intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền xác định lại giới tính của cá nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam

Chia sẻ: Tri Lý | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:106

50
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn đã hệ thống hóa các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về Quyền xác định lại giới tính của cá nhân. Bên cạnh đó, là nêu lên thực tế áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về Quyền xác định lại giới tính của cá nhân. Ngoài ra, luận văn cũng nêu bật thực trạng (những điểm hợp lý và bất cập) của pháp luật Việt Nam về Quyền xác định lại giới tính của cá nhân và tham khảo pháp luật của các nước trên thế giới về Quyền xác định lại giới tính, chuyển đổi giới tính của cá nhân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền xác định lại giới tính của cá nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ TRÂM QUYỀN XÁC ĐỊNH LẠI GIỚI TÍNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2010
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ TRÂM QUYỀN XÁC ĐỊNH LẠI GIỚI TÍNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Am Hiểu Hà Nội – 2010
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Ngƣời cam đoan Trần Thị Trâm
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... MỤC LỤC ...................................................................................................... LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1 CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA CÁ NHÂN ..................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm chung về quyền nhân thân của cá nhân ......................... 7 1.1.1. Khái niệm nhân thân: ................................................................. 12 1.1.2 Khái niện quyền nhân thân ......................................................... 13 1.1.3. Phân loại quyền nhân thân ......................................................... 14 1.1.4 Đặc điểm quyền nhân thân .......................................................... 16 1.1.5 Bảo vệ quyền nhân thân .............................................................. 18 1.1.6 Ý nghĩa của quyền nhân thân ....................................................... 21 1.2 Khái niệm quyền nhân thân không gắn với tài sản ....................... 23 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN XÁC ĐỊNH LẠI GIỚI TÍNH CỦA CÁ NHÂN.................................................. 28 2.1. Khái niệm về giới tính ..................................................................... 28 2.2. Pháp luật về quyền xác định lại giới tính ....................................... 37 2.3 Điều kiện để xác định lại giới tính ................................................... 41 2.4 Xác định lại giới tính về mặt pháp lý ............................................... 45 CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XÁC ĐỊNH LẠI GIỚI TÍNH CỦA CÁ NHÂN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .............. 59 3.1. Thực tế áp dụng pháp luật và thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về quyền xác định lại giới tính của cá nhân ......................... 59 3.1.1. Thực tế áp dụng pháp luật về quyền xác định lại giới tính của cá nhân ..................................................................................................... 59
  5. 3.1.2 Một số hạn chế của pháp luật Việt Nam về quyền xác định lại giới tính của cá nhân ................................................................................... 67 3.2. Pháp luật một số nƣớc về quyền xác định lại giới tính của cá nhân ................................................................................................................. 75 3.3 Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới. ....... 81 KẾT LUẬN ................................................................................................. 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 95 PHỤ LỤC.................................................................................................... 98
  6. LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Luận văn Giới: Là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới. Tự nhiên và xã hội đã tạo ra và gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và nam giới các đặc điểm giới khác nhau. Bởi vậy, các đặc điểm giới rất đa dạng và có thể thay đổi được. Giới tính: Là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ. Giới tính là những đặc điểm đồng nhất mà khi chúng ta sinh ra đã có và không thể thay đổi được.[1] Với cách định nghĩa về “giới” và “giới tính” trong tài liệu tuyên truyền Luật Bình đẳng giới như trên, giới tính của con người có vẻ là một phạm trù thực tế, gần gũi và dễ hiểu với mỗi chúng ta, nhìn vào một ai đó, chúng ta có thể nói ngay rằng họ là đàn ông hay đàn bà. Dù là già hay trẻ, họ đang sinh sống ở các nước phát triển hay lạc hậu, họ giàu có hay nghèo khổ thì họ cũng chỉ thuộc hai giới tính khác nhau hoặc là nam hoặc là nữ. Từ xa xưa cho đến nay, chúng ta vẫn thừa nhận như thế và mặc nhiên gán cho mỗi con người một giới tính khi nhìn thấy họ. Có lẽ, với mỗi con người từ khi sinh ra, thì giới tính là cái xuất hiện sớm nhất và tự nhiên nhất, khi một người mẹ mang thai, cái mà người ta chờ đợi nhất, muốn biết sớm nhất không gì khác là giới tính của đứa trẻ đó. Bất kỳ người mẹ nào cũng đều mong muốn con mình có một giới tính rõ ràng, hoàn thiện để chúng có thể sống đúng với giới tính thực sự của mình. Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của y học, qua siêu âm 3D, 4D các bác sĩ có thể xác định được giới tính của đứa trẻ cho kết quả chính xác đến 90%. Nhưng tại sao không phải là 100% mà chỉ là 90%, thực tế, có nhiều bác sĩ dự đoán chưa sai một trường hợp nào về giới tính của thai nhi mà ông 1
  7. ta từng siêu âm, tuy nhiên, không một bác sĩ nào dám khẳng định 100% kết quả mình dự đoán là đúng bởi y học nói riêng và khoa học nói chung nhiều khi vẫn có những sai lầm. Qua tìm hiểm và trao đổi với các bác sĩ có kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn, khám chữa bệnh về các bệnh sinh lý, thì được biết về cơ bản giới tính của con người được hình thành rất sớm, từ khi mang thai ở tuần th12 cấu trúc sinh học bên trong của bộ phận sinh dục đã hoàn thiện, đến tuần th16 đã hoàn thiện cấu trúc bên ngoài và qua siêu âm có thể biết chính xác được giới tính của đứa trẻ là nam hay nữ. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy không phải mọi trường hợp đứa trẻ sinh ra đã hoàn thiện hoàn toàn về giới tính và biểu hiện rõ ra bên ngoài là nam hay nữ. Các chuyên gia cho biết có rất nhiều đứa trẻ mang dị tật bẩm sinh ở bộ phận sinh dục, có thể hình dáng là nam nhưng lại mang bộ phận sinh dục nữ và ngược lại, hoặc là không có bộ phận sinh dục rõ ràng…bắt buộc phải có sự can thiệp của y học mới có thể tìm lại chính xác giới tính của đứa trẻ. Các trường hợp như vậy, y học gọi đó là khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc chưa định hình rõ về giới tính. Do bị khuyết tật về giới tính, nên có rất nhiều trường hợp không được sống thật với giới tính của mình, chúng ta bắt gặp ngày một nhiều hơn các trường hợp ái nam, ái nữ hoặc thậm chí có người không có giới tính. Đời sống của những người này, gặp muôn vàn khó khăn, thử thách, chính bản thân họ cũng dày vò, bất ổn, họ bị gia đình, bạn bè xã hội lên án có nhiều trường hợp do không vượt qua được dư luận xã hội đã tìm đến cái chết. Vì vậy, họ rất cần sự cảm thông, chia xẻ và đồng cảm của gia đình, bạn bè và cả xã hội, việc thừa nhận họ là một bệnh nhân cần được y học can thiệp để trở lại chính mình là điều rất đáng làm. Ngoài việc can thiệp của y học để những người này được trở lại đúng với giới tính của mình, thì việc pháp luật và xã hội thừa nhận họ, chấp nhận việc xác định lại giới tính của họ là một quyền như bao quyền khác 2
  8. của con người là điều được quan tâm hàng đầu. Vì nếu chỉ chuyển đổi giới tính về mặt sinh học để trở lại là mình nhưng lại không được pháp luật thừa nhận, tạo những điều kiện tốt nhất để họ hòa nhập xã hội, để tiếp tục sống tốt hơn và có ý nghĩa hơn thì việc chuyển đổi chẳng có ích lợi gì. Tuy nhiên, không phải lúc nào vấn đề nhạy cảm này cũng được xem xét một cách thấu đáo, khoa học và đúng đắn. Tâm lý xã hội, truyền thống văn hóa, đạo đức con người đã ăn sâu vào tâm trí mỗi chúng ta, mỗi nền văn hóa khác nhau tạo nên một nền pháp luật khác nhau, do đó khi mà xã hội chưa thực sự thừa nhận họ, chấp nhận, cảm thông cho họ thì vô hình dung pháp luật của chúng ta cũng bị tác động. Trên thực tế những năm trước đây pháp luật Việt Nam chưa cho phép những người bị lệch lạc về giới tính, có khuyết tật về giới tính được xác định lại giới tính của mình. Vì vậy, đã có nhiều trường hợp phải tự ra nước ngoài phẫu thuật để tìm lại giới tính thật của mình, nhưng khi trở về nước, họ không được hưởng các quyền đúng với giới tính của mình (đang là nam giới chuyển thành nữ giới các quyền gắn với nhân thân là nữ) như sửa lại họ tên, giới tính… trong các giấy tờ tùy thân. Tuy nhiên, hiện nay cùng với sự phát triển của xã hội, của y học, của khoa học công nghệ, thông tin truyền thông và sự hòa nhập với thế giới ngày một mạnh mẽ thì cách nhìn của chúng ta về những người bị khuyết tật về giới tính có phần cởi mở hơn, hiểu hơn, cảm thông hơn về căn bệnh cũng như tâm lý họ phải trải qua để có thể chấp nhận họ. Đặc biệt là sự thừa nhận của pháp luật Việt Nam trong việc cho phép một số trường hợp được xác định lại giới tính của mình, việc này đã đánh dấu một bước phát triển mới trong tư duy lập pháp của chúng ta, thể hiện sự tiến bộ, theo kịp thời đại của các nhà làm luật, qua đó góp phần bảo vệ tốt nhất quyền lợi công dân cho những người này. Lần đầu tiên trong Bộ Luật Dân sự năm 2005 của nước ta có quy định riêng một Điều luật về Quyền xác định lại giới tính của cá nhân. Bên cạnh Luật 3
  9. còn có các văn bản pháp luật khác như Nghị định số 88/2008/NĐ-CP ngày 05 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ về xác định lại giới tính và Thông tư 29/2010/TT-BYT hướng dẫn Nghị định 88/2008/NĐ-CP về xác định lại giới tính do Bộ Y tế ban hành đã phần nào tạo một hành lang pháp lý cho việc xác định lại giới tính và bảo vệ được quyền lợi cho những người sau khi đã xác định lại giới tính của mình. Tuy nhiên, từ khi Bộ luật Dân sự năm 2005 nói chung và Điều 36 về quyền xác định lại giới tính cũng như các văn bản pháp luật khác nói riêng được ra đời đến nay đã được một khoảng thời gian khá dài, nhưng thực tế cho thấy những quy định trên chưa thực sự đi vào đời sống xã hội, thực trạng áp dụng pháp luật bộc lộ nhiều hạn chế. Số người đi xác định lại giới tính và làm thủ tục để được sống đúng với giới tính của mình trên thực tế là rất ít trong khi đó lượng người có vấn đề về giới tính là khá nhiều. Vậy vấn đề ở đây là gì, do các quy định pháp luật chưa thực sự phù hợp, do ý chí chủ quan từ chính bản thân họ, do xã hội vẫn còn nhiều định kiến hay do một nguyên nhân khách quan khác dẫn đến tình trạng này ? Từ việc tìm hiểu, tiếp xúc với những người bị khuyết tật về giới tính và nghiên cứu các quy định của pháp luật, theo dõi quá trình thực hiện quyền của cá nhân cho thấy có quá nhiều khó khăn, bất cập cho những người đi tìm lại giới tính của mình. Xuất phát từ sự đồng cảm, từ góc nhìn của một người học luật, làm về luật cộng với mong muốn cho xã hội có một sự công bằng, dân chủ và văn minh, đảm bảo tốt nhất quyền lợi của mỗi công dân đã thôi thúc tôi lựa chọn đề tài luận văn này. Đây là một đề tài tương đối mới, khó và phức tạp trong tất cả các khâu nhưng với lòng quyết tâm và say mê của mình, tôi mong rằng mình sẽ nghiên cứu và đưa ra được một cái nhìn thống nhất, khách quan và khoa học về “Quyền xác định lại giới tính của cá nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam” dưới hai góc độ lý luận và thực tiễn. Tuy 4
  10. nhiên vì là đề tài khoa học, do đó có rất nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, nhiều vấn đề mà với khả năng của mình tôi chưa thể hiểu và nắm bắt được hết, cũng có nhiều quan điểm đưa ra chưa chắc đã hoàn toàn đúng. Với khuôn khổ của đề tài luận văn này cũng chưa thể đưa ra được hết mọi khía cạnh liên quan đến quyền xác định lại giới tính của cá nhân. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự ủng hộ, đóng góp ý kiến từ phía các thầy cô, các nhà khoa học, y- bác sĩ, các chuyên gia pháp luật, bạn bè để có thể tiếp tục hoàn thiện được đề tài này trong tương lai. 2. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn Luận văn đã hệ thống hóa các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về Quyền xác định lại giới tính của cá nhân. Bên cạnh đó, là nêu lên thực tế áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về Quyền xác định lại giới tính của cá nhân. Ngoài ra, Luận văn cũng nêu bật thực trạng (những điểm hợp lý và bất cập) của pháp luật Việt Nam về Quyền xác định lại giới tính của cá nhân và tham khảo pháp luật cuả các nước trên thế giới về Quyền xác định lại giới tính, chuyển đổi giới tính của cá nhân. Từ đó, đưa ra các kiến nghị để hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới về Quyền xác định lại giới tính của cá nhân; Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn: Đối tượng nghiên cứu trong đề tài luận văn này là những quan điểm về quyền nhân thân của cá nhân, về quyền xác định lại giới tính của cá nhân với tư cách là quyền nhân thân không gắn với tài sản và những quy định của pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng về các quyền này. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn này tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản: - Về quyền nhân thân của cá nhân – quyền nhân thân không gắn với tài sản, 5
  11. - Quyền xác định lại giới tính của cá nhân một quyền nhân thân đặc biệt trong pháp luật dân sự Việt Nam, - Các quan điểm, quy định của pháp luật các nước trên thế giới về quyền xác định lại giới tính của cá nhân, - Thực tiễn áp dụng quyền xác định lại giới tính của cá nhân trong thời gian qua, Phƣơng pháp nghiên cứu Trong đề tài này, các phương pháp nghiên cứu đượclựa chọn là: - Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, - Phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích, - Phương pháp điều tra xã hội học: phỏng vấn, khảo sát… 3. Kết cấu của luận văn Luận văn được trình bày theo 03 phần: - Lời nói đầu - Nội dung chính - Kết luận Trong đó phần nội dung chính gồm 03 chương: Chương 1: Khái niệm chung về quyền nhân thân của cá nhân Chương 2: Thực trạng pháp luật về Quyền xác định lại giới tính của cá nhân Chương 3:Thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định lại giới tính của cá nhân và một số kiến nghị 6
  12. CHƢƠNG 1: KHÁI NIỆM CHUNG VỀ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA CÁ NHÂN 1.1. Khái niệm chung về quyền nhân thân của cá nhân Quyền xác định lại giới tính là một quyền nhân thân, nằm trong những quyền dân sự của cá nhân và cũng là một phần của quyền con người - quyền tối cao của mỗi cá nhân trong xã hội. Vì vậy, trước khi tìm hiểu kỹ hơn về quyền xác định lại giới tính của cá nhân, chúng ta cùng tìm hiểu về quyền con người, quyền dân sự và quyền nhân thân nói chung để thấy rằng quyền xác định giới tính có nguồn gốc, đặc điểm và ý nghĩa như nào. Nó giống và khác gì so với các quyền khác của cá nhân con người. Ngày nay, chúng ta thấy có khá nhiều các tài liệu viết về quyền con người của các nước khác nhau, của các tổ chức khác nhau. Mỗi tôn giáo khác nhau có những tuyên ngôn riêng về nhân quyền của mình. Cũng có không ít các tổ chức phản động trên thế giới núp bóng “con bài” nhân quyền để tiến hành các cuộc chiến tranh phi nghĩa, hàng loạt các cuộc khủng bố, tấn công, đụng độ xảy ra liên tiếp trong thời gian qua với danh nghĩa nhân quyền. Vậy, nhân quyền là gì? Nhân quyền hay quyền con ngƣời là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Mọi con người được sinh ra đều bình đẳng và được tạo hóa ban cho một số quyền không thể tước bỏ, như quyền sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc. Nhân quyền được xem là một trong mười sáng kiến làm thay đổi thế giới, cùng với nông nghiệp, phân tâm học, thuyết tương đối, vắc xin, thuyết tiến hóa, World wide web, xà phòng, số không, và lực hấp dẫn. Theo nội dung về nhân quyền trong Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì: Quan điểm của các nhà triết học thời đại khai sáng của thế kỷ 17 và 18 7
  13. cho rằng các quyền không thể tước bỏ được là các quyền tự nhiên do Tạo hóa ban cho họ. Các quyền này không bị phá hủy khi xã hội dân sự được thiết lập và không một xã hội hay một chính phủ nào có thể xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng” các quyền này. Các quyền không thể tước bỏ bao gồm các quyền tự do ngôn luận và thể hiện, quyền tự do tín ngưỡng và nhận thức, quyền tự do lập hội và quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, đây chưa phải là bản liệt kê đầy đủ các quyền mà các công dân có được trong một nền dân chủ. Các xã hội dân chủ đồng thời thừa nhận các quyền dân sự như quyền được xét xử công bằng và còn lập nên các quyền chủ chốt mà bất kỳ chính phủ dân chủ nào cũng phải duy trì. Vì các quyền này tồn tại không phụ thuộc vào chính phủ, do đó chúng không thể bị luật pháp bãi bỏ cũng như không phụ thuộc vào ý muốn nhất thời của đa số cử tri nào đó. Ví dụ như điều sửa đổi bổ sung đầu tiên của Hiến pháp Hoa Kỳ không đưa ra quyền tự do tín ngưỡng hay tự to báo chí cho dân chúng. Điều sửa đổi bổ sung đó nghiêm cấm Quốc hội thông qua các luật vi phạm tới tự do ngôn lụân, tự do tín ngưỡng và quyền hội họp ôn hòa. Nhà sử học Leonard Levy đã phát biểu: “Các cá nhân có thể tự do khi chính phủ của họ không tự do”. Các nội dung chi tiết và các thủ tục của luật pháp liên quan tới quyền con người cần phải thay đổi tùy theo xã hội, nhưng tất cả các nền dân chủ đều được giao trọng trách trong việc xây dựng các cấu trúc xã hội lập hiến, lập pháp để bảo đảm cho các quyền con người đó. Các nước lớn trên thế giới như Hoa Kỳ, Pháp cũng đã có những tuyên ngôn riêng của mình về vấn đề nhân quyền và được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo trong Bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ngày 02/9/1945. Bản tuyên ngôn viết: “Hỡi đồng bào cả nước, tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có 8
  14. quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”[2]. Tại bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc thông qua và công bố vào ngày 10 tháng 12 năm 1948 cũng đưa ra một quan điểm về các quyền con người cơ bản như quyền sống, quyền tự do và an ninh thân thể, quyền tự do lập hội, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm,...Theo bản Tuyên ngôn này, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản tuyên ngôn, dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này. Điều khoản cuối cùng của bản Tuyên ngôn có viết "Không được phép diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong Bản tuyên ngôn này theo hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hay cá nhân nào được quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hay thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm phá hoại bất kỳ quyền và tự do nào nêu trong Bản tuyên ngôn này.”[3] Ở Việt Nam, quyền con người của cá nhân được ghi nhận trong Hiến Pháp năm 1992: “ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con ngưới về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”[4]. 9
  15. Như vậy, dù có xuất phát điểm từ đâu, có mục đích hay động cơ khác nhau, thì mỗi tuyên ngôn về nhân quyền đều có chung một nội dung chính: là hướng tới sự tự do, bình đẳng, bác ái của mỗi cá nhân trong xã hội, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hành phúc là những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi con người trong xã hội. Các quyền này luôn luôn được tôn trọng và bảo vệ. Hẹp hơn quyền con người là quyền công dân, nếu như quyền con người là quyền tự nhiên, khi một người được sinh họ đã có quyền đó và được áp dụng cho tất cả mọi người không phân biệt đẳng cấp, xuất thân, giới tính, chế độ chính trị,…thì quyền công dân lại bị bó hẹp trong một khôn khổ đó là Nhà nước và pháp luật. Trong một xã hội nhất định, tồn tại một kiểu nhà nước, một chế độ chính trị, một nền pháp luật nhất định mỗi cá nhân sống trong nhà nước đó được hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ của mình đó được gọi là quyền công dân. Nó được cụ thể hoá từ quyền con người như quyền được sống thì sống ở đâu, sống như thế nào…quyền tự do thân thể, tự do ngôn luận đến đâu, theo hình thức nào…đó là các biểu biện cụ thể của quyền công dân. Nó hẹp hơn quyền con người bởi nó bị giới hạn bởi quốc gia, lãnh thổ, chế độ chính trị, nền luật pháp của mỗi nơi con người sinh sống, mang quốc tịch. Quyền công dân của mỗi nước khác nhau là khác nhau. Ví dụ như ở các nước như Anh, Pháp, Mỹ….thì 16 tuổi được công nhận là tuổi trưởng thành hay còn gọi là thành niên và họ có đầy đủ các quyền công dân như quyền ứng cử, bầu cử, quyền được uống rượu, kết hôn, lấy bằng lái xe….còn ở Việt Nam thì 18 tuổi họ mới có đầy đủ các quyền trên. Cũng như Quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam được ghi nhận đầy đủ và thống nhất trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác nhau như: Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Lao động, Luật Đất đai...Trong đó, Bộ luật Dân sự được coi là một bộ luật gốc, thể hiện 10
  16. tương đối đầy đủ về các quyền dân sự của cá nhân, điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh hàng ngày trong xã hội giữa cá nhân với nhau, quyền dân sự của cá nhân luôn luôn được tôn trọng và bảo vệ như các quyền công dân và quyền con người. Tại Điều 9 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định về Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự như sau: 1. Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. 2. Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền: a) Công nhận quyền dân sự của mình; b) Buộc chấm dứt hành vi vi phạm; c) Buộc xin lỗi, cải chính công khai; d) Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; đ) Buộc bồi thường thiệt hại.[5] Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, một loạt các quyền từ thấp đến cao, từ hạn hẹp đến rộng lớn như quyền dân sự, quyền công dân, quyền con người, đều có chung một đặc điểm là gắn với con người, hướng tới giá trị tốt đẹp của mỗi con người trong xã hội, đảm bảo cho họ được sống và hưởng đầy đủ những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Quyền nhân thân là một trong những quyền dân sự của cá nhân, gắn liền với cá nhân mỗi con người trong xã hội, nó cụ thể hoá được tất cả các quyền dân sự, quyền công dân và quyền con người…và hơn hết nó còn thể hiện các đặc tính pháp luật của mỗi quốc gia như: tính nhân văn, nhân đạo, sự văn minh, tiến bộ... Ở Việt Nam quyền nhân thân ngày một được quan tâm, tôn trọng và bảo vệ, qua các thời kỳ đổi mới, các quy định này ngày một hoàn thiện và tiến bộ hơn. Đặc biệt các quyền nhân thân mới được quy định cụ thể tại Bộ Luật Dân sự năm 2005 đã góp 11
  17. phần bảo vệ tối đa quyền lợi của công dân, thể hiện sự nhân đạo sâu sắc của pháp luật nước ta. Vậy, Quyền nhân thân được quy định như thế nào trong pháp luật Việt Nam, để tìm hiểu kỹ hơn về quy định này, chúng ta cần tìm hiểu qua về nhân thân của cá nhân, đặc điểm của nhân thân. 1.1.1. Khái niệm nhân thân: “Nhân thân của con người là tổng hợp những dấu hiệu, đặc điểm, yếu tố mang tính tự nhiên, xã hội phản ánh bản chất của mỗi con người trong chính xã hội mà người đó đang sống”. [6] Từ khái niệm trên cho thấy, nhân thân được hiểu là những thuộc tính gắn liền với mỗi con người, thể hiện đặc điểm, đặc tính riêng của từng người, qua đó có thể phân biệt được họ với những người khác như: tên gọi, giới tính, hình ảnh, hoàn cảnh xuất thân, trình độ học vấn… Nhân thân là vấn đề tương đối phức tạp, là đối tương được rất nhiều các ngành khoa học tìm hiểu, nghiên cứu như: Tâm lý học, xã hội học, tư pháp, pháp y…tuy nhiên, cho dù có những phương pháp nghiên cứu khác nhau, những kết luận khác nhau về nhân thân của một con người thì các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đều có chung một nhận định: Nhân thân là cái thuộc về tự thân, là những gì thuộc về từng con người. Những dấu hiệu, đặc điểm nhân thân đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Nó có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến đời sống của không chỉ riêng cá nhân đó mà còn tác động đến gia đình, tập thể hay toàn xã hội. Một đứa con trong gia đình có nhân thân tốt sẽ tạo nên một gia đình tốt, một gia đình có văn hóa. Mỗi học sinh có nhân thân tốt sẽ cho một lớp học tốt, một ngôi trường tốt...và nễu mỗi cá nhân trong xã hội đều có nhân thân tốt chúng ta sẽ có một xã hội văn minh, hiện đại…sẽ không còn cảnh cướp bóc, mại dâm, ma túy…vì vậy, nhân thân của cá nhân là một yếu tố quan trọng và không thể thiếu trong một xã hội hiện đại. Tuy nhiên, việc thực 12
  18. hiện các quyền liên quan đến nhân thân như thế nào lại là một vấn đề không nhỏ, không phải mọi xã hội, mọi nền văn hóa, pháp luật khác nhau đều có cái nhìn chung về việc quy định quyền nhân thân của cá nhân, công dân nước mình. Ở Việt Nam, quyền nhân thân xuất hiện từ khá sớm trong các văn bản pháp luật, qua những thời kỳ phát triển khác nhau, quyền này đã được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện ngày một đáp ứng với đòi hỏi của xã hội. Đặc biệt là những quy định mới về quyền nhân thân trong Bộ luật Dân sự năm 2005, đã đánh dấu một bước phát triển vượt bậc trong nền lập pháp của chúng ta. 1.1.2 Khái niện quyền nhân thân Kế thừa và phát huy những quy định tiến bộ từ các văn bản pháp luật trước về quyền nhân thân của cá nhân, Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 tiếp tục hoàn thiện và phát triển thêm các quyền nhân thân mới của cá nhân ngày càng đáp ứng được những nhu cầu, đòi hỏi mới của xã hội như: quyền hiến xác, hiến các bộ phận cơ thể người sau khi chết, quyền nhận bộ phận cơ thể người, quyền xác định lại giới tính, …cũng như các quyền nhân thân trước đây, những quyền này vẫn là một trong những quyền dân sự được pháp luật tôn trọng và bảo vệ như quy định tại Điều 24 Bộ luật Dân sự: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” [7]. Như vậy, pháp luật Việt Nam coi quyền nhân thân trước hết là một quyền dân sự của cá nhân và được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Về cơ bản quyền nhân thân cũng mang những đặc điểm chung như mọi quyền dân sự khác của cá nhân, tuy nhiên, vì là quyền năng gắn với nhân thân mỗi con người do đó, quyền nhân thân cũng mang những đặc điểm riêng như không thể chuyển giao, không bị định đoạt .Vậy quyền nhân thân của cá nhân có 13
  19. những đặc điểm và ý nghĩa như thế nào đối với mỗi cá nhân nói riêng và toàn xã hội nói chung, chúng ta cùng tìm hiểu ở các phần sau. 1.1.3. Phân loại quyền nhân thân Có nhiều cách phân loại quyền nhân thân, tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu nghiên cứu, tìm hiểu khác nhau mà người ta có những cách phân loại quyền nhân thân khác nhau. Nếu căn cứ vào chủ thể có quyền trong quyền nhân thân (tư cách quan hệ luật pháp) người ta có thể phân loại quyền nhân thân thành quyền nhân thân của chủ thể là cá nhân và quyền nhân thân của những chủ thể khác. Cá nhân là chủ thể nguyên sinh, đầu tiên cơ bản nhất của các quan hệ dân sự, suy cho cùng thì các chủ thể khác khi tham gia vào các quan hệ dân sự cũng phải thông qua hành vi của các cá nhân - con người, hầu hết các giá trị nhân thân quan trọng trong xã hội được pháp luật dân sự quy định, bảo vệ là những giá trị nhân thân của các cá nhân, đề cập đến các giá trị nhân thân của các chủ thể khác không nhiều, trong khoa học pháp luật dân sự Việt Nam cho đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu về quyền nhân thân của các cá nhân chứ không nói gì đến quyền nhân thân của các chủ thể khác, có lẽ là do điều kiện kinh tế xã hội hiện tại chỉ cho phép chúng ta quy định, bảo vệ chủ yếu là các quyền nhân thân của cá nhân chứ chưa đủ để có thể quy định nhiều hơn về quyền nhân thân của các chủ thể khác. Các chủ thể khác như các tổ chức, pháp nhân cũng có các giá trị nhân thân được pháp luật dân sự quy định như uy tín, tên riêng,…của tổ chức đó, nhưng có thể nói là chưa nhiều. Một cách phân loại khác là tuỳ theo phạm vi điều chỉnh của các ngành luật khác nhau mà ta có những quyền nhân thân thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hình sự, và các quyền nhân thân thuộc phạm vi điều chỉnh của luật dân sự,...cách phân loại này giúp chúng ta thấy rằng quyền nhân thân là một vấn đề rất rộng, nó có thể thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật khác 14
  20. nhau chứ không phải thuộc riêng đối tượng điều chỉnh của bất cứ ngành luật này, hơn nữa trong đời sống thực tế thì cùng là một giá trị nhân thân nhưng mỗi ngành luật lại có mức độ quy định, điều chỉnh, bảo vệ khác nhau, ví dụ cùng là những hành vi xâm phạm danh dự của cá nhân nhưng có thể được điều chỉnh bằng các quy phạm đạo đức, cũng có thể được xử lý theo các chế tài dân sự, hoặc nặng hơn là có thể bị xử lý theo chế tài hình sự, tuỳ thuộc vào tính chất của hành vi vi phạm và mức độ vi phạm. Từ đó mà có những cách nhìn, cách tiệm cận khác nhau đối với những vấn đề của một quyền nhân thân cụ thể, và xác định chính xác những ngành luật nào sẽ điều chỉnh những vấn đề quyền nhân thân như thế nào, với mức độ ra sao mà có hướng xử lý thích hợp. Một cách phân loại phổ biến nhất trong khoa học pháp luật dân sự là cách phân loại dựa trên tính chất của các quan hệ nhân thân mà chúng ta có các quan hệ nhân thân gắn với tài sản và các quan hệ nhân thân không gắn với tài sản. Quan điểm này đã được thể chế hóa trong khoản 1 điều 15 BLDS 2005: “Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản”. Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản là các quan hệ giữa người về những giá trị nhân thân tồn tại độc lập không liên quan gì tới tài sản như các quan hệ về danh dự, về tên gọi của cá nhân, tổ chức, quan hệ về dân tộc của cá nhân,…Các quan hệ nhân thân gắn với tài sản là các quan hệ giữa người với người về các giá trị nhân thân mà xác lập nó sẽ làm phát minh các quyền tài sản. Trong quan hệ này thì quyền nhân thân là tiền đề làm phát sinh các quyền tài sản khi có những sự kiện pháp lý nhất định. Điển hình nhất trong số các quyền nhân thân gắn với tài sản là quyền tác giả các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật… Như vậy, có nhiều cách để phân loại quyền nhân thân, dựa vào các tiêu chí khác nhau có thể phân thành các quyền nhân thân khác nhau, song cho dù 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2