Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đồng thời chỉ ra những vướng mắc, bất cập và đưa ra những kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ TƢƠI QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG SAU KHI CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hµ néi - 2012 i
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ TƢƠI QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG SAU KHI CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phƣơng Lan Hµ néi - 2012 ii
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ 8 CỦA VỢ CHỒNG SAU KHI CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 1.1. Một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng 8 trong thời kỳ hôn nhân 1.1.1. Khái niệm chung về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 8 1.1.2. Đặc điểm của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 10 1.2. Sự cần thiết của việc quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ 23 chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 1.3. Ý nghĩa của việc quy định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng 25 sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 1.3.1. Ý nghĩa về mặt pháp lý 25 1.3.2. Ý nghĩa về mặt xã hội 26 1.4. Quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài 27 sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật một số nƣớc trên thế giới 1.4.1. Pháp luật dân sự Pháp 27 1.4.2. Pháp luật dân sự và thƣơng mại Thái Lan 32 iii
- Chương 2: QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG SAU KHI 37 CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 2.1. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau sau khi chia tài 37 sản chung trong thời kỳ hôn nhân 2.1.1. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng sau khi 38 chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 2.1.2. Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ và chồng sau khi chia 41 tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với gia đình sau khi chia 56 tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 2.2.1. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng đối với gia 57 đình sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 2.2.2. Quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với gia đình 60 sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 2.3. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với ngƣời thứ ba có 64 quan hệ tài sản với vợ chồng 2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với ngƣời thứ ba có 64 quan hệ giao dịch dân sự, thƣơng mại với vợ chồng 2.3.2. Quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng trong quan hệ bồi 68 thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬTVỀ 71 QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG SAU KHI CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 3.1. Một số vấn đề còn tồn tại về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng 71 sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 3.1.1. Một vài nét về áp dụng pháp luật giải quyết việc chia tài sản 71 chung trong thời kỳ hôn nhân 3.1.2. Một số vấn đề còn tồn tại về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng 77 iv
- sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quyền và 87 nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 3.2.1. Yêu cầu chung 87 3.2.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh 88 quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 3.3. Giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng xét xử 96 3.3.1. Thực hiện việc xuất bản định kỳ các án điển hình để các 96 Thẩm phán rút kinh nghiệm tiến tới xây dựng các Tập án lệ về hôn nhân và gia đình 3.3.2. Tăng cƣờng sự phối hợp giữa Tòa án nhân dân và các cơ quan 97 hữu quan KẾT LUẬN 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101 v
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình NLHVDS : Năng lực hành vi dân sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao vi
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình là tế bào của xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Tính chất và kết cấu của gia đình trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau là khác nhau. Quan điểm này đã đƣợc Ph.Ăngghen nhấn mạnh nhƣ một nguyên lý của nội dung lý luận mácxit về hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) trong tác phẩm nổi tiếng "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước". Sự ổn định và phát triển lành mạnh của gia đình sẽ góp phần vào sự phát triển chung của toàn bộ xã hội. Mỗi gia đình đƣợc xây dựng dựa trên những sợi dây liên kết của hôn nhân, huyết thống và nuôi dƣỡng trong đó quan hệ hôn nhân có thể xem là quan hệ nền tảng của mỗi gia đình. Đánh giá cao tầm quan trọng của gia đình trong đời sống xã hội nói riêng cũng nhƣ trong việc xây dựng, phát triển đất nƣớc nói chung, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn chú trọng quan tâm đến việc xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc. Điều này đƣợc cụ thể hóa ở việc Nhà nƣớc ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ HN&GĐ cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Trong quá trình xã hội hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Việt Nam đã thực sự chuyển mình và có những thay đổi toàn diện và sâu sắc về mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt, đời sống gia đình ngày càng đƣợc nâng cao. Dƣới ảnh hƣởng của nền kinh tế mở đó đã tạo cho mọi ngƣời đều có cơ hội làm giàu cũng nhƣ tự khẳng định mình. Đời sống gia đình đƣợc cải thiện đồng nghĩa với việc khối tài sản của vợ chồng tăng lên, nhu cầu riêng cũng nhiều hơn, đa dạng hơn, theo đó, nhu cầu có tài sản riêng để phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp và giao dịch do một bên thực hiện không bị phụ thuộc hoặc gây ảnh hƣởng cho bên kia là rất cần thiết. Trƣớc tình hình thực tế, quy định 1
- về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một giải pháp có nhiều ƣu điểm cho vấn đề này. Trên cơ sở kế thừa Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tại Luật HN&GĐ năm 2000 đã có những bƣớc thay đổi tích cực, phù hợp với sự phát triển của xã hội. Các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng đã từng bƣớc đi vào cuộc sống, phát huy đƣợc hiệu quả điều chỉnh. Một vấn đề hết sức bức thiết đƣợc đặt ra là sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, thì quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sẽ đƣợc xác định nhƣ thế nào? Luật HN&GĐ hiện hành đã có quy định cụ thể hơn so với Luật HN&GĐ năm 1986 song vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần đƣợc bàn luận, giải quyết cả về mặt lý luận và áp dụng trong thực tiễn. Để đi đến thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là cả một quá trình cân nhắc, quyết định không phải là dễ dàng nhƣng việc bóc tách, xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung còn gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc gấp bội do pháp luật chƣa có quy định cụ thể điều chỉnh vấn đề này. Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay, khi Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế, hơn lúc nào hết vợ, chồng đã và đang tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động kinh tế với mục đích không chỉ nhằm đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của gia đình mà còn nhằm làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội. Họ có thể dùng tài sản chung hoặc tài sản riêng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các giao dịch dân sự, kinh tế, thƣơng mại khác; mỗi bên vợ chồng sẽ phát sinh nhiều mối quan hệ xã hội mới và có xu hƣớng duy trì, mở rộng hơn nữa. Do đó, việc xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với gia đình, đối với các con và đối với ngƣời thứ ba có liên quan sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân khá phức tạp bởi vấn đề này chƣa đƣợc quy định, chƣa có cơ sở pháp lý để giải quyết khi có tranh chấp phát sinh. Việc vợ chồng lạm dụng quyền, trốn tránh trách nhiệm đối với nhau và đối với gia đình cũng đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp cần đƣợc pháp luật điều 2
- chỉnh. Đây là những vấn đề tồn tại, phát sinh từ thực tiễn mà chƣa có quy phạm pháp luật điều chỉnh nên cần phải có sự nghiên cứu thấu đáo. Bởi lẽ đó, việc nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đó, tác giả quyết định chọn đề tài "Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu về đề tài Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực HN&GĐ đã có nhiều công trình, bài viết về tài sản của vợ chồng nói chung và chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nói riêng, chẳng hạn nhƣ luận án tiến sĩ "Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam" đã đƣợc tác giả Nguyễn Văn Cừ bảo vệ thành công năm 2005; "Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân" của tác giả Nguyễn Phƣơng Lan đăng trên Tạp chí Luật học số 6 năm 2002; "Chế độ tài sản theo thoả thuận của vợ chồng trong pháp luật cộng hoà Pháp và pháp luật Việt Nam" của tác giả Bùi Minh Hồng đăng trên Tạp chí Luật học số 11 năm 2009… Đây thực sự là những công trình có giá trị lớn trong cả khoa học lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này hoặc đề cập đến những vấn đề mang tính khái quát chung về chế độ tài sản của vợ chồng, hoặc chỉ đi sâu vào phân tích một vấn đề nhỏ có liên quan đến việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chứ chƣa nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và chuyên sâu về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Vấn đề quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chƣa đƣợc pháp luật quy định nên việc nghiên cứu để có hƣớng đề xuất các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề này là rất cần thiết. 3
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đồng thời chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập và đƣa ra những kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau: - Những vấn đề lý luận liên quan đến việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật HN&GĐ hiện hành, làm rõ khái niệm chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; đặc điểm cơ bản của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. - Xác định quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng đối với nhau, đối với gia đình và đối với ngƣời thứ ba sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. - Tìm hiểu những vƣớng mắc phát sinh từ thực tiễn về vấn đề này và đề xuất cách thức giải quyết, góp phần hoàn thiện pháp luật. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và một số công trình nghiên cứu cũng nhƣ những vụ việc cụ thể có liên quan về vấn đề này. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong một số văn bản pháp luật nhƣ: Luật HN&GĐ năm 1986; Luật HN&GĐ năm 2000; Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 4
- 2005 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. - Luận văn cũng nghiên cứu các quy định trong pháp luật của một số nƣớc điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia (tách) tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, có sự so sánh và đối chiếu với pháp luật HN&GĐ Việt Nam, qua đó học hỏi, tiếp thu có chọn lọc những điểm phù hợp để bổ sung, hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong pháp luật HN&GĐ Việt Nam. - Đặc biệt, luận văn nghiên cứu một số trƣờng hợp cụ thể về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhƣ quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của vợ chồng đối với nhau, đối với gia đình và quyền và nghĩa vụ về tài sản đối với ngƣời thứ ba có quan hệ tài sản với vợ chồng. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của triết học Mác- Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta trong lĩnh vực HN&GĐ. Ngoài ra, để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, luận văn còn vận dụng, kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu khác nhƣ phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê. 6. Những điểm mới của luận văn Luận văn phân tích các căn cứ lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ sự cần thiết quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nghiên cứu cũng bổ sung, làm phong phú thêm cho lý thuyết về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. 5
- Về thực tiễn, gia đình đƣợc coi là hạt nhân của xã hội. Sự phát triển bền vững của gia đình là nền tảng phát triển của xã hội. Do đó, trong sự phát triển và biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự thúc đẩy và phát triển kinh tế, xã hội. Nhƣ là một tất yếu của cuộc sống chung, vợ và chồng thực hiện những quan hệ về tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình. Nhu cầu chia tài sản chung của vợ chồng để nâng giá trị khối tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng nhằm xác lập những giao dịch riêng cũng có chiều hƣớng gia tăng. Và lẽ đƣơng nhiên, sẽ kéo theo những vấn đề không dễ giải quyết về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung. Nghiên cứu cũng chỉ ra những khó khăn trong việc xác định nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cũng nhƣ nguyên nhân của tồn tại đó đồng thời đƣa ra những giải pháp, kiến nghị giúp cơ quan lập pháp, cơ quan tƣ pháp… tham khảo trong việc xây dựng, bổ sung những quy định về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, đặc biệt là những quy phạm điều chỉnh quan hệ nhân thân. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao ý thức, trách nhiệm cho các cặp vợ chồng trong việc đƣa ra thỏa thuận chia tài sản chung cũng nhƣ những vấn đề phát sinh sau đó, góp phần giải quyết các vấn đề khó khăn, vƣớng mắc trong sản xuất, kinh doanh, quản lý cũng nhƣ vấn đề chăm sóc, nuôi dƣỡng, giáo dục các con và chăm sóc, nuôi dƣỡng các thành viên khác trong gia đình. Tóm lại, luận văn có những điểm mới sau đây: - Phân tích sự cần thiết pháp luật phải quy định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (tính khách quan). - Xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau, đối với gia đình và đối với ngƣời thứ ba sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trên cơ sở những quy định của Luật HN&GĐ hiện hành cùng với sự so sánh, đối chiếu với những quy định tƣơng ứng trong pháp luật một số nƣớc, từ đó 6
- phát hiện những bất cập, đƣa ra kiến nghị bổ sung, sửa đổi nhằm hoàn thiện những quy định về vấn đề này trong điều kiện hiện nay. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Chương 2: Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. 7
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG SAU KHI CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 1.1.1. Khái niệm chung về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật HN&GĐ của các nƣớc nói chung và Việt Nam nói riêng là một vấn đề phức tạp trên cả phƣơng diện lý luận và thực tiễn. Bởi lẽ, nó phải đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích của gia đình với lợi ích của cá nhân vợ, chồng cũng nhƣ với lợi ích chung của xã hội. Mặt khác, chế độ tài sản của vợ chồng còn phản ánh điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, truyền thống, phong tục tập quán, tâm lý, nguyện vọng của ngƣời dân. Ở Việt Nam, qua mỗi giai đoạn phát triển, chế độ tài sản của vợ chồng đều thể hiện những nét đặc thù riêng. Trên cơ sở nền kinh tế thị trƣờng, sự phát triển của xã hội và gia đình; kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật HN&GĐ ở nƣớc ta, Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm chế độ tài sản chung và chế độ tài sản riêng. Nhƣ là một tất yếu của cuộc sống chung, sau khi kết hôn, đòi hỏi vợ và chồng phải cùng chung công sức, chung ý chí, tình cảm để tạo lập, phát triển kinh tế, vun đắp hạnh phúc gia đình. Do đó, tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng đều cần phải đƣợc khai thác nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của gia đình. Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng hiện nay cùng với việc mở rộng hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế, việc duy trì và phát triển đời sống gia đình đã thúc đẩy vợ chồng tham gia rộng rãi vào các giao dịch dân sự, kinh tế, thƣơng mại, đã làm phát sinh nhiều nghĩa vụ về tài sản mà vợ, chồng phải gánh vác. Theo đó, nhu cầu có tài sản riêng để đảm bảo cho việc thực hiện những nghĩa 8
- vụ riêng về tài sản một cách độc lập, tạo khả năng chủ động khi tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, tái đầu tƣ do một bên thực hiện không bị phụ thuộc hoặc gây ảnh hƣởng đến lợi ích chung của gia đình là rất cần thiết. Quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một giải pháp phát huy đƣợc hiệu quả cho vấn đề này. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân lần đầu tiên đƣợc ghi nhận trong Luật HN&GĐ năm 1986. Trƣớc đó, do phong tục, tập quán cũng nhƣ tƣ duy của gia đình Việt "của chồng công vợ", sự phân chia rạch ròi tài sản trong thời kỳ hôn nhân là không hề có. Trong Luật HN&GĐ năm 1959, vấn đề này cũng không đƣợc đề cập tới bởi Nhà nƣớc ta quy định chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản, toàn bộ tài sản do vợ chồng có trƣớc khi kết hôn hoặc đƣợc tạo ra, có đƣợc trong thời kỳ hôn nhân không phân biệt nguồn gốc tài sản, công sức đóng góp, đều thuộc tài sản chung của vợ chồng. Trên cơ sở đó, Luật HN&GĐ năm 1959 chỉ dự liệu hai trƣờng hợp chia tài sản chung của vợ chồng là khi vợ hoặc chồng chết trƣớc hoặc khi vợ chồng ly hôn. Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời vào thời kỳ đầu của sự nghiệp đổi mới với nhiều quy định khác về căn bản so với Luật HN&GĐ năm 1959 để phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội. Theo đó, chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng tạo sản, vợ chồng có tài sản chung và có quyền có tài sản riêng và đặc biệt còn ghi nhận việc chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại nếu có lý do chính đáng. Xuất phát từ thực tiễn đời sống xã hội, trên cơ sở kế thừa Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 tiếp tục quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tại Điều 29 và Điều 30. Nhƣ đã phân tích, nhu cầu của vợ, chồng có tài sản để đầu tƣ kinh doanh riêng hoặc để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng là rất cần thiết. Tuy nhiên, trong cuộc sống chung, không phải lúc nào vợ chồng cũng đạt đƣợc sự đồng thuận về vấn đề sử dụng, định đoạt tài sản chung thậm chí gây ra những mâu thuẫn, căng thẳng. Trong khi đó, việc định đoạt tài sản riêng về nguyên tắc không cần có sự nhất trí của bên kia. Chính vì lẽ đó mà việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là 9
- giải pháp tối ƣu để loại bỏ những mâu thuẫn trong quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân làm thay đổi các khối tài sản của vợ chồng, làm ảnh hƣởng đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng song điểm đặc biệt là không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trƣớc pháp luật. Mặc dù đã có những quy định cụ thể hơn song những quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn thiếu và có nhiều điểm bất cập. Khái niệm chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chƣa đƣợc ghi nhận trong bất kỳ văn bản pháp luật nào nhƣng có thể hiểu là: Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là việc chuyển một phần hoặc toàn bộ tài sản vốn là tài sản chung của vợ chồng thành tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng theo sự thỏa thuận của vợ chồng hoặc do Tòa án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng khi có những lý do nhất định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng và người thứ ba có liên quan mà không làm chấm dứt quan hệ giữa vợ và chồng trước pháp luật. 1.1.2. Đặc điểm của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có một số đặc điểm cơ bản sau: Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật Sau khi tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, giữa hai bên vợ, chồng vẫn tồn tại mọi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng nhƣ nghĩa vụ chung thủy, thƣơng yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dƣỡng, giáo dục con; quyền đƣợc lựa chọn nơi cƣ trú, quyền thừa kế tài sản của nhau khi một bên chết trƣớc… Đây là một trong những đặc điểm nổi bật, quan trọng nhất của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để phân biệt với những trƣờng hợp chia tài sản chung khác của vợ chồng nhƣ chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn hay chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ hoặc chồng chết trƣớc. Nếu nhƣ 10
- kết hôn là thời điểm đầu tiên của hôn nhân, là sự kiện gắn kết giữa hai bên nam nữ làm phát sinh một thực thể là gia đình thì khi vợ hoặc chồng chết trƣớc là thời điểm cuối cùng của hôn nhân. Việc một bên vợ hoặc chồng chết trƣớc hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết sẽ làm chấm dứt quan hệ hôn nhân, tài sản chung của vợ chồng sẽ đƣợc chia theo yêu cầu của ngƣời chồng hoặc ngƣời vợ còn sống hoặc của những ngƣời thừa kế của vợ, chồng đã chết. Tƣơng tự, trƣờng hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trƣớc pháp luật. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhƣng cũng không thể phủ nhận mặt tích cực mà nó mang lại khi mục đích của hôn nhân không đạt đƣợc. Theo nguyên tắc chung, khi bản án, quyết định cho ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật, quan hệ vợ chồng sẽ chấm dứt. Khi ly hôn, tài sản chung của vợ chồng đƣợc chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án. Nhƣ vậy, hai trƣờng hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn hoặc khi một bên vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trƣớc pháp luật thì trái lại, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trƣớc pháp luật. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản chung của vợ chồng Điều này đƣợc thể hiện rõ nhất trong trƣờng hợp vợ chồng chỉ chia một phần tài sản chung bởi phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng. Ngay cả trƣờng hợp chia toàn bộ tài sản chung thì khối tài sản chung vẫn có thể phát sinh chẳng hạn nhƣ sau khi chia tài sản chung vợ chồng lại đƣợc thừa kế chung, tặng cho chung. Nhƣ vậy, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản chung của vợ chồng. Trong khi đó, trƣờng hợp ly hôn hoặc trƣờng hợp một bên vợ hoặc chồng chết trƣớc, do quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng đã chấm dứt nên việc chia tài sản chung trong những trƣờng hợp này luôn dẫn đến chấm dứt chế độ tài sản chung. 11
- Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ phát sinh khi có những lý do nhất định Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 đã đƣa ra những lý do để vợ, chồng có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Lý do thứ nhất là vợ chồng đầu tƣ kinh doanh riêng. Quy định này xuất phát trên cơ sở tôn trọng quyền tự do kinh doanh của công dân đã đƣợc ghi nhận tại Điều 57 Hiến pháp năm 1992 đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2001: "Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật" [38]. Nếu một bên vợ, chồng hoặc cả hai bên muốn đầu tƣ kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản chung. Quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân giúp cho vợ, chồng thực hiện đƣợc ý định kinh doanh của mình đồng thời góp phần bảo vệ lợi ích chung của gia đình. Trong nền kinh tế thị trƣờng, vợ, chồng ngày càng tham gia nhiều hơn vào các giao dịch dân sự, thƣơng mại và sử dụng nguồn vốn và tƣ liệu sản xuất để mang lại lợi nhuận cao nhất. Tuy nhiên, việc kinh doanh, buôn bán không phải lúc nào cũng thuận lợi. Thông thƣờng, lĩnh vực kinh doanh có lợi nhuận càng cao thì nguy cơ rủi ro càng lớn. Chính vì vậy, việc chia tài sản chung của vợ chồng để một bên đầu tƣ kinh doanh riêng sẽ giúp giảm thiểu ảnh hƣởng đến lợi ích chung của gia đình bởi trong trƣờng hợp việc kinh doanh gặp rủi ro thì bên kinh doanh chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản của mình. Lý do thứ hai là vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng. Theo Điều 280 BLDS năm 2005 thì nghĩa vụ dân sự đƣợc hiểu là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không đƣợc thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác. Việc thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng của vợ, chồng là việc thực hiện nghĩa vụ mà chỉ ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng phải thực hiện còn ngƣời kia không phải liên đới thực hiện. Ví dụ nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên vợ hoặc chồng thực hiện trƣớc thời kỳ hôn nhân hoặc trong thời kỳ hôn nhân nhƣng không nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu 12
- của gia đình... Nếu vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng nhƣng họ không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì vợ chồng có thể chia tài sản chung để tạo điều kiện cho ngƣời có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình. Ngoài hai lý do cụ thể trên, Luật HN&GĐ hiện hành còn ghi nhận vợ chồng có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân khi có lý do chính đáng khác. Đây là quy định mang tính mở. Luật HN&GĐ năm 2000 cũng nhƣ các văn bản hƣớng dẫn không có quy định nào để xác định trƣờng hợp nào đƣợc coi là có "lý do chính đáng khác". Trƣớc đây, tại đoạn 3 Điểm b Mục 3 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 1 năm 1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 lại có quy định về vấn đề này và lý do đƣợc coi là chính đáng là "vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng, do đó, một bên hoặc cả hai bên xin chia tài sản" [41]. Quy định này khá phù hợp với thực tiễn đời sống. Ngoài ra, nếu có lý do khác không thuộc những lý do trên nhƣng xét thấy là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, của mỗi bên vợ, chồng hoặc của ngƣời thứ ba thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, chẳng hạn nhƣ trƣờng hợp một bên vợ, chồng có hành vi phá tán, hủy hoại tài sản chung làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là nhằm giải quyết những vấn đề về kinh tế - tài sản chung của vợ chồng chứ không nhằm giải quyết vấn đề tình cảm Mục đích của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn tạo điều kiện cho vợ, chồng đầu tƣ kinh doanh riêng để tìm kiếm lợi nhuận đồng thời tránh những rủi ro có thể phát sinh làm ảnh hƣởng đến đời sống chung của gia đình. Vợ, chồng thỏa thuận hoặc yêu cầu 13
- Tòa án chia tài sản chung còn nhằm mục đích có tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng của mỗi bên. Nhƣ vậy, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là nhằm giải quyết vấn đề tài sản chứ không nhằm giải quyết vấn đề tình cảm của vợ chồng. Chủ thể có quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ có thể là vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng Theo khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ hiện hành thì trong trƣờng hợp vợ chồng không thỏa thuận đƣợc về việc chia tài sản chung thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Điều này đồng nghĩa với việc chỉ có vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu chia. Lý do đƣợc đƣa ra ở đây là bởi yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là một quyền gắn liền với nhân thân của vợ chồng, xuất phát trên cơ sở quan hệ hôn nhân hợp pháp nên quyền yêu cầu, khởi kiện của ngƣời thứ ba trong trƣờng hợp này không đƣợc pháp luật HN&GĐ thừa nhận. Quy định nhƣ vậy còn thể hiện quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung. Hình thức của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là bằng văn bản và không buộc phải được cơ quan có thẩm quyền chứng nhận Theo quy định của Luật HN&GĐ hiện hành, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có thể đƣợc thực hiện theo thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng hoặc theo quyết định của Tòa án trong trƣờng hợp vợ chồng không thỏa thuận đƣợc và có yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000 thì thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải đƣợc lập thành văn bản. Khoản 1 và khoản 2 Điều 6 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 (sau đây viết tắt là Nghị định số 70/2001/NĐ-CP) quy định cụ thể văn bản này phải ghi rõ những nội dung: Lý do chia tài sản; phần tài sản chia (bao gồm bất động sản, động sản, các quyền tài sản), trong đó cần mô tả rõ những tài sản đƣợc chia hoặc giá trị phần tài sản đƣợc chia; phần tài sản còn lại 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn