Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, do TSKH. Lê Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên; tác phẩm "Quyền con người trong thế giới hiện đại", của GS.TS Hoàng Văn Hảo và Phạm Ích Khiêm; tác phẩm "Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay", của Đỗ Trung Hiếu; tác phẩm "Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", của GS.TS Trần Ngọc Đường; Luận văn Thạc sĩ: "Đảm bảo pháp lý về quyền con người ở Việt Nam hiện nay", của Trần Thị Phương Hảo, 2008; Luận án tiến sĩ: "Pháp luật bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực xã hội ở 9
- Việt Nam", của Lê Hoài Trung, 2011; Luận án tiến sĩ: " Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong Tố tụng hình sự Việt Nam", của Lại Văn Trình, 2011. Như vậy, trên thế giới cũng như trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền con người và đảm bảo quyền con người nói chung hoặc đảm bảo quyền con người trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể. Các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung về quyền con người, từng lĩnh vực hoạt động cụ thể của quyền con người, về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về việc xây dựng pháp luật để đảm bảo quyền con người… Vì thế, các công trình này là nguồn tham khảo quan trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ chủ yếu của luận văn 3.1. Mục đích Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn đảm bảo quyền con người ở nước ta hiện nay. Thông qua đó, nêu lên những giải pháp nhằm đảm bảo quyền con người ở Việt Nam trên mọi lĩnh vực đạt được hiệu quả cao hơn nữa. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu về khái niệm, bản chất của quyền con người, lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng nhân quyền và nhà nước pháp quyền nói chung. - Nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng nhân quyền ở Việt Nam. - Nghiên cứu các cơ chế pháp lý để đảm bảo quyền con người ở Việt Nam, thông qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm tăng cường việc đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. 10
- 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn này, chúng tôi vận dụng những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền và về quyền con người. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, hệ thống, tiếp cận lịch sử và phương pháp so sánh. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về quyền con người. Chương 2: Lịch sử tư tưởng về quyền con người ở Việt Nam. Chương 3: Các cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. 11
- Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƢỜI 1.1. MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁ NHÂN, XÃ HỘI, NHÀ NƢỚC VÀ QUYỀN CON NGƢỜI 1.1.1. Khái niệm quyền con ngƣời Ngày nay, quyền con người được thừa nhận là một khái niệm toàn cầu như được ghi nhận trong tuyên bố của Hội nghị thế giới Vienna về quyền con người năm 1993 và các nghị quyết của Liên hợp quốc đã được thông qua nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày ra đời của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1998. Kể từ đó, ngày càng có nhiều quốc gia bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người và đã phê chuẩn Công ước quốc tế (CƯQT) về các quyền dân sự và chính trị cũng như CƯQT về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội được dựa trên nền tảng của Tuyên ngôn. Điểm bắt đầu của khái niệm về quyền con người là khái niệm về phẩm giá vốn có của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại như được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới và các công ước năm 1966. Các công ước này cũng ghi nhận ý tưởng về con người tự do khỏi sự sợ hãi, tự do làm điều mong muốn và được hưởng các quyền bình đẳng và không thể chuyển nhượng. Theo đó, quyền con người mang tính phổ quát và không thể chuyển nhượng, có nghĩa là chúng được áp dụng khắp nơi mà không thể lấy đi. Như Tổng thư ký Liên hợp quốc Boutros-Ghali đã nói trong Hội nghị Thế giới Vienna về quyền con người vào năm 1993: "quyền con người là các quyền bẩm sinh". Các quyền con người là không thể chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau. Các chiều hướng hay phạm trù nhân quyền khác nhau có thể được phân biệt theo các quyền dân sự và chính trị như là quyền tự do bày tỏ và các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Trước đây, một số quốc gia hay nhóm các quốc gia cụ thể như là các quốc gia XHCN đã ưu tiên các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 12
- hơn là các quyền dân sự và chính trị, trong khi Hoa Kỳ và các quốc gia thành viên của Hội đồng châu Âu lại thể hiện sự ưu tiên các quyền công dân và chính trị hơn. Tuy nhiên, tại Hội nghị quốc tế về quyền con người ở Vienna vào năm 1993, cuộc tranh luận không có ý nghĩa này đã được giải quyết bởi việc công nhận cả hai phạm trù hay xu hướng về quyền con người này là quan trọng như nhau. Tại Hội nghị Teheran năm 1968, hai nhóm quyền này được ghi nhận là không thể chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau vì sự hưởng thụ đầy đủ các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa dường như là không thể nếu như không có các quyền dân sự, chính trị và ngược lại. Vào những năm 1980, một nhóm các quyền con người nữa được ghi nhận là quyền được hưởng hòa bình, quyền phát triển và quyền được sống trong một môi trường khỏe mạnh. Những quyền này tạo ra một khuôn khổ cần thiết kể cả khi có sự đồng ý của cá nhân đó cho cho việc hưởng thụ đầy đủ các quyền khác. Nhóm quyền thứ ba là sự thể hiện tốt nhất tính thống nhất của các quyền, vì chúng đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế và hướng tới việc xây dựng cộng đồng. Trong khi quyền con người là quyền của tất cả cá nhân, cho dù họ có quyền công dân của một nước cụ thể nào hay không, quyền công dân là các quyền cơ bản được đặc biệt bảo đảm cho các công dân của một quốc gia cụ thể, ví dụ như quyền bầu cử hay quyền được tiếp cận với các dịch vụ công cộng tại một quốc gia nào đó. Cần phân biệt quyền con người các quyền thiểu số, tức là quyền của các thành viên trong một nhóm với các đặc điểm khác biệt về dân tộc, tôn giáo hay ngôn ngữ. Tự bản thân họ hay trong cộng đồng với các thành viên của nhóm, họ có quyền con người về hưởng nền văn hóa riêng của mình, được bày tỏ hay thực hiện tôn giáo của riêng mình, được bày tỏ hay thực hiện tôn giáo của riêng mình hay để sử dụng ngôn ngữ của riêng mình. Ngày nay, khái niệm quyền con người được chia sẻ ở cấp độ toàn cầu và nhờ đó được coi như một nền tảng cho các quốc gia của cộng đồng quốc tế, 13
- các tổ chức quốc tế và các phong trào xã hội, tất cả đều với tư cách là thành viên của xã hội quốc tế. Quyền con người cũng có thể là một phương tiện mà mọi người có thể sử dụng như một công cụ biến đổi xã hội. Do đó, khái niệm quyền con người gắn bó chặt chẽ với khái niệm về dân chủ. 1.1.2. Địa vị pháp lý của cá nhân trong xã hội Mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân sống trên lãnh thổ là mối quan hệ nền tảng trong mỗi quốc gia. Quan hệ đó thể hiện trong các quyền và nghĩa vụ được quy định tạo thành địa vị pháp lý của cá nhân. Địa vị pháp lý này nhiều, ít tùy thuộc vào tính chất của Nhà nước (quân chủ chuyên chế, dân chủ tư sản hay dân chủ XHCN) và vào tính công dân của người đó (là công dân, người không quốc tịch hay người nước ngoài). Do đó việc xác định tính công dân (quốc tịch) của một cá nhân là một yếu tố trong việc quy định địa vị pháp lý của cá nhân. Công dân là bộ phận dân cư của một Nhà nước bao gồm những người được xác định lệ thuộc pháp lý đối với Nhà nước đó. Người là công dân của Nhà nước sở tại thì được hưởng đầy đủ những quyền và lợi ích tương xứng, đồng thời phải gánh vác những nghĩa vụ do Nhà nước quy định. Những cá nhân không phải là công dân thì chỉ được hưởng một số quyền lợi và gánh vác những nghĩa vụ không đầy đủ so với những người là công dân theo pháp luật nước sở tại và các hiệp ước được ký kết hoặc phê chuẩn. Khái niệm công dân được gắn liền với khái niệm quốc tịch. Người là công dân của nước nào thì mang quốc tịch nước đó. Điều 49 Hiến pháp nước ta quy định "công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam" [33]. Khái niệm quốc tịch được dùng để phân biệt công dân của một nước với công dân của nước khác và với người không phải là công dân của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Khái niệm quốc tịch được quy định thông dụng trên thế giới. Theo từ điển Bách khoa Luật của Liên Xô cũ thì: 14
- Quốc tịch là sự quy thuộc về mặt pháp lý và chính trị của một cá nhân vào một Nhà nước thể hiện mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và cá nhân. Nhà nước quy định các quyền cho cá nhân là công dân của mình, bảo vệ và bảo hộ công dân đó ở nước ngoài. Về phần mình, công dân phải tuân theo pháp luật của Nhà nước và hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước [53, tr. 75]. Luật Quốc tịch Việt Nam định nghĩa: Quốc tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân đối với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam [40]. Như vậy, quốc tịch là trạng thái pháp lý xác định mối quan hệ lệ thuộc giữa một cá nhân với một Nhà nước nhất định. Người có quốc tịch sẽ chịu sự tài phán tuyệt đối của Nhà nước, đồng thời được hưởng đầy đủ mọi năng lực pháp lý với sự bảo hộ của Nhà nước cả trong nước cũng như ở nước ngoài. Trong trạng thái pháp lý trên, mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân có quốc tịch được thể hiện như sau: Thứ nhất, Nhà nước bằng pháp luật, quy định quyền và nghĩa vụ của công dân, trong số các quyền đó, công dân có quyền tham gia quyết định các công việc Nhà nước một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua những người đại diện do Nhân dân bầu ra; thứ hai, công dân phải có nghĩa vụ tuân theo pháp luật mà Nhà nước của mình đặt ra dù họ ở trong hoặc ngoài nước; thứ ba, Nhà nước có quyền phán xét, xử lý tuyệt đối các hành vi của công dân nước mình đồng thời phải có trách nhiệm bảo hộ quyền và lợi ích của công dân cả ở trong và ngoài nước. Khi nói quốc tịch hay công dân là nói tới sự lệ thuộc của một cá nhân vào một Nhà nước nhất định chứ không phải đối với một đất nước. Trên một đất nước, qua các giai đoạn lịch sử có thể có những chế độ Nhà nước khác nhau tồn tại. Quan hệ Nhà nước công dân bao giờ cũng là quan hệ giữa công 15
- dân với một Nhà nước cụ thể. Hiện nay ở nước ta, đó là mối quan hệ giữa công dân Việt Nam đối với Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Công dân Việt Nam của các chế độ trước được hưởng quyền và sự bảo hộ kế thừa của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay. Sự tồn tại của Nhà nước luôn luôn gắn liền với một quốc tịch thống nhất. Trong từng trường hợp Nhà nước được tổ chức dưới hình thức liên bang thì quốc tịch của các lãnh thổ hợp thành đồng thời là quốc tịch của Nhà nước liên bang. Để xác định công dân của mình, Nhà nước ban hành luật quốc tịch. Đó là một chế định điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xác lập tính lệ thuộc giữa một bên là các cá nhân sống trên lãnh thổ và bên kia là Nhà nước. Luật về quốc tịch là tổng thể các quy phạm quy định về sự có, mất, thay đổi quốc tịch, quốc tịch của người chưa thành niên, thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề quốc tịch. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn luôn gắn liền với vấn đề quốc tịch là nội dung biểu hiện của vấn đề quốc tịch. Có quốc tịch thì mới có quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; không có điều ngược lại. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là hạt nhân cơ bản của công dân của quy chế công dân. Những quyền và nghĩa vụ được quy định trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong mỗi một Nhà nước được gọi là quyền và nghĩa vụ cơ bản. Việc quy định như vậy vì những quyền và nghĩa vụ xuất phát từ nhân quyền; việc thành lập ra Nhà nước tiến bộ để bảo vệ chúng và không được xâm phạm trong khi thực hiện quyền lực của mình. Nhưng khác với quyền con người ở chỗ quyền công dân luôn gắn liền với một nhà nước sở tại. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là những quyền, nghĩa vụ được quy định trong Hiến pháp. Những quyền và nghĩa vụ này được hiến pháp quy định cho tất cả mọi công dân, hoặc cho cả một tầng lớp, một giai cấp, không quy định cho từng người trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Những quyền này thường được xuất phát từ quyền con người: "được sống, được tự do, được 16
- mưu cầu hạnh phúc, không ai có thể xâm phạm được". Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là cơ sở cho mọi quyền và nghĩa vụ cụ thể của một công dân. 1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA TƢ TƢỞNG NHÂN QUYỀN VÀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 1.2.1. Lịch sử phát triển của tƣ tƣởng nhân quyền Ý tưởng về nhân phẩm con người đã có từ xa xưa trong lịch sử của nhân loại, dưới các hình thức khác nhau, trong tất cả các nền văn hóa và tôn giáo. Tuy nhiên, ý tưởng về "quyền con người" là kết quả của tư tưởng triết học thời hiện đại, không chỉ dựa trên triết học của chủ nghĩa duy lý và thời đại khai sáng, chủ nghĩa tự do và dân chủ, mà còn dựa trên chủ nghĩa xã hội. Trong lịch sử nhân loại, ngay từ thời cổ, đã có các bản văn nhìn nhận những quyền lợi của con người; nhưng không phải ai ai cũng được hưởng những quyền đó mà chỉ có một giai cấp nào, một giới nào đó thôi. Việc nhìn nhận cho hết mọi người, bất kỳ tuổi tác, phái tính, giai cấp nào, cũng được hưởng một số quyền lợi căn bản như nhau, là một quan điểm hết sức mới mẻ. Người ta thường cho rằng khởi điểm là Tuyên ngôn của cách mạng Pháp năm 1789: "Hết mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng với nhau". Tuy nhiên, bản tuyên ngôn các quyền lợi con người của cuộc cách mạng Pháp không thành hình một sớm một chiều, mà nó đã được chín muồi từ bao nhiêu tư tưởng triết lý, tôn giáo và pháp lý trước đó. Trong số những văn kiện pháp lý gây ảnh hưởng trực tiếp trên tuyên ngôn nhân quyền của cách mạng Pháp là sắc dụ Sublimis Deus (2/6/1537) của Đức Thánh Cha Phaolo III. Phần đông các nhà thần học Tây Ban Nha thời đó cho rằng vũ trụ này thuộc về Thiên Chúa, cho nên ai theo đạo Thiên Chúa thì có quyền chiếm hữu vũ trụ. Tuy nhiên cha Francisco de Vitoria, dòng Đaminh, giáo sư tại Salamanca (1484-1546), chủ trương rằng chủ quyền đất đai không dựa trên lý do tôn giáo nhưng dựa trên bản tính con người. Vì thế các thổ dân có quyền làm chủ lãnh thổ của họ, và hoàng triều Tây Ban Nha 17
- không có cơ sở pháp lý nào để chiếm cứ. Văn kiện này không phải chỉ có tính cách thần học, mà nó còn có tính cách pháp lý nữa bởi vì nó ràng buộc chính sách của hoàng triều Tây Ban Nha tại châu Mỹ, và cha Bartolomeo de Las Casas đã dựa vào đó để bảo vệ tự do cho các thổ dân. Tuy bản văn còn mang nhiều giới hạn về lý thuyết và áp dụng, nhưng nó cũng đã phản ánh ý thức về những quyền lợi gắn với bản tính con người, tựa như: tự do, sở hữu và thủ đắc tài sản. Nó là khởi điểm cho việc thiết lập danh sách các quyền lợi căn bản của con người trong các thế kỷ kế tiếp, chẳng hạn: Quyền con người của Anh (1689), và những tuyên ngôn độc lập ở Bắc Mỹ. Vào các thế kỷ 16-17, từ ngữ còn mông lung: quyền của công dân, quyền của con người, quyền tự nhiên, quyền thiên nhiên, v.v... Thế nhưng phải nói rằng chính lý thuyết về quyền tự nhiên đã trở thành nguồn gốc và nền tảng của học thuyết về nhân quyền. Từ ngữ "quyền tự nhiên", ắt sẽ gợi lên trong suy nghĩ của mỗi người một tư tưởng khác nhau. Có người liên tưởng tới những quyền tự do của loài người khi còn sống trong tình trạng tự nhiên, muốn làm gì thì làm, không bị luật lệ nào cưỡng bách gò bó. Tuy nhiên, ta cũng có thể hiểu quyền tự nhiên theo nghĩa là những quyền lợi gắn với bản tính của con người, nghĩa là bẩm sinh chứ không do xã hội ban cấp và thu hồi. Ý thức về những quyền lợi bẩm sinh đã xuất hiện trong các triết gia Hy Lạp, La Mã trước Kitô giáo. Trong tiến trình đòi hủy bỏ chế độ nô lệ, các triết gia Hy Lạp đã lập luận rằng con người sinh ra đều bình đẳng với nhau; sở dĩ có người làm chủ nhân và có người làm tôi mọi là do hoàn cảnh thời thế mà thôi. Có thể nêu tên tuổi một vài triết gia cận đại đã gây ảnh hưởng đến các bản tuyên ngôn nhân quyền như: Thomas Hobbes (1588-1679), Edward Coke (1552-1634), John Locke (1632-1704). Lập luận của họ đều dựa trên quan điểm: con người có những quyền lợi gắn liền với bản tính chứ không phải là do đặc ân của nhà cầm quyền xã hội ban cho. Như vậy, bản tuyên ngôn nhân quyền cách mạng Pháp đã có những tiền sử xa gần của nó. Gần hơn cả là những tuyên ngôn của Anh vào thế kỷ 17. Tuy nhiên, Tuyên ngôn cách mạng 1789 của Pháp đã đánh dấu một giai đoạn 18
- mới, bởi vì không những nó được truyền bá và áp đặt trong nước mà còn tại những quốc gia khác ở Châu Âu do những cuộc chinh phục quân sự của Napoleon. Bản tuyên ngôn được sử dụng như công cụ để lật đổ các chế độ quân chủ. Về mặt lý thuyết, có thể thấy có sự tiến triển về quan niệm nhân quyền so với các bản văn trước đó. Trước đây, để chống lại những luật lệ bất công hay hà khắc của nhà vua, người ta đã tranh đấu để được hưởng một vài đặc ân, nhưng mà những đặc ân đó chỉ giới hạn vào một vài điểm cụ thể (ví dụ: có thể theo một tôn giáo khác với quốc giáo; không bị bắt giam vô cớ…), hay chỉ dành cho một tầng lớp xã hội (quý tộc, giáo sĩ). Tuyên ngôn cách mạng Pháp nhìn nhận cho hết mọi con người sinh ra đều được tự do và bình đẳng. Tuy nhiên, theo thời gian, người ta thấy bản tuyên ngôn cách mạng Pháp có nhiều giới hạn: - Chủ thể của những quyền lợi không phải là hết mọi con người sinh ra trên thế giới này, mà chỉ là những công dân Pháp. Tựa đề của tuyên ngôn đã nói rằng đây là những quyền của con người và của công dân (nhân quyền và dân quyền). Dĩ nhiên các dân ở các nước thuộc địa không thể nào yêu sách được hưởng những quyền lợi đó, bởi vì họ đâu có phải là công dân nước Pháp, phụ nữ và vị thành niên cũng chưa được hưởng quyền công dân. - Quyền con người là giới hạn cho sự can thiệp của Nhà Nước, chính quyền không được phép đụng tới khu vực tự do của mọi công dân. Về mặt lý thuyết thì đó là quan điểm tuyệt vời; nhưng mà khi bối cảnh xã hội thay đổi thì những quyền tự do đó chỉ bảo vệ cho giới tư sản, còn lớp dân nghèo thì vẫn lâm vào cảnh đói kém. Điều này đã xảy ra nhân cuộc cách mạng công nghệ ở Châu Âu vào thế kỷ 19. Giới tư bản dựa vào các quyền tự do để có thể thao túng thị trường theo định luật cung cầu, và hậu quả là hàng triệu người rơi vào tình trạng nghèo đói của lớp vô sản. Cuộc cách mạng Pháp đã cho ra đời tuyên ngôn các quyền lợi chính trị của công dân. Do những thiếu sót vừa nêu, người ta thấy cần phải thêm những quyền lợi kinh tế xã hội. Điển hình với bản tuyên ngôn nhân quyền của Liên 19
- hợp quốc được biểu quyết ngày 10/12/1948 sau gần hai năm thảo luận trải qua 18 dự thảo. Điều 1 của văn kiện viết như sau: "Mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Con người có lý trí và lương tâm, và phải đối xử với nhau trong tinh thần huynh đệ". Dựa trên nền tảng này, bản tuyên ngôn loại trừ hết mọi kỳ thị về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, tư tưởng. Trong số các quyền lợi được liệt kê chúng ta có thể phân biệt hai nhóm: - Những quyền tự do cá nhân, bao gồm: sinh sống, an ninh bản thân (Điều 3), không bị làm tôi mọi (Điều 4), không bị hành hạ tra tấn, đối xử trái với nhân đạo (Điều 5), không bị giam giữ hay trừng phạt trái phép (Điều 9-11), không bị xâm phạm vào đời tư (Điều 12), cũng như những quyền được kết hôn và lập gia đình (Điều 16), quyền tư hữu (Điều 17), quyền tự do tư tưởng, lương tâm, tín ngưỡng (Điều 18), quyền tự do có ý kiến và phát biểu (Điều 19), quyền hội họp và lập hội (Điều 20). Những quyền này đã được nhìn nhận trong hiến pháp của các nước dân chủ. - Những quyền chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa, từ Điều 21 trở đi, bao gồm: tham gia chính quyền, an sinh, làm việc và nghỉ ngơi (Điều 23-24), bảo hiểm sức khỏe và tai nạn rủi ro (Điều 25), giáo dục và văn hóa (Điều 26-27). Trước đây, những quyền tự do chính trị đặt ra những giới hạn cho sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống của tư nhân. Ngày nay, các quyền lợi kinh tế xã hội thì lại đòi hỏi Nhà nước phải hành động, tạo ra những điều kiện phục vụ cho các quyền lợi ấy (công ăn việc làm, nhà ở, bệnh viện, trường học...). Rõ ràng, nhân quyền qua những tuyên ngôn và hiệp ước của Liên hợp quốc có rất nhiều điểm tiến bộ, nhất là khi so sánh với bản tuyên ngôn 1789 của cách mạng Pháp. Tuy nhiên, đằng sau những bản liệt kê khác nhau về các quyền lợi ta thấy có một quan niệm như nhau về chủ thể của chúng, đó là cá nhân con người. Con người bẩm sinh đã có một số quyền lợi mà xã hội không những không được xâm phạm đến mà còn có nghĩa vụ phải bảo vệ nữa. Thế nhưng quan niệm như vậy lại hình dung cá nhân con người tách rời ra khỏi 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn